TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI
BẢN ÁN 128/2024/HS-PT NGÀY 02/02/2024 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI
Ngày 02 tháng 02 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại H, Tòa án nhân dân cấp cao tại H mở phiên tòa xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 1299/2023/TLPT-HS ngày 09 tháng 11 năm 2023 đối với các bị cáo Nguyễn Trần Thanh Q, Nguyễn Trần Q V, Nguyễn Văn T phạm tội “Giết người”. Do có kháng cáo của các bị cáo, đại diện hợp pháp của bị hại đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 486/2023/HS-ST ngày 27/9/2023 của Toà án nhân dân thành phố H.
* Các bị cáo có kháng cáo:
1. Nguyễn Trần Thanh Q, sinh năm 2004; Đăng ký thường trú: Đội 6, thôn A, xã Hợp T, huyện MĐ, thành phố H; Chỗ ở hiện tại: Thôn Vạn T, xã An T, huyện MĐ, thành phố H; Trình độ học vấn: 9/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Giới tính: Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Trần TH; Con bà Nguyễn Thị D; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị giữ người trong trường hợp khẩn cấp từ ngày 21/3/2023; Tạm giam tại Trại tạm giam số 2 - Công an thành phố H. Có mặt.
2. Nguyễn Trần Q V, sinh ngày 21/9/2006 (Khi phạm tội 16 tuổi 05 tháng 29 ngày); Đăng ký thường trú: Đội 6, thôn A, xã HT, huyện MĐ, thành phố H; Chỗ ở hiện tại: Thôn VT, xã AT, huyện MĐ, thành phố H; Trình độ học vấn: 7/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Giới tính: Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Trần TH; Con bà Nguyễn Thị D; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị giữ người trong trường hợp khẩn cấp từ ngày 21/3/2023; Tạm giam tại Trại tạm giam số 2 - Công an thành phố H. Có mặt.
3. Nguyễn Văn T, sinh năm 2002; Đăng ký thường trú: Đội 2, thôn A, xã HT, huyện MĐ, thành phố H; Trình độ học vấn: 7/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Công giáo; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn N; Con bà Nguyễn Thị H; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị giữ người trong trường hợp khẩn cấp từ ngày 21/3/2023; Tạm giam tại Trại tạm giam số 2 - Công an thành phố H. Có mặt.
- Người đại diện theo pháp luật của bị cáo Nguyễn Trần Q V: Ông Nguyễn Trần TH, sinh năm 1971 và bà Nguyễn Thị D, sinh năm 1979 (là bố mẹ bị cáo Nguyễn Trần Q V); Đăng ký thường trú: Thôn Ải, xã Hợp Thanh, huyện Mỹ Đức, thành phố H. Có mặt.
- Người bào chữa cho các bị cáo:
+ Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Trần Thanh Q, Nguyễn Trần Q V (do Tòa án chỉ định): Luật sư Nguyễn Đình Q, Công ty Luật TNHH, thuộc Đoàn luật sư thành phố H. Có mặt.
+ Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Văn T (do Tòa án chỉ định): Luật sư Đinh Anh T, Công ty Luật TNHH một thành viên Bảo Thiên, thuộc Đoàn luật sư thành phố H. Có mặt.
- Bị hại: Anh Phạm Văn B, sinh năm 1992; Trú tại: Thôn Ải, xã Hợp Thanh, huyện Mỹ Đức, thành phố H (đã chết).
Người đại diện hợp pháp cho bị hại: Chị H Thị H, sinh năm 1999, trú tại: Thôn Ải, xã Hợp Thanh, huyện Mỹ Đức, thành phố H (là vợ của anh Phạm Văn B). Có mặt.
Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1955 (là mẹ của bị hại Phạm Văn B); Cháu Phạm Thảo M, sinh ngày 23/08/2018 và cháu Phạm H K, sinh ngày 14/10/2020 (Là 02 con của bị hại Phạm Văn B), cùng trú tại: Thôn Ải, xã Hợp Thanh, huyện Mỹ Đức, thành phố H.
- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đại diện bị hại: Luật sư Nguyễn Thành L, Công ty Luật TNHH Hòe Thanh thuộc Đoàn Luật sư thành phố H.
