Bản án về tội giết người số 02/2020/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 02/2020/HS-ST NGÀY 12/03/2020 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Ngày 12 tháng 3 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bình Phước xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 03/2020/HSST ngày 20 tháng 01 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 01/2020/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 02 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Thanh P, sinh năm 1982 tại tỉnh T; nơi cư trú: Ấp T, xã L, thị xã G, tỉnh T(chỗ ở: Xã M, huyện C, tỉnh B); nghề nghiệp: Công Nhân; trình độ văn hóa (học vấn): 5/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn T (đã chết) và bà Trần Thị T (đã chết); bị cáo chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: không; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 09/09/2019 cho đến nay, “bị cáo có mặt tại phiên tòa”.

- Người bào chữa cho bị cáo: Ông Phạm Trọng E - Luật sư thuộc Công ty Luật TNHH MTV B, Đoàn Luật sư tỉnh Bình Phước “vắng mặt”.

- Bị hại: Chị Trần Thị X, sinh năm: 1982, nơi cư trú: xã N, huyện T, tỉnh T (chỗ ở: Xã M, huyện C, tỉnh B) “có mặt”.

- Người làm chứng:

1. Anh Lê Xuân T, sinh năm 1984, nơi cư trú: Xã M, huyện C, tỉnh B “vắng mặt”.

2. Chị Phạm Thị Ngọc N, sinh năm 1991, nơi cư trú: xã T, huyện H, tỉnh B “vắng mặt”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng tháng 02/2019, Nguyễn Thanh P và Trần Thị X, cư trú tại xã M, huyện C, tỉnh B quen biết nhau và P sinh mối quan hệ yêu đương. Trong khoảng thời gian yêu đương, thỉnh thoảng P cho X tiền và mua cho X và con của X một số vật dụng cá nhân.

Khoảng tháng 7/2019, X chấm dứt mối quan hệ tình cảm với P, nên P nảy sinh ý định giết chết X, rồi uống thuốc độc tự tử. Ngày 02/9/2019, P viết một bức thư với nội dung “anh không thể nào mà để em sống trên đời này nữa, anh và em sẽ cùng đi khỏi thế gian này, chết cùng chết, sống cùng sống, lúc đó em đừng có trách anh”, nhưng P chưa gửi cho X. Đến khoảng 16 giờ ngày 09/9/2019, P điều khiển xe mô tô BKS 64K6 – xxxx đến tiệm bán thuốc trừ sâu “D” tại ấp 3A, xã H, huyện Chơn T, tỉnh Bình Phước mua 01 chai thuốc trừ cỏ hiệu “HeloSate” với giá tiền 55.000 đồng, rồi P đem về phòng trọ P thuê tại ấp 3B, xã M, huyện C và đổ thuốc trừ cỏ vào vỏ chai nước C2. Đến khoảng 17 giờ 40 phút cùng ngày, P lấy 01 con dao (loại dao Thái Lan) và chai C2 đựng thuốc trừ cỏ cùng 02 chai nhựa đựng rượu bỏ vào bịch nilon treo lên xe mô tô BKS 64K6 – xxxx, rồi điều khiển xe đi đến khu vực đường D4 thuộc khu Công nghiệp H III, xã M, huyện C, tỉnh B đứng đợi X đi làm về với mục đích để giết chết X. Đến khoảng 18 giờ 30 phút cùng ngày, P thấy X điều khiển xe mô tô hiệu Sirus BKS 36B4 – xxxxx đi đến, P lấy con dao trong bịch nilon bỏ vào túi quần và điều khiển xe đuổi theo yêu cầu X dừng xe, khi X dừng xe, P đưa cho X 01 tờ giấy ghi các khoản chi phí mà P đã mua cho X và con của X. Lúc này, X nói “không muốn gặp mà cứ đòi gặp hoài”. P dừng xe vào lề đường rồi đi đến đứng gần X, thì X xé tờ giấy và nói “muốn đòi các thứ đó thì mang bao vào các con tao trả cho”. Nghe vậy, P tắt khóa xe của X rồi ngồi lên yên xe phía sau lưng X, tay phải P cầm dao kề vào hông phải của X. Lúc này, X đang mặc áo khoác dài tay, tay áo phủ qua khỏi bàn tay, nên X dùng tay trái đưa qua hông bên phải nắm và bẽ cong lưỡi dao. Do bị mất đà nên X ngã ngữa xuống đường bên trái và xe mô tô ngã đè lên chân trái của X. P xuống xe và ngồi lên đùi chân phải của X, tay phải cầm dao đâm nhiều nhát theo hướng từ trên xuống vào vùng mặt và người của X (một nhát trúng má phải và 01 nhát trúng tay trái của X). X đưa tay lên đỡ và kêu cứu, thì Anh Lê Xuân T và chị Phạm Thị Ngọc N (đều cư trú tại huyện Chơn T) đi đến. Lúc này, P dừng tay và đứng dậy ném con dao xuống đường, rồi lên xe định bỏ đi, nhưng ông T khống chế bắt giữ P giao cho Công an Đồn khu Công nghiệp H, huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước. Sau khi bị P đâm, X được người dân đưa đến trạm xá xã H, huyện Chơn T, tỉnh Bình Phước cấp cứu và điều trị thương tích.

