Bản án về tội giết người số 13/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH P

BẢN ÁN 13/2024/HS-ST NGÀY 22/03/2024 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Ngày 22 tháng 3 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân, tỉnh P xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 04/2024/TLST-HS ngày 10 tháng 01 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 37/2024/QĐXXST- HS ngày 07 tháng 3 năm 2024 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lê Văn N; tên gọi khác: Không; giới tính: Nam; sinh năm 1970 tại huyện L, tỉnh H; Nơi cư trú: khu 5, xã Đ, huyện T, tỉnh P; quốc tịch Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 09/12; Bố đẻ: Lê Văn G (đã chết); mẹ đẻ: Đặng Thị Đ, sinh năm 1945; anh, chị em ruột: Có 07 người, bị cáo là con thứ nhất; Vợ: Phạm Thị C (đã ly hôn); vợ: Nguyễn Thị Đ1, sinh năm 1982; con: 01 con; sinh năm 2017; tiền án, tiền sự: Không;

- Nhân thân: Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 3113 ngày 21/9/2023 của UBND huyện T phạt 15.000.000đ đối với Lê Văn N về hành vi chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng trái phép các loại vũ khí có tính năng, tác dụng tương tự súng săn, vũ khí thô sơ, vũ khí thể thao hoặc các chi tiết , cụm chi tiết để sản xuất, chế tạo vũ khí, công cụ hỗ trợ có tính năng, tác dụng tương tự.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 25/8/2023 đến nay, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh P.

(Bị cáo có mặt) Luật sư bào chữa cho bị cáo: Luật sư Nguyễn Bá L - Văn phòng luật sư Đ - Đoàn luật sư tỉnh P (vắng mặt) Địa chỉ: Khu 1A, phường V, thành phố V, tỉnh P

Bị hại: Bà Nguyễn Thị Đ, sinh năm 1963 (có mặt) TT: Khu H, xã M, huyện T, tỉnh P

Người có làm chứng 1.Chị Nguyễn Thị Đ1, sinh năm 19982 (có mặt) TT: Khu 5, xã Đ, huyện T, tỉnh P 2.Ông Nguyễn Đức Tú, sinh năm 1964 (có mặt) TT: Khu H, xã M, huyện T, tỉnh P 3.Cháu Phạm Thị Lan Anh, sinh năm 2003 (có mặt) TT: Khu 9, xã Hoàng Cương, huyện T, tỉnh P

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lê Văn N và chị Nguyễn Thị Đ1, sinh năm 1982 ở khu 5 xã Đ, huyện T, tỉnh P kết hôn với nhau năm 2021. Do mâu thuẫn vợ chồng nên chị Đ1 đã làm đơn xin ly hôn đến Tòa án nhân dân huyện T và bỏ đi khỏi nhà. N cho rằng cô ruột của chị Đ1 là bà Nguyễn Thị Đ, sinh năm 1963, trú tại khu H, xã M, huyện T, tỉnh P đã ly gián, bao che các mối quan hệ bất chính của chị Đ1 và xúi giục chị Đ1 ly hôn với mình. Ngày 21/8/2023, khi N bị ốm, ở nhà chỉ có một mình không có ai chăm sóc, N uất ức muốn trả thù bà Đ.

Do trước đó N đã có một thời gian ở nhà bà Đ nên biết được tại cửa phòng vệ sinh nhà bà Đ có 01 ổ cắm điện nên N nảy sinh ý định dùng điện lưới sinh hoạt chích điện vào bà Đ để trả thù. Vì vậy, khoảng 0h ngày 24/08/2023, khi thấy trời có mưa, xác định đường vào nhà bà Đ sẽ không có người qua lại, chó không cắn, N đã chuẩn bị dây cáp viễn thông (dây cáp có vỏ ngoài mầu đen loại 3 sợi, 1 sợi bằng kim loại, 2 sợi còn lại bằng thủy tinh dài 19,8m), cây sào tre dài 4,1m đường kính phần gốc chỗ to nhất là 2,7cm; 01 phích cắm điện bằng nhựa trong màu nâu đen nối sẵn đoạn dây điện vỏ màu đỏ loại 1 sợi dài 10cm (1 đầu nối vào 1 chân phích cắm, đầu còn lại có ống gen mầu trắng bọc bên ngoài), 01 đôi găng tay vải màu trắng cũ, 01 áo vải nữ, loại áo 2 dây màu đen, cuộn băng dính màu đen, 01 bật lửa ga, 01 đèn chiếu sáng loại đội đầu, với mục đích đi đến nhà bà Đ, đấu nối vào đường điện lưới sinh hoạt của nhà bà Đ để dung chích điện giật bà Đ.