Ngoài ra trong vụ án còn có bị cáo Phạm Văn T, Nguyễn Văn Q, Phạm Xuân T; người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan do không có kháng cáo, kháng nghị nên Tòa án không triệu tập.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo bản án sơ thẩm, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 20 giờ ngày 20/3/2023, Nguyễn Trần Thanh Q, Nguyễn Văn Th, Nguyễn Văn H, Phạm Văn Chung và Trần Văn H đến quán bi-a S của anh Nguyễn Thanh Tùng chơi bi-a. Đến khoảng 23 giờ 30 phút cùng ngày, anh Phạm Văn B, Phạm Văn Th, Phạm Xuân Tr và Nguyễn Văn Q, đều trú tại thôn Ải, xã Hợp Thanh, huyện Mỹ Đức, thành phố H đến chơi bi-a. Lúc này, anh Phạm Văn B hỏi nhóm Q: “Thằng nào thích đánh bi-a sô lô 1-1 với tao" nhưng không ai trả lời nên anh B cản không cho ai đánh bi- a, Q nói: “Anh để bọn em chơi”, anh Trần Văn H nói: “Em không dám chơi với anh” thì bị anh B đi đến dùng tay phải túm tóc anh H đập đầu vào tường 03 cái, thấy anh H bị đánh nên Q vào can ngăn thì Phạm Xuân Tr nói “Mày thái độ gì đấy”, anh B nói “Mày thích chết à, đứa nào thích chết hôm nay". Sau đó Tr cầm viên bi-a ném về phía Q nhưng không trúng và tiếp tục cầm viên bi-a thứ 2 ném vào vai bên phải của Q. Anh B túm tóc Th nói “Mày thích chết à”, Th nói “Em có làm gì anh đâu” và dùng tay phải đấm 01 cái vào tay anh B, cùng lúc này anh B đi ra đứng cạnh V chửi nhóm Q. Thấy đánh nhau nên Nguyễn Văn H và Phạm Văn Chung đi ra ngoài. Lúc này, Q đi đến rút 01 con dao bằng kim loại (Loại dao gấp, mũi nhọn, dài 21,5cm) trong túi quần sau bên phải, đâm 01 nhát vào cổ bên trái và 01 nhát vào sườn trái của anh B, còn V túm cổ áo và dùng chân tay đánh anh B, anh B lùi lại thì bị V tiếp tục dùng tay trái vít vào cổ anh B xuống, tay phải đấm vào vai anh B. Lúc này, Th đứng phía sau cũng lao vào vung tay phải đấm 01 cái vào lưng và 01 cái vào mặt anh B rồi vòng ra chỗ bàn bi-a số 2 (Hướng từ ngoài cửa đi vào) cầm quả bi-a ném anh B rồi bỏ chạy. Thấy vậy, Q lao vào dùng tay đánh Q thì bị Q dùng dao đâm 01 nhát vào vùng thái dương bên trái Q bị rách da. Thấy Q bị Q đánh, Th cầm gậy bi-a lao đến đánh vào tay Q, Tr và Q dùng gậy bi-a và quả bi-a lao vào đánh Q, ném vào nhóm của Q nên Q bỏ chạy, khi chạy qua chỗ anh B đứng ở bàn bi-a thứ 3 (Theo hướng đi từ cửa vào) Q tiếp tục dùng dao đâm 01 nhát vào bụng của anh B và để dao cắm ở bụng anh B rồi Q bỏ chạy. Sau khi V đánh anh B rồi bỏ chạy thì bị Th cầm gậy bi-a vụt 01 cái vào lưng, 01 cái vào vai phải, V lùi lại thì bị ngã ngồi nên bị Th tiếp tục dùng gậy bi-a vụt 01 cái vào đuôi lông mày phải, Q dùng chân phải đá vào người V. Sau đó, V cầm 01 chiếc gậy bi-a bằng tay phải chạy qua chỗ anh B đứng vụt 01 cái vào đầu nhưng do anh B cúi xuống nên không trúng rồi V bỏ chạy ra hướng xã Hợp Thanh, còn Th lấy xe máy Wave màu xanh biển kiểm soát 29E2 xxxxx của Nguyễn Văn H chở Q bỏ chạy. Anh Phạm Văn B sau khi bị dâm đã đi ra đến bàn bi-a thứ nhất (Theo hướng từ cửa đi vào) thì rút dao ra vứt xuống đất, sau đó mọi người đưa anh B đến Bệnh viện huyện Mỹ Đức, Bệnh viện Quân y 103 cấp cứu, do thương tích quá nặng nên đến 01 giờ 15 phút ngày 21/3/2023 anh B đã tử vong.
Nguyễn Văn Q đến Bệnh viện huyện Mỹ Đức khâu vết thương ở vùng thái dương bên trái.
Nguyễn Trần Thanh Q sau khi đâm anh B thì bỏ chạy, khoảng 30 phút sau, Q bảo anh Nguyễn Văn H đi xe máy của H chở quay lại quán bi-a để lấy xe máy, sau đó H đi về nhà. Q đến quán bi-a thấy con dao gấp vừa đâm anh B để ở bồn cây trước cửa quán nên Q nhặt con dao rồi mang đến khu vực cổng Làng Thọ vứt xuống mương nước rồi cùng V, Th bỏ trốn. Đến 09 giờ ngày 21/3/2023, Nguyễn Trần Thanh Q, Nguyễn Trần Q V và Nguyễn Văn Th bị bắt giữ. Ngày 04/4/2023, Phạm Văn Th, Phạm Xuân Tr và Nguyễn Văn Q đến Công an huyện Mỹ Đức đầu thú và khai nhận hành vi phạm tội của bản thân.
Sau khi xảy ra vụ án, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mỹ Đức đã phối hợp với Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố H tiến hành khám nghiệm hiện trường, thu giữ vật chứng và pháp y tử thi anh Phạm Văn B. Kết quả như sau:
Tại biên bản khám nghiệm hiện trường hồi 08 giờ 20 phút ngày 21/3/2023, tại Cửa hàng bi-a S, ở: Đội 10, thôn Vải, xã Hợp Thanh, huyện Mỹ Đức, thành phố H, thể hiện:
“.... Hiện trường đã bị xáo trộn.
Hiện trường nơi xảy ra sự việc tại Cửa hàng bi-a S, đội 10, thôn Vài, xã Hợp Thanh, huyện Mỹ Đức, H.
Cửa hàng bi-a S có diện tích khoảng 190m2, quay hướng Bắc. Nhìn từ ngoài vào, phía trước Cửa hàng bi-a là đường liên xã Hợp Thanh - Đại Nghĩa, đối diện qua bên kia đường là nhà ông bà Thoa - Hải, bên phải Cửa hàng bi-a giáp khu đất trống, bên trái Cửa hàng bi-a giáp Cửa hàng gạch Tùng Sơn và nhà ông bà N, phía sau giáp ao nước. Phía trước Cửa hàng bi-a và Cửa hàng gạch S có chung sân.