Tại Bản kết luận giám định Pháp Y về thương tích số 390/2019 GĐPY ngày 16/9/2019 của Trung tâm Pháp Y - Sở Y tế tỉnh Bình Dương, kết luận đương sự Trần Thị X được xác định:

1. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là: 12% (Mười hai phần trăm) theo bảng tỷ lệ tổn thương cơ thể ban hành kèm theo Thông tư số 20/2014/TT – BYT do Bộ Y Tế ban hành ngày 12/6/2014.

Tại Bản kết luận giám định Pháp Y về ADN số 01/20/TC - AND ngày 05/12/2019 của Viện pháp Y Quốc gia thuộc Bộ Y tế kết luận:

- Thử định tính P hiện nhanh vết máu người trên mẫu số 01: Dương tính.

- ADN thu từ mẫu số 01 và mẫu phết bề mặt phần lưỡi của con dao gửi giám định trùng khớp hoàn toàn với ADN của Trần Thị X.

- ADN thu từ mẫu phết phần cán của con dao gửi giám định là ADN của nhiều người và không thể tách rời AND của từng người riêng biệt nên không thể so sánh với ADN của Nguyễn Thanh P và Trần Thị X.

Tại Bản kết luận giám định pháp Y về Hóa pháp 391/392/484 – 485/2019/HP ngày 06/12/2019 của Phân viện Pháp y Quốc gia tại T phố Hồ Chí Minh kết luận:

Trong mẫu tang vật Giết người xảy ra ngày 09 tháng 9 năm 2019 do Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Bình Phước gửi tới giám định ngày 26 tháng 11 năm 2019:

1. TV 484/19: Có tìm thấy Glyphosat;

2. TV 485/19: Có tìm thấy Methanol với hàm lượng 21,96 mg trong 100ml chất lỏng màu cam và Glyphosat;

3. Không tìm thấy các chất độc khác kể trên.

Tại Bản kết luận giám định pháp Y về thương tích số 417/2019/HS ngày 31/12/2019 của Trung tâm Pháp y – Sở Y tế tỉnh Bình Phước kết luận:

- Con dao (vật chứng giám định) trong tư thế đâm thực nghiệm theo biên bản thực nghiệm điều tra hồi 9 giờ 00 phút ngày 20 tháng 12 năm 2019 có thể gây ra được vết thương vùng má phải và vết thương đốt 1 ngón I bàn tay trái của Trần Thị X.

*Vt chứng thu giữ trong vụ án:

- 01 con dao cán gỗ, lưỡi dao bằng kim loại, kích thước (22,5 x 2)cm, cán gỗ dài 11,5cm, phần cán gỗ bị bể, phần lưỡi bằng kim loại bị cong biến dạng, trên phần lưỡi dao dính chất màu đỏ (nghi máu).

- 01 chai nhựa, bên ngoài có chữ “C2, Đào H Trà”, nắp chai màu vàng, trên nắp có dòng chữ “03NSX: 27/08/19 – R45 HSD: 270820” bên trong chai có chứa dung dịch màu vàng.