Sau khi chuẩn bị xong công cụ, phương tiện, N gọi con trai là Lê Thiên Ân, sinh năm 2017 dậy đi cùng (cháu Ân là con riêng của N, N đưa cháu Ân đi cùng vì sợ cháu Ân tỉnh giấc không thấy bố sẽ lo lắng), lúc này trời đang mưa. N đeo găng tay, mặc quần dài, áo dài kiểu rằn ri, bên ngoài mặc áo mưa bằng nilon màu xanh; chân đi ủng bằng cao su; đầu đội mũ bảo hiểm loại mũ nửa đầu màu hồng, phía trên mũ có gắn 01 chiếc đèn chiếu sáng. N dùng 01 tay điều khiển xe mô tô Honda Wave RSX màu đỏ đen BKS: 90H – 50xx (đăng ký xe mang tên Lê Văn N), N để cháu Ân ngồi phía trước chui trong áo mưa, mặt quay về phía N; 01 tay cầm sào tre đi từ nhà đi qua dốc Chìa Vôi thuộc xã Hanh Cù, T, P đi ra khu vực gần ga tàu Vũ Ẻn thuộc xã M, huyện T, tỉnh P.

Đến khoảng 03 giờ ngày 24/8/2023, N đi đến khu H, xã M, huyện T, N dựng xe ở phía đường bê tông giáp đường tàu và bảo cháu Ân con trai ngồi chờ N đi kích giun. N cầm các công cụ đã chuẩn bị nêu trên đi theo đường bờ ao (thường gọi là ao Ngõa) để đến nhà bà Đ. Khi đi qua bờ ao, N nhặt 01 đoạn dây cáp viễn thông màu đen dài 17,4 m, giống dây cáp viễn thông mà N mang theo, N rửa đoạn dây điện, dùng tay bóc phần vỏ nhựa ở hai đầu dây để hở đầu lõi thép và cuộn tròn gọn lại (N khai dây cáp nằm ở dưới ao có 1 đầu thò lên. Cơ quan điều tra đã làm việc với chủ ao cá và xác định tại ao cá không có đoạn dây này như N khai). N đi từ bờ ao theo đường bê tông qua cổng nhà bà Đ và đi vào ngõ sau nhà bà Đ. N trèo qua tường rào đột nhập vào phía sau nhà bà Đ. N nhìn thấy cửa sổ phòng ngủ bà Đ mở cửa, trong phòng bật bóng đèn ngủ, bà Đ đang nằm ngủ trên giường. N đi ra đầu đốc nhà thực hiện việc đấu nối các đoạn dây cáp viễn thông (đấu nối sợi kim loại) vào nhau, đấu nối vào phích cắm điện, lấy sợi dây kim loại trên ngọn cây sắn của nhà bà Đ rồi buộc vào đầu cây sào và đấu nối dây điện vào sợi dây kim loại này, lấy chiếc áo vải màu đen ướt nước cuốn buộc phía ngoài mục đích để truyền dẫn điện được tốt và khi đưa qua cửa sổ nếu chạm vào song sắt cửa sổ sẽ không phát ra tia lửa điện, khi tiếp xúc vào người bà Đ sẽ không để lại dấu vết trên cơ thể. Sau khi đấu nối xong công cụ gây án, N đã cắm phích cắm điện vào ổ cắm điện trên tường phía trước nhà vệ sinh của nhà bà Đ và kiểm tra xác định có điện hay không bằng cách sờ vào ống gen ở vị trí đấu nối gần phích cắm, khi thấy tê tê ở đầu tay tức là có điện, sau khi xác định đã có dòng điện ở dây kim loại, N cầm cây sào đã được buộc, nối dây kim loại có dòng điện ở đầu cây sào luồn qua song cửa sổ vị trí ở đầu giường bà Đ đang nằm