Bên trong Cửa hàng bi-a S, bên ngoài là khu vực chơi bi-a, bên trong bên trái là phòng nghỉ của chủ quán, phía sau là khoảng sân chứa đồ và khu vệ sinh. Trong khu vực chơi bi-a có 2 dãy bàn bi-a, dãy bên trái có 03 bàn, dãy bên phải có 04 bàn. Trong đó, 02 bàn phía ngoài sát cửa chỉ có khung bàn, chưa lắp mặt bàn, mỗi khung bàn có kích thước (1,3 x 2,6 x 0,75) m; 05 bàn phía trong mỗi bàn có kích thước (1,65 x 2,9 x 0,8) m. Trên các bàn bi-a có một số viên bi-a và gậy chọc bi-a. Sàn trải thảm cỏ nhân tạo, bị dính ướt. Trên sàn có nhiều đồ vật và một số viên bi-a rải rác. Trong các gầm bàn có nhiều đồ vật lộn xộn. Tại bàn bi-a ở giữa dãy bên trái, cách tường trái 1,6m, trên bàn có nhiều viên bi-a và 02 cây gậy chọc bi-a. Trên mặt bàn và cạnh bàn phía trong có một số vết chất màu nâu đỏ rải rác (vị trí số 1).
Trên sàn, cách tường phải 3,8m, cách cửa ra vào 5m có đoạn đầu gậy chọc bi-a bị gãy mới phần dưới (vị trí số 2), đoạn đầu gậy dài 72,5cm, đường kính phần lớn nhất 2,2cm, đường kính phần dầu gậy 1,4cm, trên gậy dính chất màu nâu đỏ.
Trên thảm cỏ, cách tường trái 3m, cách cửa 3,2m có một số vết chất màu nâu đỏ trên diện (2 x 3)cm (vị trí số 3).
Tại khung bàn bi-a ở ngoài cùng dãy bên trái, trên mép bên phải của bàn có một số vết chất màu nâu đỏ rải rác trên diện (27 x 20)cm (vị trí số 4). Đường liên thôn xã Hợp Thanh - Đại Nghĩa, đoạn qua phía trước cửa hàng bi-a rộng trung bình 7m, trải nhựa. Đường chạy theo hướng Đông Bắc - Tây Nam, phía Tây Nam dẫn đi sông Mỹ Hà, phía Đông Bắc dẫn đi Công an huyện Mỹ Đức, hai bên đường có vỉa hè. Trên đường, cách vỉa hè phía trước Cửa hàng gạch S 50cm, cách nhà ông bà N 7,1m có một số vết chất màu nâu đỏ dạng nhỏ giọt rải rác trên diện (1,75 x 0,6)m (vị trí số 5). Trên đường, giáp vỉa hè phía Tây Bắc, cách nhà ông bà Thoa - Hải 2,8m có 01 viên bi-a màu cam in số 5, đường kính 6cm, trên viên bi-a dính chất màu nâu đỏ và cát bẩn (vị trí số 6). Trên vỉa hè phía trước Cửa hàng bi-a, cách khu đất trống 0,9m có 01 đôi dép lê màu đen nhãn hiệu GUCCI, trên dép dính bụi đất (vị trí số 7).
Bên trái nhà ông bà Thoa - Hải là khu đất đang xây dựng móng nhà, trên vỉa hè phía trước khu đất có nhiều gạch, đất, vụn bê tông. Trên đống gạch, có 1 viên bi- a màu xanh lá cây in số 6, đường kính 6cm, viên bi-a bị trượt xước (vị trí số 8)...”
Vật chứng vụ án: Quá trình khám nghiệm hiện trường và điều tra vụ án, Cơ quan điều tra đã thu giữ vật chứng, dấu vết và đồ vật liên quan gồm:
- 04 chất màu nâu đỏ, thu giữ niêm phong trong các ống nhựa trong túi nilon được niêm phong trong phong bì.
- Mẫu chất màu nâu đỏ bám dính tại thảm cỏ nhân tạo thu giữ trong túi nilon.
- 01 đoạn đầu gậy bi-a; 01 đôi dép và 02 viên bi-a.
Anh Nguyễn Thanh Tùng chủ quán bi-a giao nộp: 01 bộ mắt camera mang nhãn hiệu “EZVIZ”; SN: G24229219 version: EO-1E2WF, màu trắng, có ổ cắm micro SD, kèm theo 01 thẻ nhớ SD màu đen, có dây cấp nguồn đi kèm (tất cả đã qua sử dụng); 01 bộ mắt camera mang nhãn hiệu “EZVIZ”; SN: G31108658 Version: EO-1E2WF; màu trắng, có ổ ổ cắm micro SD, kèm theo 01 thẻ nhớ SD màu đen, có dây cấp nguồn đi kèm (tất cả đã qua sử dụng) và 02 thẻ nhớ nhãn hiệu MIXIE 32GB. Trong đó, có 01 thẻ nhớ được lưu chữ 116 file clip, từ file hiv0001 đến hiv00116. Tại file số hiv00066 được ghi từ 23h12:35 ngày 20/3/2023, thể hiện sự việc xảy ra đánh nhau từ 23h36:17 đến 23h37:40 ngày 20/3/2023.
- Thu giữ của Nguyễn Trần Thanh Q: 01 chiếc điện thoại di động Iphone XS max.
- Thu giữ của Nguyễn Văn Th: 01 chiếc điện thoại di động Iphone 6S và 01 chiếc điện thoại Iphone màu hồng.
- Thu giữ của Nguyễn Trần Q V 01 chiếc diện thoại di động Iphone.
- Căn cứ lời khai của Nguyễn Trần Thanh Q, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mỹ Đức, thành phố H rà soát và thu giữ 01 con dao (loại dao gấp) bằng kim loại màu đen có chiều dài 21,5cm, lưỡi dao dài 9,5cm, phần mũi nhọn bị cong, chuôi dao dài 12cm, phần rộng nhất của lưỡi dao rộng 2,5cm trên mặt đám bèo tây ở mương nước thôn Vài, xã Hợp Thanh, huyện Mỹ Đức, thành phố H.
Tại bản Kết luận giám định pháp y tử thi số 2551/KL-KTHS ngày 26/4/2023 của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an thành phố H, kết luận nguyên nhân chết của anh Phạm Văn B như sau:
“ . III- KẾT LUẬN 1. Các dấu hiệu chính qua giám định:
- Trên cơ thể nạn nhân có các vết thương rách da và một số vết sây sát da.
