Bản án về tội giết người số 134/2020/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI

BẢN ÁN 134/2020/HS-PT NGÀY 05/05/2020 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Ngày 05 tháng 5 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự Thụ lý số 971/2019/TLPT-HS ngày 05 tháng 12 năm 2019 đối với bị cáo Phạm Văn H do có kháng cáo của bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 348/2019/HS-ST ngày 04 tháng 11 năm 2019 của Tòa án nhân dân thành phố N.

* Bị cáo có kháng cáo, bị kháng cáo:

Phạm Văn H, sinh năm 1984; nơi ĐKHKTT và chỗ ở: thôn Đ, xã K, huyện Đông A, thành phố N; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ văn hóa: Lớp 12/12; nghề nghiệp: Lái xe taxi; tham gia Đảng, đoàn thể: Không; con ông Phạm Văn G và bà Nguyễn Thị T; có vợ là Đào Thị T và 03 con, con lớn nhất sinh năm 2008, con nhỏ nhất sinh năm 2014; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo đầu thú và bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 30/12/2018, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số 1, Công an thành phố N;có mặt.

* Người đại diện hợp pháp của bị cáo có kháng cáo: Chị Đào Thị T, sinh năm 1985; nơi cư trú: thôn Đ, xã K, huyện Đông A, thành phố N; có mặt.

* Người bào chữa cho bị cáo Phạm Văn H: Luật sư Hoàng Ngọc Thanh B - Văn phòng luật sư Đặng Sơn và cộng sự thuộc Đoàn luật sư thành phố Hà Nội; có mặt.

Ngoài ra, trong vụ án còn có người bị hại không kháng cáo, Tòa án không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Phạm Văn H (sinh năm 1984) và anh Nguyễn Văn Thuận (sinh năm 1987) cùng trú tại thôn Đ, xã K, huyện Đông A, Hà Nội trước đây cùng làm tại Công ty HSC trong khu công nghiệp Thăng Long. Năm 2013, H bị Công ty cho nghỉ việc. Đến tháng 4/2018, H làm lái xe taxi cho hãng Group. Sau khi không làm tại Công ty HSC, H cho rằng anh Thuận hay nói xấu H với mọi người, làm ảnh hưởng uy tín của H nên nhiều lần gọi điện thoại cho anh Thuận để hỏi nhưng anh Thuận không nghe máy.

Khoảng 09 giờ 45 phút ngày 30/12/2018, khi ngồi chơi tại quán nước của anh Nguyễn Ngọc Tú ở thôn Đ, xã K, huyện Đông A, anh Thuận kiểm tra điện thoại thấy có 03 cuộc gọi nhỡ của H từ 05 ngày truớc nên đã gọi lại cho H hỏi gọi có việc gì. Lúc này, H đang ăn sáng và uống rượu ở thôn Sơn Du, xã K, huyện Đông A thì nhận được điện thoại của anh Thuận nên đã trả lời “Mày cứ nói xấu tao làm tao phải nghỉ việc”. Anh Thuận nói lại “Tao không dây với mày”. Bực tức thái độ của anh Thuận nên H hỏi anh Thuận đang ở đâu thì được anh Thuận nói đang ở quán nước của anh Tú. Do muốn gặp anh Thuận để nói chuyện và đánh trả thù nên H điều khiển xe ô tô taxi hiệu Toyota Innova của hãng Group, biển kiểm soát 30A-805.92 đi từ quán ăn ở thôn Sơn Du đến quán nước của anh Tú ở thôn Đ, xã K để gặp anh Thuận. Khi đến nơi, H thấy anh Thuận đang ngồi ở ghế trong quán nước của anh Tú; ngồi đối diện với anh Nguyễn Văn Tân (sinh năm 1985; trú tại thôn Đ, xã K, huyện Đông A, Hà Nội).