đắp chăn, đưa cây sào qua màn về phía chân của bà Đ để cho điện giật vào chân bà Đ, Lúc này bà Đ đang nằm ngủ trên giường bên cạnh cháu Nguyễn Thị Ngọc My, sinh năm 2019 (là cháu ngoại của chị Đ1), bà Đ nghe thấy tiếng động ở cửa sổ thì tỉnh giấc thấy có người đứng ngoài của sổ chọc cây sào đưa vào trong màn gần chân mình, nên bật giậy bước xuống nền nhà hướng mặt về cửa sổ thì bị N dùng đầu cây sào có dòng điện chọc vào vùng hõm ngực khiến bà Đ bị điện giật, bà Đ bị điện giật thì co chân lên chửi “cái đéo gì đấy”. Do bị phát hiện nên N rút cây sào ra khỏi cửa sổ và bỏ chạy nhảy qua tường rào theo lối cũ ra đón con đi về. Bà Đ sau khi bị giật điện thì thấy ngực áo của mình bị ướt nước. Bà Đ nghĩ chồng trêu đùa nên bà Đ tiếp tục đi ngủ. Đến khoảng 8h40 ngày 24/8/2023, bà Đ phát hiện tại ổ cắm điện trước cửa phòng vệ sinh của gia đình có cắm 1 phích điện lạ nên đi theo đường dây điện này, thấy dây điện nằm trên mặt đất chạy dài ra phía sau nhà, đầu dây điện bằng kim loại được nối vào dây kim loại buộc ở đầu cây sào tre dài 4m, bên ngoài dây kim loại ở đầu cây sào được buộc một chiếc áo vải màu đen, bà Đ đã gọi ông Nguyễn Đức Phong, sinh năm 1961 ở khu H, xã M, huyện T, tỉnh P là láng giềng trợ giúp rút phích cắm ra khỏi ổ điện. Lúc này, bà Đ nghĩ rằng có người cố tình giết hại mình nên đã trình báo Cơ quan Công an.

Cơ quan điều tra đã tiến hành khám nghiệm hiện trường phát hiện dấu vết trượt tại bờ tường nhà bà Đ và vật chứng là 01 cây sào bằng tre khô dài 4,1m gác lên bờ tường, trên đầu cây sào nối dây cáp điện viễn thông buộc cố định bằng 1 sợi dây kim loại. màu ghi xám đường kính 0,12cm, dây điện dài 37,2m cách đầu buộc vào cây sào 17,4m có 1 mối nối quấn băng dính điện, cuối dây điện được nối với đoạn dây điện màu đỏ dài 10cm bọc ngoài bằng 1 đoạn ống vải màu trắng, đầu còn lại của đoạn dây điện mầu đỏ nối với 01 phích cắm bằng nhựa màu nâu đen, loại nhựa trong ở phía phía sau bên ngoài cửa sổ nhà bà Đ, đầu cây sào buộc chiếc áo màu đen (áo vải nữ, loại áo 2 dây màu đen), Quá trình khám nghiệm hiện trường Cơ quan điều tra đã mời Chi nhánh Điện lực huyện T, tỉnh P tiến hành kiểm tra điện áp và việc truyền điện của đoạn dây phát hiện nêu trên, kết quả:

Về ổ cắm điện trước của nhà vệ sinh nhà bà Đ là ổ cắm có điện, đo được với điện áp trung bình là 242V Khi cắm đoạn dây điện thu giữ tại hiện trường để kiểm tra việc chuyền dẫn điện và điện áp, xác định dây điện có điện. Đo điện áp ở đầu dây kim loại nối vào cây sào là 240V. Đo điện áp trên chiếc áo màu đen ẩm ướt bọc phía ngoài là 235V.