- 01 chai nhựa màu đen, phần vỏ bọc ghi dòng chữ “TEA+”, kích thước (21,5 x 6)cm, bên trong chứa chất lõng màu trắng đục.

- 01 chai nhựa màu vàng, bên ngoài vỏ chai ghi chữ “Không độ 00”, kích thước 21 x 6,5)cm, bên trong chứa chất lõng màu trắng đục.

- 01 vỏ chai nhựa màu xanh, nắp đỏ, nhãn hiệu “Helosate” – Thuốc trừ cỏ loại 450ml, kích thước vỏ chai (17,5 x 7,5)cm.

- Một số mẫu vật, vật chứng thu giữ phục vụ công tác giám định còn lại (đã niêm phong).

- 01 xe mô tô nhãn hiệu DAMSAN, màu nâu đen, BKS 64K6 – xxxx. Chiếc xe này do ông Nguyễn Văn B, cư trú tại ấp 6B, xã P, huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long đứng tên chủ sở hữu hợp pháp. Ông B đã bán lại chiếc xe này cho người khác nhưng không làm giấy tờ mua bán. Sau đó P mua lại của một người tên H (không rõ họ tên, địa chỉ), P sử dụng chiếc xe này làm phương tiện phạm tội.

- 01 xe mô tô hiệu Yamaha – Sirius, BKS 36b4 – xxxxx là tài sản hợp pháp của Trần Thị X. Ngày 12/9/2019, Cơ quan CSĐT Công an huyện Chơn T đã trả lại cho X.

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Coolpad, màu xanh đen, sim số 032935xxxx, tình trạng máy đã cũ.

- 01 điện thoại di động hiệu Nokia 1202, màu xanh đen, sim số 089951xxxx, tình trạng máy đã cũ, màn hình bị vỡ kính, không kiểm tra tình trạng máy bên trong. Hai chiếc điện thoại này là tài sản hợp pháp của P, không liên quan đến việc phạm tội.

- 01 áo khoác màu hồng nhạt, nhãn hiệu “Fashion”, loại áo khoác nữ có mũ trùm đầu, kích thước (78 x 49)cm, ống tay dài 57cm, tình trạng áo đã cũ, có thấm nhiều dấu vết màu nâu đỏ ở mặt trước hai bên cổ áo, hai bên ngực áo, hai ống tay áo. Dấu vết màu nâu đỏ đã khô. Phía sau lưng áo có vết rách dài 1,5cm, rộng 1mm.

- Nhiều mảnh giấy trắng, trên giấy ghi nhiều chữ, kích thước (6,5 x 3)cm và 01 lá thư viết trên giấy tập học sinh có chữ ký xác nhận của Nguyễn Thanh P. Đây là vật chứng liên quan đến vụ án, nhưng gọn nhẹ nên được lưu theo hồ sơ vụ án.

* Phần trách nhiệm dân sự: Bị hại chị Trần Thị X không yêu cầu bị cáo Nguyễn Thanh P bồi thường tiền chi phí điều trị thương tích, nên không đề cập đến.

Tại Cáo trạng số 03/CTr-VKS ngày 17 tháng 01 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Phước truy tố bị cáo Nguyễn Thanh P về tội “Giết người” theo điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa:

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Phước giữ nguyên quan điểm truy tố như Cáo trạng số 03/CTr-VKS ngày 17 tháng 01 năm 2020 và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; các Điều 15; Điều 38; Điều 50; Điều 57 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 tuyên phạt bị cáo Nguyễn Thanh P mức án từ 07 năm tù đến 08 năm tù.

Đề nghị xử lý vật chứng và bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật.

- Bị cáo Nguyễn Thanh P không yêu cầu luật sư Phạm Trọng Êm bào chữa cho mình và thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung Cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Phước đã truy tố. Bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