H mở hộp chứa đồ phía trước của ghế phụ lấy 01 con dao nhọn, loại dao gọt hoa quả dài 22cm, cán gỗ dài 11cm, lưỡi dao nhọn bằng kim loại sáng màu dài 11cm, bản rộng 02cm cất vào túi áo khoác bên trái và lấy 01 chiếc dùi cui điện bằng inox dạng 03 khúc, dài khoảng 70cm, đường kính khoảng 04cm cầm trên tay phải rồi xuống xe đi về phía anh Thuận ngồi. Tới nơi, H bấm nút công tắc dùi cui điện để phát ra tiếng nổ “tạch, tạch” và dí người anh Thuận. Anh Thuận vùng đứng dậy thì bị H cầm dùi cui điện vụt 01 cái vào đầu làm anh Thuận bị choáng, còn chiếc dùi cui bị gãy làm 04 đoạn. Anh Thuận đứng dậy tiến đến chỗ H và đẩy H ngã xuống đất. Anh Thuận ngồi trên người H để giằng co thì H dùng tay trái lấy con dao ở túi áo ra và chuyển dao sang cầm tay phải đâm liên tiếp 03 nhát vào vùng mạn sườn trái của anh Thuận. Anh Thuận bị đâm, thấy đau nhói ở mạn sườn nên buông tay ra không giằng co với H nữa, anh Thuận đúng dậy thấy bụng và sườn chảy nhiều máu nên đã nhờ anh Tân lấy xe máy chở về nhà. Sau khi đâm anh Thuận xong, H đứng dậy thấy lòng bàn tay phải cầm dao bị rách chảy máu, trên cán dao có dính máu nên cầm con dao đi ra xe ô tô nổ máy và điều khiển xe đi tới Bệnh viện Bắc Thăng Long khâu vết thương ở tay phải. Sau đó, H đến Công an xã K để tự thú và giao nộp con dao đã sử dụng đâm anh Thuận cùng chiếc xe ô tô hiệu Toyota Innova biển kiểm soát 30A-805.92.

Sau khi về nhà, anh Thuận được mọi người đưa đến Bệnh viện Xanh Pôn cấp cứu và điều trị từ ngày 30/12/2018 đến ngày 02/01/2019 sau đó tiếp tục chuyển điều trị tại Bệnh viện Việt Đức từ ngày 02/01/2019 đến ngày 14/01/2019. Do được cấp cứu và điều trị kịp thời nên anh Thuận không bị tử vong.

Sau khi xảy ra sự việc, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đông A phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông A đã tổ chức khám nghiệm hiện trường, thu giữ các dấu vết và vật chứng liên quan, giám định thương tích của bị hại kết quả như sau:

Tại Biên bản khám nghiệm hiện trường vụ án lập hồi 13h00 ngày 30/12/2018, thể hiện:

"... Hiện trường nơi xảy ra vụ việc được xác định tại đường trước cổng nhà văn hóa thôn Đ, xã K, huyện Đông A, thành phố N.

Tại nền quán khu vực chân bàn nhựa nơi anh Thuận ngồi, thu giữ một mảnh nhựa, bọc kim loại, hình trụ có đường kính 3,5cm; dài 13,5cm; một thanh nhựa đường kính 1cm, dài 14cm, một mảnh nhựa, bọc kim loại; hình trụ có đường kính 4cm, dài 13cm, một mảnh nhựa kích thước (20,5x7)cm, dạng tay nắm có gắn đèn, bề mặt có dòng chữ “TW-09, Made in China”.

Tại lề đất và tại mép đường bên trái theo chiều Bắc - Nam nơi diễn ra việc vật lộn thu giữ các dấu vết nghi là máu khô; kiểm tra bên trong xe ô tô hiệu Toyota Innova biển kiểm soát 30A-805.92 phát hiện tại khu vực mặt trên nhựa ốp phanh tay và hốc để đồ có bám dính các chất màu nâu đỏ (nghi là máu) trên diện (36x21)cm.