Ngày 05/10/2023 Cơ quan điều tra có công văn số 3294 gửi phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh P đề nghị Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh P cho biết với điện áp như trên khi giật điện vào người có dẫn đến tử vong hay không.

Ngày 21/12/2023 Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh P có công văn số 14 trả lời với điện áp đo được trên chiếc áo mầu đen ẩm ướt bọc phía ngoài đầu dây kim loại màu ghi xám ở đầu cây sào tre là 235V thì khi tiếp xúc vào cơ thể người gây nguy hiểm cho người, khi giật điện có thể dẫn đến tử vong….

Cơ quan điều tra đã tiến hành thực nghiệm điều tra, cho bị can mô tả và thực hiện lại toàn bộ hành vi phạm tội. Kết quả thực nghiệm điều tra phù hợp với diễn biến hành vi phạm tội của bị can, phù hợp với tài liệu chứng cứ thu thập được.

Tại Cơ quan điều tra, Lê Văn N khai nhận toàn bộ diễn biến hành vi như trên với mục đích đe doạ, trả thù chứ không có ý định tước đoạt mạng sống của bà Đ. Tuy nhiên, căn cứ hành vi khách quan của bị can, thấy rằng bị can hoàn toàn nhận thức được việc sử dụng điện lưới sinh hoạt là nguồn nguy hiểm cao độ để chích vào người khác có thể gây thiệt hại đến tính mạng, nhưng do bị phát hiện kịp thời nên người bị hại không bị nguy hiểm đến tính mạng. Hành vi của bị cáo N thể hiện tính côn đồ, coi thường tính mạng, sức khoẻ của người khác. Việc người bị hại không chết là ngoài ý thức chủ quan của bị cáo.

Về trách nhiệm dân sự: Bà Nguyễn Thị Đ xác định mặc dù có hoảng loạn, lo sợ nhưng không bị ảnh hưởng đến sức khoẻ, không phải điều trị ở đâu nên không yêu cầu bị cáo Lê Văn N phải bồi thường gì về sức khoẻ cũng như tinh thần.

Tại bản Cáo trạng số: 05/CT-VKSPT-P2 ngày 09/01/2024 Viện kiểm sát nhân dân tỉnh P đã truy tố bị cáo: Lê Văn N về tội: “Giết người” theo quy định tại điểm l, n khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh P thực hành quyền công tố luận tội: Quá trình điều tra bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Giết người” đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm l, n khoản 1 Điều 123, điểm s khoản 1, 2 Điều 51, Điều 15, Điều 57, Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Lê Văn N từ 13 năm đến 14 năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam là ngày 25/8/2023.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo Về xử lý vật chứng:

01 cây sào bằng tre khô dài 4m, trên đầu cây sào nối dây cáp điện viễn thông buộc cố định bằng 1 sợi dây kim loại màu ghi xám đường kính 0,12cm, dây điện dài 37,2m cách đầu buộc vào cây sào 17,4m có 1 mối nối quấn băng dính điện, cuối dây điện được nối với đoạn dây điện màu đỏ dài 10cm bọc ngoài bằng 1 đoạn ống vải màu trắng, đầu còn lại của đoạn dây điện mầu đỏ nối với 01 phích cắm bằng nhựa màu nâu đen, loại nhựa trong; 01 áo vải nữ, loại áo 2 dây màu đen (áo dùng để buộc vào đầu cây sào) không còn giá trị sử dụng tịch thu tiêu hủy.

Các vật chứng:

01 đôi ủng bằng cao su, đế màu da cam dính nhiều bùn đất 01 áo mưa màu xanh; 01 chiếc găng tay vải 1 mặt mầu xanh 1 mặt mầu trắng; 01 chiếc găng tay vải mầu trắng.

01 chiếc bật lửa mầu tím.