- Xương sọ không tổn thương rạn, vỡ. Các mạch máu não xung huyết. Nhu mô não không chảy máu, dập nát.
- Vết thương vùng cổ trái gây đứt cân cơ tương ứng, vết sâu sát cột sống cổ. Vết thương vùng sườn trái cắt vào thùy dưới phổi trái. Khoang ngực trái và ổ bụng có máu. Tim xung huyết, không tổn thương thủng, rách, vỡ. Vết thương vùng bờ sườn phải cắt vào thùy phải gan, xuyên sâu vào nhu mô gan. Lách, thận không tổn thương thủng, rách, vỡ. Trong dạ dày có thức ăn.
- Xét nghiệm: Trong mẫu máu của Phạm Văn B có tìm thấy Ethanol, nồng độ Ethanol 239,7mg/100ml. Trong mẫu máu nạn nhân không tìm thấy các chất ma túy và các chất độc nêu trên.
- Mẫu máu của nạn nhân thuộc nhóm máu O.
2. Kết luận:
- Nguyên nhân chết: Mất máu cấp không hồi phục.
- Các vết thương rách da trên nạn nhân: Do vật sắc nhọn gây nên.
- Các vết sây sát da trên nạn nhân hình thành do va chạm với vật tầy gây nên...” Tại biên bản xem xét dấu vết trên thân thể ngày 21/3/2023 đối với Nguyễn Trần Q V phát hiện thấy có:
“01 dấu vết trượt xước da tại vị trí đuôi mày phải hướng lên vùng đỉnh đầu, vết trượt xước có diện (0,2 x 5) cm.
+ 01 vết lằn đỏ trên da vùng vai phải thuộc phía lưng, cách vai 05cm, vết lằn dài 06cm”.
Tại bản Kết luận giám định tổn thương cơ thể trên người sống số 957/KLTTCT-TTPY ngày 11/7/2023 của Sở Y tế H đối với thương tích của Nguyễn Trần V Q, kết luận:
“... IV. Kết luận:
1. Các kết quả chính:
- Vùng đầu, mặt, vai phải không sưng nề bầm tím, không có sẹo vết thương: 00%.
2. Kết luận:
2.1. Tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể của anh Nguyễn Trần Q V tại thời điểm giám định trong vụ việc ngày 20/3/2023 là không có tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể.
2.2. Kết luận khác:
- Cơ chế hình thành thương tích: Các tổn thương của anh Nguyễn Trần Q V do vật tày và vật tày có cạnh gây ra”.
Tại biên bản xem xét dấu vết trên thân thể ngày 21/3/2023 đối với Nguyễn Trần Thanh Q, Trần Văn H, Nguyễn Văn Th, Nguyễn Văn H: Không phát hiện dấu vết trên thân thể.
Tại bản Kết luận giám định số 2482/KL-KTHS ngày 24/4/2023 của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an thành phố H về mẫu máu và kiểu gen, kết luận:
“- Mẫu chất màu nâu đỏ thu giữ trong ống nhựa (ký hiệu 1,4,5) là máu người, không phân tích được kiểu gen do chất lượng dấu vết kém.
- Mẫu chất màu nâu đỏ thu giữ trong ống nhựa (ký hiệu 1T) là máu người, có kiểu gen trùng với kiểu gen của Phạm Văn B.
- Mẫu chất màu nâu đỏ bám dính trên thảm cỏ nhân tạo là máu người, không phân tích được kiểu gen do chất lượng dấu vết kém.
- Trên 01 (một) dao (dạng dao gấp) làm bằng kim loại (sơn màu đen) dài 21,5cm (phần lưỡi dao dài 9,5cm), chuôi dao dài 12cm, phần rộng nhất của dao có kích thước 2,5cm có bám dính máu người, không phân tích được kiểu gen do chất lượng dấu vết kém.
- Trên 01 đoạn gậy bi a dài 72,5cm; đường kính một dầu 1cm có bám dính máu người không phân tích được kiểu gen do chất lượng dấu vết kém.
- Lưu kiểu gen của Phạm Văn B (Sinh năm 1992; trú tại thôn Ải, xã Hợp Thanh, huyện Mỹ Đức, tại Phòng PC09 - Công an thành phố H”.
Cơ quan điều tra đã xác minh thương tích của Nguyễn Văn Q tại Bệnh viện huyện Mỹ Đức, xác định: Hồi 19 giờ 09 phút ngày 21/3/2023, Nguyễn Văn Q vào viện trình bày bị người khác đánh vào vùng đầu, có 01 vết thương thái dương trái dài 01cm đã khâu. Chụp cắt lớp sọ não: Không thấy hình ảnh tổn thương nhu mô não. Chuẩn đoán vết thương hở vùng thái dương trái. Đến 15 giờ 10 phút ngày 24/3/2023 ra viện.
Tại Cơ quan điều tra Nguyễn Văn Q trình bày quá trình xô sát tại quán bi-a tối ngày 20/3/2023, Q bị Nguyễn Trần Thanh Q cầm dao nhọn đâm 01 nhát vào thái dương trái đến nay vết thương đã khỏi, không ảnh hưởng đến sức khoẻ, Q có đơn từ chối giám định thương tích và không yêu cầu bồi thường.