Tại Kết luận giám định pháp y thương tích số 06/C09-TT1 ngày 07/01/2019 của Viện khoa học hình sự - Bộ Công an kết luận: “... Anh Nguyễn Văn Thuận bị đa vết thương phần mềm vùng ngực bụng trái gây vết thưong tim, thủng cơ hoành, rách mạc nối lớn, đứt bán phần tĩnh mạch vị mạc nối trái, rách bao đuôi tụy không tổn thương nhu mô, rách thanh cơ hỗng tràng sát bờ mạc treo đã được phẫu thuật. Tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể:

- Vết thương tim, đang điều trị: 31%.

- Thủng cơ hoành trái, đã khâu phục hồi: 21%.

- Rách mạc nối lớn, rách thanh cơ hỗng tràng sát bờ mạc treo, đã khâu:

26%.

08%.

- Vết thương vùng ngực trái, đã khâu: 02%.

- Vết thương vùng hạ sườn trái (trên đường nách trước), đã khâu: 02%.

- Vết thương vùng hạ sườn trái (trên đường nách giữa), đã khâu: 02%.

- Vết mổ kích thước nhỏ vùng ngực trái đã khâu: 03%.

- Vết mổ kích thước lớn vùng bụng đường trắng giữa trên và dưới rốn:

- 03 vết dẫn lưu hạ sườn và mạn sườn trái: Mỗi vết 01%.

Tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích của anh Nguyễn Văn Thuận tại thời điểm giám định là: 68% (sáu mươi tám phần trăm).

Cơ chế hình thành thương tích: Các tổn thương vùng ngực, bụng của anh Nguyễn Văn Thuận do vật sắc nhọn gây nên”.

Tại Kết luận giám định số 364/C09(TT3) ngày 05/3/2019 của Viện khoa học hình sự - Bộ Công an kết luận:

“- Trên con dao có bám dính máu của Phạm Văn H.

- Chất màu nâu đỏ ghi thu tại vùng chất màu nâu đỏ trên đường bê tông là máu của Phạm Văn H.

- Chất màu nâu đỏ ghi thu tại vị trí có nhiều dấu giày là máu lẫn của Phạm Văn H và anh Nguyễn Văn Thuận”.

Quá trình điều tra, Phạm Văn H khai năm 2017, bị bệnh tâm thần phải đi khám tại Bệnh viện tâm thần Hà Nội và đề nghị được đi giám định tâm thần.

Tại Kết luận giám định pháp y tâm thần số 329/KLGĐ ngày 18/9/2019 của Viện pháp y tâm thần Trung ương kết luận: “Trước, trong khi thực hiện hành vi phạm tội và tại thời điểm giám định bị can Phạm Văn H bị bệnh rối loạn loại phân liệt theo phân loại bệnh quốc tế lần thứ 10 năm 1992. Bệnh có mã số F21. Trước, trong khi thực hiện hành vi phạm tội và hiện tại bệnh ở giai đoạn thuyên giảm. Bị can hạn chế khả năng nhận thức và điều khiển hành vi”.

Trong quá trình xô xát với anh Thuận, Phạm Văn H đã bị thương tích ở bàn tay phải khâu 03 mũi. Quá trình điều tra, H từ chối giám định thương tích nên Cơ quan điều tra không đề cập việc xử lý.

Về nguồn gốc của chiếc dùi cui điện, là công cụ do H sử dụng đánh anh Thuận: Phạm Văn H khai mua trên mạng của một người không quen biết. Do đó ngày 19/4/2019, Phòng Cảnh sát hình sự Công an thành phố N đã quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với Phạm Văn H về hành vi sử dụng vũ khí, công cụ hỗ trợ không có giấy phép theo quy định tại Nghị định số 167/2013/NĐ-CP ngày 11/12/2013 của Chính phủ.