- Bị hại chị Trần Thị X: Không yêu cầu bị cáo phải bồi thường thiệt hại và xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm trở về làm lại cuộc đời.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra - Công an tỉnh Bình Phước, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Phước, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Thanh P, bị hại Trần Thị X không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa hôm nay bị cáo Nguyễn Thanh P thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung Cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Phước đã truy tố. Xét lời khai nhận tội của bị cáo là phù hợp với lời khai người bị hại, người làm chứng, phù hợp với Biên bản khám nghiệm hiện trường, bản Kết luận giám định pháp y về AND, bản Kết luận giám định pháp y về thương tích, vật chứng của vụ án cùng những tài liệu, chứng cứ đã thu thập có tại hồ sơ vụ án đã được thẩm tra công khai tại phiên tòa. Thấy, phù hợp với nhau về thời gian, địa điểm và phương thức thực hiện hành vi phạm tội. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Do bực tức việc đã bỏ tiền mua đồ đạc, vật dụng, chi phí sinh hoạt hằng ngày cho chị Trần Thị X và con của chị X trong thời gian quan hệ tình cảm nhưng sau đó bị từ chối quan hệ tình cảm nên bị cáo Nguyễn Thanh P nảy sinh ý định giết chị X rồi uống thuốc độc tự tử. Khoảng 18 giờ 30 phút, ngày 09/9/2019, bị cáo P mang theo 01 con dao (loại dao Thái Lan kích thước 22,5 x 2 cm) và chai C2 đựng thuốc trừ cỏ cùng 02 chai nhựa đựng rượu bỏ vào bịch nilon do bị cáo P đã chuẩn bị trước đi đến đứng đợi X tại khu vực đường D4 thuộc khu Công nghiệp H III, xã H, huyện Chơn T, tỉnh Bình Phước. Khi nhìn thấy X điều khiển xe mô tô hiệu Sirus BKS 36B4 – xxxxx đi đến, bị cáo P yêu cầu X dừng xe, rồi lấy dao Thái lan bỏ vào túi quần và ngồi lên yên xe phía sau lưng X, tay phải P cầm dao kề vào hông phải của X, dẫn đến X và P giằng co con dao làm cho X ngã ngữa xuống đường bên trái và xe mô tô ngã đè lên chân trái của X. Lúc này, bị cáo P xuống xe và ngồi lên đùi chân phải của X, tay phải cầm dao đâm nhiều nhát theo hướng từ trên xuống vào vùng mặt và người của X (một nhát trúng má phải và 01 nhát trúng tay trái của X). Hậu quả khiến chị X bị tổn thương cơ thể do thương tích gây ra là 12% (mười hai phần trăm).

Hành vi đâm liên tiếp của bị cáo P nhằm vào vùng vai phải, vùng mặt là một trong những vùng trọng yếu của cơ thể bị hại, việc bị hại không chết là nằm ngoài ý muốn chủ quan của bị cáo vì bị hại chống trả, được người dân phát hiện truy hô bắt giữ bị cáo P và bị hại được đưa đi cấp cứu kịp thời. Như vậy, có đủ căn cứ để xác định bị cáo Nguyễn Thanh P phạm vào tội “Giết người” theo Điều 123 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp, khi thực hiện tội phạm bị cáo hoàn toàn nhận thức được việc dùng dao nhọn đâm vào vùng trọng yếu của cơ thể người khác có thể tước đoạt đi mạng sống của người khác là vi phạm pháp luật và sẽ bị pháp luật nghiêm trị. Nhưng, chỉ vì mâu thuẫn nhỏ nhặt về việc bị chị X từ chối tình cảm với mình mà bị cáo nảy sinh ý định giết chị X một cách vô cớ, coi thường tính mạng, sức khỏe của bị hại, muốn giải quyết mâu thuẫn bằng bạo lực. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Phước truy tố bị cáo về tội “Giết người” với tình tiết định khung “Có tính chất côn đồ” theo quy định tại điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật

[3]. Hành vi mà bị cáo gây ra là đặc biệt nghiêm trọng, đã xâm phạm đến tính mạng của bị hại là khách thể đặc biệt được luật hình sự ưu tiên bảo vệ. Hành vi mà bị cáo thực hiện không những đã gây ra thương tích cho bị hại 12% mà còn để lại những di chứng về sau, làm ảnh hưởng đến tình hình an ninh, trật tự trị an tại địa phương. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo với mức án thật nghiêm minh, tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo mới có tác dụng răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm.