Đối với Nguyễn Văn H trình bày khoảng 22 giờ ngày 20/3/2023, H đang ở nhà thì Nguyễn Văn Th đến rủ đi đến quán S chơi bi-a nên H mượn chiếc xe máy biển kiểm soát 29E2-xxxxx của anh Nguyễn Văn Quyết, sinh năm 1993 (là anh trai H) chở Th đến quán bi-a S. H chứng kiến anh B dùng tay túm tóc H đập đầu vào tường, Q dùng dao đâm anh B nhưng H không tham gia đánh nhau. Sau đó, thấy mọi người chạy H cũng bỏ chạy thì bị Tr và Th đuổi theo nên H cùng V chạy về Tr mầm non xã Hợp Thanh thì gặp Th và Q. Tại đây, Q kể vừa đâm anh B ba phát, một phát vào cổ, một phát vào sườn, một phát vào bụng, sau đó Q bảo H đi xe máy của H chở Q quay lại quán bi-a để Q lấy xe máy nên H chở Q và V quay lại quán bi-a, khi đến quán Q và V xuống xe còn H đi xe máy về nhà. Đến 15 giờ ngày 21/3/2023, Cơ quan điều tra Công an huyện Mỹ Đức triệu tập H đến làm việc và trước đó Cơ quan điều tra đã bắt được Q, V và Th. Khi đó, H mới biết anh B đã tử vong. Hành vi của Nguyễn Văn H có dấu hiệu của tội không tố giác tội phạm, nhưng xét tính chất mức độ, nhân thân cũng như ý thức chủ quan của H nên Cơ quan điều tra không đề nghị xử lý là có căn cứ.
Đối với 02 chiếc camera do anh Nguyễn Thanh Tùng chủ quán bi-a giao nộp, Cơ quan điều tra đã mở niêm phong và kiểm tra 02 thẻ nhớ, trong đó có 01 thẻ nhớ nhãn hiệu MIXIE 32GB được lưu trữ 116 file clip, từ file hiv0001 đến hiv00116. Tại file số hiv00066 được ghi từ 23h12:35 ngày 20/3/2023, thể hiện sự việc xảy ra đánh nhau từ 23h36:17 đến 23h37:40 ngày 20/3/2023 nên đã tạm giữ, còn 02 chiếc camera không liên quan đến vụ án. Ngày 22/8/2023, Cơ quan điều tra ra quyết định xử lý vật chứng bằng hình thức trao trả anh Nguyễn Thanh Tùng 02 camera.
Anh Trần Văn H trình bày, anh bị B túm tóc đập 03 cái vào tường nhưng không bị thương tích gì, anh không có đề nghị gì với Cơ quan điều tra nên Cơ quan điều tra không đề nghị xử lý.
Trách nhiệm dân sự: Chị H Thị H là vợ của anh Phạm Văn B yêu cầu các bị cáo bồi thường cho chị tổng số tiền là 246.500.000 đồng. Trong đó, số tiền chi phí viện phí là 26.500.000 đồng, tiền chi phí mai táng là 190.000.000 đồng, các hoá đơn chị sẽ xuất trình tại phiên toà.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 486/2023/HS-ST ngày 27/9/2023 của Toà án nhân dân thành phố H quyết định:
Tuyên bố các bị cáo: Nguyễn Trần Thanh Q, Nguyễn Trần Q V và Nguyễn Văn Th phạm tội “Giết người”.
Áp dụng điểm a, n khoản 1 Điều 123; Điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 39 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Trần Thanh Q tù chung thân, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 21/3/2023.
Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; Điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 90; Điều 91; Điều 101; Điều 54; Điều 38 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Trần Q V 09 (Chín) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 21/3/2023.
Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; Điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 38 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Th 12 (Mười hai) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 21/3/2023.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định tội danh, hình phạt đối với 03 bị cáo khác; quyết định về trách nhiệm bồi thường dân sự, xử lý vật chứng, án phí và thông báo quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 03/10/2023 các bị cáo Nguyễn Trần Thanh Q, Nguyễn Trần Q V, Nguyễn Văn Th có đơn kháng cáo xin giảm hình phạt.
Ngày 09/10/2023, đại diện bị hại là chị H Thị H có đơn kháng cáo đề nghị tăng hình phạt đối với bị cáo Nguyễn Trần Thanh Q, Nguyễn Trần Q V.
Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo Nguyễn Trần Thanh Q, Nguyễn Trần Q V, Nguyễn Văn Th giữ nguyên nội dung kháng cáo và nhờ Luật sư bảo vệ trình bày nội dung, cụ thể: Tại bản án sơ thẩm đã áp dụng tình tiết “phạm tội có tính chất côn đồ” đối với cả ba bị cáo là không đúng vì bị hại là anh B có hành vi vô cớ không cho nhóm của ba bị cáo chơi bi a, vô cớ đánh người trong nhóm các bị cáo nên các bị cáo cần được hưởng tình tiết phạm tội trong trường hợp tinh thần bị kích động mạnh do hành vi trái pháp luật quy định tại điểm e khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Sau khi có án sơ thẩm, các bị cáo đã tác động gia đình nộp tiền khắc phục toàn bộ hậu quả theo quyết định của bản án, thể hiện sự ăn năn hối cải. Gia đình hai bị cáo Q và V có hoàn cảnh đặc biệt, bố mẹ không chung sống cùng với nhau; khi phạm tội bị cáo Q vừa qua tuổi 18; bị cáo V mới hơn 16 tuổi nên tâm sinh lý chưa ổn định. Do đó đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo, sửa bản án sơ thấm, giảm hình phạt cho cả ba bị cáo dưới mức thấp nhất của khung hình phạt để các bị cáo sớm có cơ hội trở về với gia đình, xã hội.
Đại diện gia đình bị hại giữ nguyên nội dung kháng cáo và uỷ quyền cho Luật sư trình bày. Cụ thể: Thực tế Q và V đã có tiền án, tiền sự cách thời điểm thực hiện hành vi thì đã gây thương tích cho người khác, tại địa phương nhiều người đều biết tuy không có căn cứ chứng minh. Hành vi của hai anh em bị cáo là rất côn đồ nên cần tăng hình phạt để giáo dục. Tuy anh B có hành vi nhưng không đánh các bị cáo nhưng các bị cáo đã gây ra cái chết cho anh B. Bà Duyên là mẹ các bị cáo không hề gặp xin lỗi gia đình bị hại mà gặp người trong họ hàng của bị hại là không thành tâm; đồng tình với việc bồi thường của gia đình các bị cáo. Đề nghị giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại H nêu quan điểm:
Kháng cáo của các bị cáo và của đại diện người bị hại trong thời hạn, phù hợp với quy định nên cần được chấp nhận để xét theo thủ tục phúc thẩm. Bị cáo V khi bị xét xử chưa đủ 18 tuổi, bị cáo kháng cáo nhưng Toà án cấp sơ thẩm không làm thủ tục thông báo cho người giám hộ của bị cáo là vi phạm tố tụng.