Đối với chiếc xe ô tô taxi hiệu Toyota Inova biển kiểm soát 30A-805.92 do Cơ quan điều tra tạm giữ của Phạm Văn H. Kết quả điều tra xác định chiếc xe ô tô trên thuộc sở hữu hợp pháp của Công ty cổ phần quản lý đầu tư và phát triển (hãng taxi Group). Do đó, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đông A đã ra quyết định xử lý vật chứng trả cho anh Nguyễn Thanh Sơn là người đại diện hợp pháp của Công ty cổ phần quản lý đầu tư và phát triển (hãng taxi Group).

Về trách nhiệm dân sự: Anh Nguyễn Văn Thuận yêu cầu Phạm Văn H phải bồi thường số tiền 322.827.000 đồng và đề nghị xử lý H theo quy định của pháp luật.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 348/2019/HSST ngày 04/11/2019 của Tòa án nhân dân thành phố N đã quyết định áp dụng khoản 2 Điều 123; điểm q, r, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 15; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015; xử phạt bị cáo Phạm Văn H 12 (mười hai) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 30/12/2018.

Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 48 Bộ luật hình sự năm 2015; các Điều 584, Điều 590 Bộ luật dân sự năm 2015; buộc bị cáo Phạm Văn H phải bồi thường thiệt hại cho người bị hại anh Nguyễn Văn Thuận số tiền là 233.400.000 (hai trăm ba mươi ba triệu bốn trăm nghìn) đồng.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, án phí và thông báo quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 12/11/2019, bị cáo Phạm Văn H kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Ngày 14/11/2019, người đại diện hợp pháp của bị cáo là chị Đào Thị Thu kháng cáo đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo Phạm Văn H.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Phạm Văn H và đại diện cho bị cáo là chị Đào Thị Thu giữ nguyên nội dung kháng cáo xin giảm nhẹ mức hình phạt cho bị cáo. Chị Đào Thị Thu trình bày về việc đã thay bị cáo nộp số tiền 51.870.000 đồng tại Biên lai số AA/2017/0002486 ngày 18/02/2020 của Cục Thi hành án dân sự thành phố N để bồi thường cho người bị hại và đã nộp đủ tiền án phí dân sự sơ thẩm, án phí hình sự sơ thẩm; ngoài ra chi Thu còn trình bày gia đình bị cáo có tiền sử bị bệnh tâm thần, bố mẹ chồng làm nông nghiệp, chị Thu là công nhân lại có ba con nhỏ nên kinh tế rất khó khăn; bác ruột chị Thu là Liệt sỹ chưa có vợ con nên bố đẻ chị hiện là người thờ cúng liệt sỹ. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét để giảm hình phạt cho bị cáo để sớm được trở về chữa bệnh cũng như chăm sóc bố mẹ già, con nhỏ.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội kết luận: Về chấp hành các quy định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng cũng như của Hội đồng xét xử đúng các quy định của pháp luật tố tụng.

Về áp dụng pháp luật: Cấp sơ thẩm truy tố và xét xử hành vi phạm tội bị cáo theo khoản 2 Điều 123 Bộ luật hình sự là chưa chính xác, nhưng do giới hạn của việc xét xử phúc thẩm và có lợi cho bị cáo nên cần rút kinh nghiệm chung. Tại bản án sơ thẩm áp dụng điểm r khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự (tình tiết tự thú) cũng là không đúng vì khi phạm tội có sự chứng kiến của nhiều người, bị cáo đến Công an xã K chỉ là đầu thú khai nhận hành vi phạm tội của mình. Quá trình chuẩn bị xét xử phúc thẩm, gia đình bị cáo nộp số tiền bồi thường khắc phục hậu quả 40 triệu đồng và tiền án phí dân sự, án phí hình sự sơ thẩm tổng cộng là 51.870.000 đồng nên cần được áp dụng điểm b khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Tại phiên toà, đại diện cho bị cáo còn trình bày gia đình của bị cáo có tiền sử về bệnh tâm thần, bố mẹ chồng làm nông nghiệp, chị Thu là công nhân lại có ba con nhỏ nên kinh tế rất khó khăn; bác ruột chị Thu là Liệt sỹ chưa có vợ con nên bố đẻ chị hiện là người thờ cúng liệt sỹ. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận để giảm một phần hình phạt cho bị cáo để sớm trở về chữa bệnh cũng như chăm sóc bố mẹ già, con nhỏ.