[4]. Xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, Hội đồng xét xử thấy rằng:

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ là người có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự; sau khi phạm tội đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo được bị hại làm đơn xin bãi nại và tại phiên tòa được bị hại xin giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo. Đây là những tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Ngoài ra, còn xem xét bị cáo phạm tội nhưng thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt, do đó bị cáo được Hội đồng xét xử áp dụng thêm Điều 57 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 khi lượng hình “Đối với trường hợp phạm tội chưa đạt, nếu điều luật được áp dụng có quy định........ thì mức hình phạt không quá ba phần tư mức phạt tù mà điều luật quy định”.

[5]. Về trách nhiệm dân sự: Tại phiên tòa, bị hại chị Trần Thị X không yêu cầu bị cáo phải bồi thường thiệt hại nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[6]. Về xử lý vật chứng:

+ Đối với:

- 01 con dao cán gỗ, lưỡi dao bằng kim loại, kích thước (22,5 x 2)cm, cán gỗ dài 11,5cm, phần cán gỗ bị bể, phần lưỡi bằng kim loại bị cong biến dạng, trên phần lưỡi dao dính chất màu đỏ (nghi máu).

- 01 chai nhựa, bên ngoài có chữ “C2, Đào H Trà”, nắp chai màu vàng, trên nắp có dòng chữ “03NSX: 27/08/19 – R45 HSD: 270820” bên trong chai có chứa dung dịch màu vàng.

- 01 chai nhựa màu đen, phần vỏ bọc ghi dòng chữ “TEA+”, kích thước (21,5 x 6)cm, bên trong chứa chất lõng màu trắng đục.

- 01 chai nhựa màu vàng, bên ngoài vỏ chai ghi chữ “Không độ 00”, kích thước 21 x 6,5)cm, bên trong chứa chất lõng màu trắng đục.

- 01 vỏ chai nhựa màu xanh, nắp đỏ, nhãn hiệu “Helosate” – Thuốc trừ cỏ loại 450ml, kích thước vỏ chai (17,5 x 7,5)cm.

- 01 áo khoác màu hồng nhạt, nhãn hiệu “Fashion”, loại áo khoác nữ có mũ trùm đầu, kích thước (78 x 49)cm, ống tay dài 57cm, tình trạng áo đã cũ, có thấm nhiều dấu vết màu nâu đỏ ở mặt trước hai bên cổ áo, hai bên ngực áo, hai ống tay áo. Dấu vết màu nâu đỏ đã khô. Phía sau lưng áo có vết rách dài 1,5cm, rộng 1mm.

- Một số mẫu vật, vật chứng thu giữ phục vụ công tác giám định còn lại (đã niêm phong).

Xét các vật chứng trên không còn giá trị sử dụng, nên cần tịch thu tiêu hủy là có căn cứ và đúng pháp luật.

+ Đối với: 01 xe mô tô nhãn hiệu DAMSAN, màu nâu đen, BKS 64K6 – xxxx. Chiếc xe này do ông Nguyễn Văn B, cư trú tại ấp 6B, xã P, huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long đứng tên chủ sở hữu hợp pháp. Ông B đã bán lại chiếc xe này cho người khác nhưng không làm giấy tờ mua bán. Sau đó P mua lại của một người tên H (không rõ họ tên, địa chỉ), P sử dụng chiếc xe này làm phương tiện phạm tội, nên cần tịch thu sung vào N sách Nhà nước là có căn cứ và đúng pháp luật.

+ Đối với: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Coolpad, màu xanh đen, sim số 032935xxxx, tình trạng máy đã cũ. 01 điện thoại di động hiệu Nokia 1202, màu xanh đen, sim số 089951xxxx, tình trạng máy đã cũ, màn hình bị vỡ kính, không kiểm tra tình trạng máy bên trong.

Xét 02 chiếc điện thoại này là tài sản hợp pháp của bị cáo P, không liên quan đến việc phạm tội, nên cần trả lại cho bị cáo P là có căn cứ và đúng pháp luật.

+ Đối với: Nhiều mảnh giấy trắng, trên giấy ghi nhiều chữ, kích thước (6,5 x 3)cm và 01 lá thư viết trên giấy tập học sinh có chữ ký xác nhận của Nguyễn Thanh P. Đây là vật chứng liên quan đến vụ án, nhưng gọn nhẹ nên được lưu theo hồ sơ vụ án là có căn cứ và đúng pháp luật.