01 chiếc áo dài tay kiểu áo rằn ri, 01 chiếc quần dài kiểu quần rằn ri. Không còn giá trị sử dụng tịch thu tiêu hủy Đối với 01 chiếc mũ bảo hiểm loại mũ nửa đầu màu hồng, phía trên mũ có gắn 1 chiếc đèn nhỏ có nối bằng sợi dây điện các tài sản trên không còn giá trị sử dụng tịch thu tiêu hủy.

01 xe máy nhãn hiệu Way RSX mầu đỏ đen BKS: 90H8 -50xx trả lại cho bị cáo, nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Về trách nhiệm bồi thường dân sự:

Qúa trình điều tra là tại phiên tòa bị hại không yêu cầu bị cáo bồi thường xét thấy đó là sự tự nguyện của bị hại phù hợp với pháp luật nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận hành vi đúng như Cáo trạng truy tố, bị cáo không tranh luận gì. Bị cáo nói lời sau cùng: Mong Hội đồng xét xử, xem xét cho bị cáo được hưởng mức hình phạt thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an tỉnh P, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh P, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và bị hại không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều đúng quy định và phù hợp với pháp luật.

[2] Về những chứng cứ xác định bị cáo có tội:

Do nghi ngờ bà Nguyễn Thị Đ, sinh năm 1963, ở khu H, xã M, huyện T, tỉnh P giúp vợ mình che dấu mối quan hệ bất chính với người đàn ông khác, cho rằng bà Đ đã xúi giục vợ mình viết đơn ly hôn gửi đến Toà án làm tan vỡ gia đình mình nên Lê Văn N uất ức và hận bà Đ. Để trả thù bà Đ nên khoảng 03 giờ 00 phút ngày 24/8/2023, Lê Văn N đã đến nhà bà Đ sử dụng dây kim loại (loại dây cáp viễn thông) một đầu cắm vào ổ điện sinh hoạt có điện áp 242V tại ổ cắm điện khu vực nhà vệ sinh của nhà bà Đ, một đầu buộc vào đầu cây sào tre khô dài 4,1m, bên ngoài quấn 01 chiếc áo ướt nước đưa qua cửa sổ để chích điện vào người bà Đ khi bà Đ đang nằm ngủ trên giường cùng cháu Nguyễn Thị Ngọc My, sinh năm 2019, thì bị bà Đ phát hiện. Hành vi sử dụng công cụ có tính chất dẫn điện cao đấu nối với nguồn lưới điện sinh hoạt có hiệu điện thế 242V là nguồn nguy hiểm cao độ để tấn công, giật điện người khác có khả năng dẫn đến chết người. Bà Đ và cháu My không chết là ngoài ý muốn chủ quan của bị cáo. Do đó, hành vi của Lê Văn N đã cấu thành tội “Giết người” thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt, bằng phương pháp có thể làm chết nhiều người và có tính chất côn đồ quy định tại điểm l, n khoản 1 Điều 123 BLHS thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt quy định tại Điều 15 BLHS.