Luật sư bào chữa cho bị cáo Phạm Văn H trình bày bản luận cứ: Nhất trí với kết luận của vị đại diện Viện kiểm sát tại phiên toà; đề nghị Hội đồng xét xử xem xét thêm về việc bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải và đã tác động gia đình khắc phục một phần hậu quả; bị cáo có nhân thân tốt; phạm tội khi thần kinh không ổn định để áp dụng Điều 54 Bộ luật hình sự, giảm nhẹ hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt cho bị cáo sớm trở về làm công dân có ích cho gia đình, xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Đơn kháng cáo của bị cáo và người đại diện hợp pháp của bị cáo làm trong hạn nên được chấp nhận để xem xét.

Tại phiên toà đại diện cho bị cáo xuất trình Biên lai thu tiền bồi thường, tiền án phí dân sự sơ thẩm, án phí hình sự phúc thẩm của Cục thi hành án dân sự thành phố N nên được chấp nhận để xét.

[2] Về nội dung: Tại phiên toà phúc thẩm hôm nay, bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như bản án sơ thẩm đã xác định về việc:

Do nghi ngờ anh Nguyễn Văn Thuận nói xấu mình với người khác nên Phạm Văn H bực tức, nảy sinh ý định đánh anh Thuận để trả thù. Khoảng 9 giờ 45 phút ngày 30/12/2018, sau khi liên lạc qua điện thoại, biết anh Thuận đang ngồi tại quán nước của anh Nguyễn Ngọc Tú ở gần nhà văn hóa thôn Đ, xã K, huyện Đông A, thành phố N, H đã đi xe ô tô taxi hiệu Toyota Inova biển kiểm soát 30A-805.92 đến gặp anh Thuận. Khi đến quán của anh Tú, H lấy trên xe ô tô 01 con dao dạng dao gọt hoa quả cất vào túi áo và lấy 01 dùi cui điện cầm tay phải đi đến chỗ anh Thuận đang ngồi trong quán. H dùng dùi cui điện dí vào người anh Thuận và đập vào đầu anh Thuận làm chiếc dùi cui bị gẫy. Anh Thuận đẩy H ngã xuống đất và ngồi đè lên trên người H để giằng co. H rút con dao gọt hoa quả ở trong người ra và cầm dao ở tay phải đâm anh Thuận 03 nhát vào vùng mạn sườn trái của anh Thuận làm anh Thuận bị thương nặng. Do được mọi người đưa đến Bệnh viện Xanh Pôn và Bệnh viện Việt Đức cấp cứu và điều trị kịp thời nên anh Thuận không tử vong nhưng bị thương tích với tỷ lệ 68%.

Sau khi phạm tội, Phạm Văn H đã đến Công an xã K đầu thú, khai nhận hành vi phạm tội và giao nộp tang vật. Đây là hành vi “đầu thú” chứ không phải “tự thú” như Toà án cấp sơ thẩm đã xác định. Do vậy cấn chấp nhận đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội để không áp dụng tình tiết giảm nhẹ này mới đúng.

Mặt khác, Toà án cấp sơ thẩm đã nhận định hành vi phạm tội của bị cáo Phạm Văn H là rất nghiêm trọng, tác động đến vùng trọng yếu trên cơ thể anh Thuận; đã xâm phạm sức khoẻ, tính mạng của người khác được pháp luật bảo vệ, ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an trên địa bàn Thủ đô lẽ ra cần áp dụng khoản 1 để xét xử mới chính xác nhưng tại bản án sơ thẩm đã áp dụng khoản 2 Điều 123 Bộ luật hình sự đối với bị cáo là có lợi cho bị cáo nên được giữ nguyên. Khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử cấp sơ thẩm đã xem xét và xác định bị cáo thành khẩn khai nhận về hành vi phạm tội của mình; ăn năn hối cải; nhân thân chưa có tiền án, tiền sự; phạm tội chưa đạt; bị cáo là người có bệnh bị hạn chế về khả năng nhận thức và điều khiển hành vi; gia đình bị cáo có hoàn cảnh khó khăn để tuyêt phạt bị cáo 12 năm tù là phù hợp.