Các bị cáo tiếp tục thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội đúng như tại bản án sơ thẩm đã xác định; các bị cáo thể hiện ăn năn, hối cải. Tại bản án sơ thẩm đã xác định hành vi, hậu quả do các bị cáo gây ra và tuyên mức hình phạt cho các bị cáo là có căn cứ và phù hợp. Xét người bị hại là anh B có hành vi tác động, ngăn cản không cho nhóm của các bị cáo tiếp tục chơi bi a; anh B không trực tiếp đánh các bị cáo nên bản án sơ thẩm áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự đối với các bị cáo là đúng; Q có hành vi đâm anh B và Q nên bị áp dụng thêm điểm a khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự là có căn cứ tuy Q đã từ chối giám định thương tích. Do đó xác định các bị cáo không bị xét xử oan. Về nhân thân không có tài liệu xác định các bị cáo Q và V có tiền án, tiền sự trong tàng thư nên không có căn cứ chấp nhận nội dung này của người bị hại. Sau khi phạm tội các bị cáo thành khẩn khai báo, ra đầu thú; hai bị cáo Q và V là anh em ruột và có ông ngoại là người có công Cách mạng. Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của các bị cáo: Các bị cáo bị xét xử theo khung hình phạt từ 12 năm, 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình. Trong vụ án này anh B là người có lỗi, bản án sơ thẩm chưa áp dụng tình tiết này là bất lợi cho ba bị cáo. Nay cần áp dụng thêm điểm e khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự cho các bị cáo Q, V, Th.
Về đường lối xử lý đối với người dưới 18 tuổi bản án sơ thẩm áp dụng đối với V là đúng, hình phạt là tương xứng; Th không có tình tiết gì mới. Các bị cáo Q, V, Th tiếp tục thành khẩn, ăn năn hối cải; Q, V tác động gia đình nộp hết tiền khắc phục hậu quả sau khi xét xử sơ thẩm, trước khi phạm tội luôn chấp hành pháp luật, đây là tình tiết mới. Do được áp dụng thêm nhiều tình tiết giảm nhẹ mới nên đề nghị chấp nhận kháng cáo của hai bị cáo. Giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo Q mức án 20 năm tù, giảm nhẹ thêm cho bị cáo V từ 06 đến 12 tháng tù để có tác dụng khuyến khích người phạm tội bồi thường, khắc phục hậu quả như đường lối xử lý chung; giữ nguyên hình phạt đối với bị cáo Th.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng:
Kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Trần Thanh Q, Nguyễn Trần Q V và kháng cáo của đại diện người bị hại trong thời hạn nên được chấp nhận để xét. Tại phiên tòa, người giám hộ của bị cáo V đồng thời cũng là mẹ của bị cáo Q có mặt và xuất trình 01 biên lai nộp tiền khắc phục hậu quả với số tiền là 93.000.000 đồng, 01 biên lai nộp tiền thay bị cáo Th với số tiền là 21.450.000 đồng. Bà Duyên xác định số tiền này nộp thay cho các bị cáo là tự nguyện, sau này không yêu cầu các bị cáo trả lại. Tài liệu này đã được tranh tụng đúng quy định nên được chấp nhận để xét.
Về các quyết định tố tụng, hành vi tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng cấp sơ thẩm thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.
[2]. Xét kháng cáo yêu cầu tăng nặng hình phạt đối với bị cáo Nguyễn Trần Thanh Q, Nguyễn Trần Q V và nội dung kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của ba bị cáo Nguyễn Trần Thanh Q, Nguyễn Trần Q V, Nguyễn Văn Th:
Tại phiên toà phúc thẩm, cả ba bị cáo Nguyễn Trần Thanh Q, Nguyễn Trần Q V, Nguyễn Văn Th tiếp tục thành khẩn khai nhận, thừa nhận hành vi phạm tội như bản án sơ thẩm quy kết là đúng pháp luật, bị cáo xác định không bị oan. Lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên toàn hoàn toàn phù hợp với lời khai của các bị cáo tại Cơ quan điều tra; lời khai của người làm chứng; đồng thời phù hợp với các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án như: Biên bản khám xét; Biên bản khám nghiệm hiện trường; bản ảnh hiện trường; các kết luận giám định, vật chứng thu giữ... cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử xác định tại bản án sơ thẩm đã kết luận cả ba bị cáo phạm tội “Giết người” theo điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự; riêng bị cáo Nguyễn Trần Thanh Q bị áp dụng thêm điểm a khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự là hoàn toàn có căn cứ, đúng quy định.