[3] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội; các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Xét tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội: Hành vi của Lê Văn N là đặc biệt nguy hiểm, xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ của người khác được pháp luật bảo vệ ảnh hưởng xấu đến an Nh, trật tự tại địa phương. Bị cáo nhận thức được hành vi sử dụng công cụ có tính chất dẫn điện cao đấu nối với nguồn lưới điện sinh hoạt có hiệu điện thế 242V là nguồn nguy hiểm cao độ để tấn công, giật điện người khác có khả năng dẫn đến chết người nhưng bị cáo vẫn cố tình thực hiện, hành vi đó thể hiện sự coi thường tính mạng, sức khoẻ của người khác nên cần áp dụng mức hình phạt nghiêm khắc đối với bị cáo, cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt cần xem xét bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS, ngoài ra bố bị cáo là người có công với cách mạng được tặng Huy chương kháng chiến hạng nhất, tại phiên tòa bị hại đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 BLHS. Hành vi giết người của bị cáo đã hoàn thành, tuy nhiên hậu quả chết người chưa sảy ra, nên bị cáo phạm tội giết người thuộc trường hợp chưa đạt, hình phạt tù áp dụng đối với bị cáo theo quy định tại khoản 3 Điều 57 BLHS mức hình phạt không quá ba phần tư mức hình phạt tù mà điều luật quy định. Do vậy, khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử xem xét áp dụng điều 15, Điều 57 BLHS giảm một phần hình phạt cho bị cáo.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo Về trách nhiệm bồi thường dân sự: Qúa trình điều tra là tại phiên tòa bị hại không yêu cầu bị cáo bồi thường xét thấy đó là sự tự nguyện của bị hại phù hợp với pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[5] Về xử lý vật chứng: Vật chứng của vụ án được xử lý như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh P đã phát biểu.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Trong quyết định đưa vụ án ra xét xử xác định chị Nguyễn Thị Đ1, ông Nguyễn Đức Tú và cháu Phạm Thị Lan Anh là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Tuy nhiên, tại phiên tòa xác định chị Đ1, ông Tú, cháu Anh không có quyền và nghĩa vụ gì liên quan đến vụ án, nên HĐXX chỉ xác định chị Đ1, ông Tú, cháu Anh là người làm chứng.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh P thực hành quyền công tố tại phiên tòa đề xuất về hình phạt đối với bị cáo.

Luật sư bào chữa cho bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét áp dụng cho bị cáo mức hình phạt thấp nhất.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm l, n khoản 1 Điều 123, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm a khoản 1 Điều 47, Điều 15, Điều 38, Điều 57 Bộ luật Hình sự; điểm c khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên bố bị cáo Lê Văn N phạm tội: "Giết người".

Xử phạt bị cáo Lê Văn N 11 (Mười một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam là ngày 25/8/2023.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo Về trách nhiệm dân sự: Xác nhận bị hại tự nguyện không yêu cầu bị cáo bồi thường.

Về xử lý vật chứng:

Tịch thu tiêu huỷ: 01 cây sào bằng tre khô dài 4m, trên đầu cây sào nối dây cáp điện viễn thông buộc cố định bằng 1 sợi dây kim loại màu ghi xám đường kính 0,12cm, dây điện dài 37,2m cách đầu buộc vào cây sào 17,4m có 1 mối nối quấn băng dính điện, cuối dây điện được nối với đoạn dây điện màu đỏ dài 10cm bọc ngoài bằng 1 đoạn ống vải màu trắng, đầu còn lại của đoạn dây điện mầu đỏ nối với 01 phích cắm bằng nhựa màu nâu đen, loại nhựa trong; 01 áo vải nữ, loại áo 2 dây màu đen (áo dùng để buộc vào đầu cây sào); 01 đôi ủng bằng cao su, đế màu da cam dính nhiều bùn đất; 01 áo mưa màu xanh; 01 chiếc găng tay vải 1 mặt mầu xanh 1 mặt mầu trắng; 01 chiếc găng tay vải mầu trắng; 01 chiếc bật lửa mầu tím;

01 chiếc áo dài tay kiểu áo rằn ri, 01 chiếc quần dài kiểu quần rằn ri; 01 chiếc mũ bảo hiểm loại mũ nửa đầu màu hồng, phía trên mũ có gắn 1 chiếc đèn nhỏ có nối bằng sợi dây điện.

Trả lại cho bị cáo Lê Văn N 01 xe máy nhãn hiệu Way RSX mầu đỏ đen BKS: 90H8 - 50xx, số khung RLHJC 4323AY101939, số máy JC43E-5558689, nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 10/01/2024) Về án phí: Buộc bị cáo Lê Văn N phải chịu 200.000đồng (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (Đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (Đối với các khoản tiền phải trả cho người thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại khoản 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án tự nguyện thi hành án, cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7, 7a,7b và 9 Luật thi hành án. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

[5] Quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại, có mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án để yêu cầu Toà án nhân dân cấp cao tại Hà Nội xét xử phúc thẩm./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

46
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội giết người số 13/2024/HS-ST

Số hiệu:13/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Phú Thọ
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/03/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: [email protected]
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;