Tuy nhiên, tại phiên toà phúc thẩm bị cáo tiếp tục tỏ ra ăn năn hối cải đối với hành vi và hậu quả đã gây ra cho bị hại và chỉ xin giảm nhẹ hình phạt; bị cáo đang bị tạm giam nhưng đã tác động với gia đình bồi thường cho người bị hại; mặc dù hoàn cảnh gia đình bị cáo rất khó khăn nhưng đã cố gắng khắc phục để nộp 51.870.000 triệu đồng (tại Biên lai số AA/2017/0002486 ngày 18/02/2020 của Cục thi hành án dân sự thành phố N) là số tiền bồi thường một phần sức khoẻ cho bị hại, tiền án phí dân sự và hình sự sơ thẩm mà bản án cấp sơ thẩm đã quyết định. Do vậy cần ghi nhận để áp dụng thêm tình tiết quy định tại điểm b khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự để sửa án sơ thẩm, giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo và điều chỉnh số tiền bị cáo còn phải bồi thường cho người bị hại.

Tại phiên toà, đại diện cho bị cáo còn trình bày gia đình của bị cáo có tiền sử về bệnh tâm thần, bố mẹ chồng làm nông nghiệp, chị Thu là hiện công nhân đang phải nuôi ba con nhỏ nên kinh tế rất khó khăn; bác ruột chị Thu là Liệt sỹ chưa có vợ con nên bố đẻ chị hiện là người thờ cúng liệt sỹ. Chị Thu đề nghị Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận để giảm một phần hình phạt cho bị cáo để sớm trở về chữa bệnh cũng như chăm sóc bố mẹ già, con nhỏ. Những tình tiết này đều được vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội kết luận và đề nghị nên được Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận.

Tại phiên toà phúc thẩm Luật sư bào chữa cho bị cáo đề nghị áp dụng Điều 54 để xử phạt bị cáo dưới mức thấp nhất của khung hình phạt là không có cơ sở nên không được chấp nhận như đã nhận định trên.

[3] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ khi hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[4] Bị cáo kháng cáo được chấp nhận nên không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự.

Chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Phạm Văn H và kháng cáo của đại điện hợp pháp của bị cáo là chị Đào Thị T. Sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 348/2019/HS-ST ngày 04/11/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội, cụ thể:

1. Tuyên bố bị cáo Phạm Văn H phạm tội “Giết người”.

2. Về điều khoản áp dụng và hình phạt:

Áp dụng khoản 2 Điều 123; điểm b, q, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 15; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Phạm Văn H 10 (mười) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt ngày 30/12/2018.

3. Về trách nhiệm dân sự:

Áp dụng Điều 48 Bộ luật hình sự năm 2015;các Điều 584, Điều 590 Bộ luật dân sự năm 2015.

Buộc bị cáo Phạm Văn H phải bồi thường thiệt hại cho người bị hại anh Nguyễn Văn T số tiền là 233.400.000 đồng. Xác nhận bị cáo đã bồi thường số tiền 40.000.000 đồng, còn phải bồi thường tiếp số tiền 193.400.000 (một trăm chín mươi ba triệu bốn trăm nghìn) đồng.

3. Án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Phạm Văn H không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.

Ghi nhận bị cáo đã nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và 11.670.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm tại Biên lai số AA/2017/0002486 ngày 18/02/2020 của Cục thi hành án dân sự thành phố Hà Nội.

4. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ thời điểm hết thời hạn kháng cáo kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

373
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội giết người số 134/2020/HS-PT

Số hiệu:134/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;