[2.1] Khi đánh giá về nguyên nhân dẫn đến vụ án, tại bản án sơ thẩm xác định: Khoảng 23 giờ 30 phút ngày 20/3/2023, anh Phạm Văn B và các bị cáo Phạm Văn Th, bị cáo Phạm Xuân Tr, bị cáo Nguyễn Văn Q đến quán bi-a của anh Nguyễn Thanh Tùng ở thôn Vài, xã Hợp Thanh, huyện Mỹ Đức, thành phố H chơi bi-a. Tại đây, anh Phạm Văn B gặp nhóm các bị cáo Nguyễn Trần Thanh Q, bị cáo Nguyễn Trần Q V, bị cáo Nguyễn Văn Th và các anh Nguyễn Văn H, anh Phạm Văn Chung và anh Trần Văn H đang chơi bi-a và hỏi:“Thằng nào thích đánh bi-a sô lô 1-1 với tao” nhưng không ai trả lời nên anh Phạm Văn B cản không cho ai chơi bi-a. Bị cáo Nguyễn Trần Thanh Q nói“Anh để bọn em chơi”, anh Trần Văn H nói“Em không dám chơi với anh” thì bị anh Phạm Văn B đi đến dùng tay phải túm tóc anh H đập đầu vào tường 03 cái. Thấy anh Trần Văn H bị đánh nên bị cáo Nguyễn Trần Thanh Q vào can ngăn thì bị cáo Phạm Xuân Tr nói“Mày thái độ gì đấy”, anh Phạm Văn B nói“Mày thích chết à, đứa nào thích chết hôm nay". Sau đó, bị cáo Phạm Xuân Tr cầm viên bi-a ném về phía bị cáo Nguyễn Trần Thanh Q nhưng không trúng và tiếp tục cầm viên bi-a thứ 2 ném vào vai bên phải của bị cáo Q. Anh Phạm Văn B túm tóc bị cáo Nguyễn Văn Th nói“Mày thích chết à”, bị cáo Th nói “Em có làm gì anh đâu” và dùng tay phải đấm 01 cái vào tay anh B, cùng lúc này anh B đi ra đứng cạnh bị cáo Nguyễn Trần Q V chửi nhóm bị cáo Q.
Bị cáo Nguyễn Trần Thanh Q đã cầm dao gấp, mũi nhọn dài 21,5 cm là hung khí nguy hiểm đâm 01 nhát vào cổ bên trái, 01 nhát vào sườn trái, 01 nhát vào bụng của anh Phạm Văn B là các vùng trọng yếu trên cơ thể người, dẫn đến hậu quả làm anh Phạm Văn B tử vong. Bị cáo Nguyễn Trần Q V túm cổ áo và dùng chân tay đánh anh B, dùng tay trái vít vào cổ anh B xuống, tay phải đấm vào vai anh B. Bị cáo Nguyễn Văn Th cũng lao vào vung tay phải đấm 01 cái vào lưng và 01 cái vào mặt anh B, rồi vòng ra chỗ bàn bi-a số 2 cầm quả bi-a ném anh B rồi bỏ chạy.
Như vậy, việc tại bản án sơ thẩm nhận định “vì nguyên cớ nhỏ nhặt khi anh Phạm Văn B ngăn cản không cho nhóm bị cáo Q, V, Th chơi bi-a và anh B túm tóc đánh anh Trần Văn H cũng không phải tấn công các bị cáo, nhưng các bị cáo Nguyễn Trần Thanh Q, bị cáo Nguyễn Trần Q V và bị cáo Nguyễn Văn Th đã cùng tấn công anh Phạm Văn B là thể hiện tính chất côn đồ, dẫn đến hậu quả làm anh Phạm Văn B tử vong” là chưa xem xét toàn diện, khách quan nguyên nhân dẫn đến vụ án này. Thực tế, dù không mâu thuẫn hoặc quan hệ gì nhưng anh B đã rủ các bị cáo chơi bi a “So lo” được hiểu là chơi bi a ăn tiền là hành vi đánh bạc bị pháp luật cấm; khi các bị cáo không đồng ý chơi thì chính anh B là người có hành động ném quả bi a, vứt gậy chọc bi a nhóm các bị cáo đang chơi đi không cho các bị cáo tiếp tục chơi; khi nhóm của các bị cáo không chơi nữa thì anh B là người đánh và dùng tay đập đầu anh H vào tường, đây là nguyên nhân dẫn đến hành vi phạm tội của các bị cáo. Các hành vi này của anh B là hành vi trái pháp luât, các bị cáo trong nhóm của anh B tham gia cùng đã bị xét xử về tội “Gây rối trật tự công cộng” trong cùng vụ án này nhưng không có kháng cáo. Do vậy việc, tại bản án sơ thẩm đã không áp dụng cho các bị cáo tình tiết này khi quyết định hình phạt là bất lợi cho các bị cáo; cần được áp dụng bổ sung khi quyết định hình phạt.
Việc bị cáo Nguyễn Trần Thanh Q còn dùng dao đâm 01 nhát vào vùng thái dương bên trái của bị cáo Nguyễn Văn Q do bị cáo Q dùng gậy bi a và quả bi a lao vào đánh Q, nên tuy bị cáo Nguyễn Trần Thanh Q bị bản án sơ thẩm áp dụng thêm tình tiết định khung“Giết 02 người trở lên” theo điểm a khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự là có căn cứ. Nhưng bị cáo Q cũng bị xét xử trong vụ án này về tội “Gây rồi trật tự công cộng” bị cáo không kháng cáo và từ chối giám định thương tích nên cũng cần xem xét tính chất, mức độ của hành vi này.
Bị cáo Phạm Xuân Tr và bị cáo Nguyễn Văn Q còn dùng gậy bi-a vụt bị cáo Nguyễn Trần Q V 01 cái vào lưng, 01 cái vào vai phải và 01 cái vào đuôi lông mày phải. Bị cáo Nguyễn Văn Q dùng chân phải đá vào người bị cáo Nguyễn Trần Q V; vì vậy cần xem xét nguyên nhân dẫn đến bị cáo V phạm tội là đồng phạm của bị cáo Q là do hành vi trái pháp luật của các đối tượng trên.
[2.2] Về hình phạt:
Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại bản án sơ thẩm đã xác định “…các bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo Nguyễn Trần Thanh Q và bị cáo Nguyễn Trần Q V được gia đình tự nguyện nộp 100.000.000 đồng tại Cục Thi hành án dân sự thành phố H để bồi thường trước cho gia đình bị hại nên được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự”.
Các tình tiết giảm nhẹ khác được áp dụng cho các bị cáo theo quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự: Bị cáo Nguyễn Trần Thanh Q và bị cáo Nguyễn Trần Q V có ông ngoại, cụ ngoại là người có công với Cách mạng. Bị cáo Q, V, Th nhân thân chưa tiền án, tiền sự.
Tại phiên toà sơ thẩm và phiên toà phúc thẩm, đại diện bị hại chị H Thị H và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại là Luật sư Nguyễn Thành Long đề nghị Hội đồng xét xử xem xét sự việc ngày 22/9/2020, bị cáo Nguyễn Trần Thanh Q và Nguyễn Trần Q V có đánh nhau và đâm anh Đinh Văn Hiển; từ đó đề nghị tăng hình phạt đối với Q, V. Tuy nhiên, lý lịch bị can và hồ sơ tài liệu thể hiện các bị cáo chưa tiền án, tiền sự. Tại phiên tòa, chị H Thị H cũng xác định không có tài liệu gì để chứng minh. Vì vậy đề nghị giữ nguyên hình phạt đối với cả ba bị cáo.
Luật sư bảo vệ cho các bị cáo có kháng cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo Nguyễn Trần Thanh Q “Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra” theo điểm e khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
[3] Trách nhiệm bồi thường dân sự:
- Tại bản án sơ thẩm đã quyết định buộc các bị cáo phải chịu trách nhiệm bồi thường cho gia đình bị hại do chị H Thị H đại diện tổng số tiền các bị cáo Nguyễn Trần Thanh Q, Nguyễn Trần Q V và Nguyễn Văn Th phải liên đới bồi thường cho chị H Thị H (vợ của anh Phạm Văn B) là 214.500.000 (hai trăm mười bốn triệu, năm trăm nghìn) đồng và xác định trách nhiệm cụ thể của từng bị cáo.Tại phiên tòa sơ thẩm, gia đình của bị cáo Nguyễn Trần Thanh Q và Nguyễn Trần Q V xuất trình biên lai đã nộp tiền bồi thường 100.000.000 đồng: Bị cáo Nguyễn Trần Q V đã thực hiện xong nghĩa vụ bồi thường nên quyết định bị cáo Nguyễn Trần Thanh Q còn phải bồi thường tiếp 93.050.000 đồng. Bị cáo Nguyễn Văn Th 21.450.000 đồng.
Tại phiên toà phúc thẩm, người giám hộ của bị cáo V đồng thời cũng là mẹ của bị cáo Q có mặt, xuất trình 01 biên lai với số tiền 93.000.000 đồng nộp thay cho bị cáo Q và 01 Biên lai với số tiền 21.450.000 đồng nộp thay cho bị cáo Th. Bà Duyên xác định số tiền này nộp thay cho các bị cáo là tự nguyện, sau này không yêu cầu các bị cáo trả lại. Tài liệu này đã được tranh tụng đúng quy định nên được ghi nhận bị cáo Nguyễn Văn Th đã chấp hành xong phần trách nhiệm bồi thường; bị cáo Q còn phải nộp số tiền còn lại là 50.000 đồng.
Quan điểm đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại H tại phiên toà về cơ bản phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận. Riêng đối với bị cáo Nguyễn Văn Th do được áp dụng thêm nhiều tình tiết giảm nhẹ nên cũng cần được xem xét giảm một phần hình phạt mới thoả đáng.
Những vấn đề khác không có kháng cáo, không bị kháng nghị nên Hội đồng xét xử không xét, được giữ nguyên.
[3]. Về án phí: Do kháng cáo được chấp nhận nên các bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
[4]. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên, Căn cứ Điều 355, Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án;
QUYẾT ĐỊNH
1. Không chấp nhận kháng cáo của đại diện hợp pháp của người bị hại chị H Thị H.
2. Chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Trần Thanh Q, Nguyễn Trần Q V và Nguyễn Văn Th.
Sửa một phần quyết định của Bản án hình sự sơ thẩm số 486/2023/HS-ST ngày 27/9/2023 của Toà án nhân dân thành phố H đối với các bị cáo Nguyễn Trần Thanh Q, Nguyễn Trần Q V và Nguyễn Văn Th. Cụ thể:
Tuyên bố các bị cáo: Nguyễn Trần Thanh Q, Nguyễn Trần Q V và Nguyễn Văn Th phạm tội “Giết người”.
Áp dụng điểm a, n khoản 1 Điều 123; điểm b, s, e khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 38 của Bộ luật Hình sự.
Xử phạt bị cáo: Nguyễn Trần Thanh Q 20 (hai mươi) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 21/3/2023.
Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; Điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51;
Điều 17; Điều 58; Điều 90; Điều 91; Điều 101; Điều 54; Điều 38 Bộ luật Hình sự.
Xử phạt bị cáo: Nguyễn Trần Q V 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 21/3/2023.
Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; Điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 38 của Bộ luật Hình sự.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Th 11 (mười một) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 21/3/2023.
3. Về trách nhiệm dân sự: Xác nhận bị cáo Nguyễn Trần Thanh Q đã nộp số tiền 93.000.000 đồng (chín mươi ba triệu đồng) tại Biên lai số 0023926; bị cáo Nguyễn Văn Th đã nộp số tiền 21.450.000 đồng (hai mươi mốt triệu, bốn trăm năm mươi triệu đồng) tại Biên lai số 0023927 cùng ngày 15/01/2024 của Cục Thi hành án dân sư thành phố H (đều do bà Nguyễn Thị Duyên nộp thay).
Bị cáo Nguyễn Trần Thanh Q còn phải nộp số tiền 50.000 đồng (năm mươi nghìn đồng).
4. Về án phí: Các bị cáo Nguyễn Trần Thanh Q, Nguyễn Trần Q V và Nguyễn Văn Th không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
5. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án
Bản án 128/2024/HS-PT về tội giết người
Số hiệu: | 128/2024/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 02/02/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về