+ Đối với: 01 xe mô tô hiệu Yamaha – Sirius, BKS 36b4 – xxxxx là tài sản hợp pháp của Trần Thị X. Ngày 12/9/2019, Cơ quan CSĐT Công an huyện Chơn T đã trả lại cho X, nên không đề cập xử lý.

[7]. Quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Phước tại phiên tòa là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[8]. Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Nguyễn Thanh P phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thanh P phạm “Tội Giết người”.

2. Về hình phạt:

- Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; các Điều 15; Điều 38; Điều 50; Điều 57 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 :

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh P 07 (B) năm tù về tội “Giết người”; thời hạn tù được tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 09/09/2019.

3. Về trách nhiệm dân sự: Không đặt ra xem xét.

4. Về xử lý vật chứng vụ án: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015, tuyên:

+ Tịch thu tiêu hủy:

- Đối với:

- 01 con dao cán gỗ, lưỡi dao bằng kim loại, kích thước (22,5 x 2)cm, cán gỗ dài 11,5cm, phần cán gỗ bị bể, phần lưỡi bằng kim loại bị cong biến dạng, trên phần lưỡi dao dính chất màu đỏ (nghi máu).

- 01 chai nhựa, bên ngoài có chữ “C2, Đào H Trà”, nắp chai màu vàng, trên nắp có dòng chữ “03NSX: 27/08/19 – R45 HSD: 270820” bên trong chai có chứa dung dịch màu vàng.

- 01 chai nhựa màu đen, phần vỏ bọc ghi dòng chữ “TEA+”, kích thước (21,5 x 6)cm, bên trong chứa chất lõng màu trắng đục.

- 01 chai nhựa màu vàng, bên ngoài vỏ chai ghi chữ “Không độ 00”, kích thước 21 x 6,5)cm, bên trong chứa chất lõng màu trắng đục.

- 01 vỏ chai nhựa màu xanh, nắp đỏ, nhãn hiệu “Helosate” – Thuốc trừ cỏ loại 450ml, kích thước vỏ chai (17,5 x 7,5)cm.

- 01 áo khoác màu hồng nhạt, nhãn hiệu “Fashion”, loại áo khoác nữ có mũ trùm đầu, kích thước (78 x 49)cm, ống tay dài 57cm, tình trạng áo đã cũ, có thấm nhiều dấu vết màu nâu đỏ ở mặt trước hai bên cổ áo, hai bên ngực áo, hai ống tay áo. Dấu vết màu nâu đỏ đã khô. Phía sau lưng áo có vết rách dài 1,5cm, rộng 1mm.

- Một số mẫu vật, vật chứng thu giữ phục vụ công tác giám định còn lại (đã niêm phong).

+ Tịch thu sung vào N sách Nhà nước đối với: 01 xe mô tô nhãn hiệu DAMSAN, màu nâu đen, BKS 64K6 – xxxx. Chiếc xe này do ông Nguyễn Văn B, cư trú tại ấp 6B, xã P, huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long đứng tên chủ sở hữu hợp pháp. Ông B đã bán lại chiếc xe này cho người khác nhưng không làm giấy tờ mua bán. Sau đó P mua lại của một người tên H (không rõ họ tên, địa chỉ), P sử dụng chiếc xe này làm phương tiện phạm tội.

+ Trả lại cho bị cáo Nguyễn Thanh P: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Coolpad, màu xanh đen, sim số 032935xxxx, tình trạng máy đã cũ. 01 điện thoại di động hiệu Nokia 1202, màu xanh đen, sim số 089951xxxx, tình trạng máy đã cũ, màn hình bị vỡ kính, không kiểm tra tình trạng máy bên trong.

+ Tiếp tục lưu theo hồ sơ vụ án đối với: Nhiều mảnh giấy trắng, trên giấy ghi nhiều chữ, kích thước (6,5 x 3)cm và 01 lá thư viết trên giấy tập học sinh có chữ ký xác nhận của Nguyễn Thanh P.

5. Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Nguyễn Thanh P phải chịu 200.000đ (Hai trăm ngìn đồng).

6. Quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án;

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

27
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

 Bản án về tội giết người số 02/2020/HS-ST

Số hiệu:02/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bình Phước
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/03/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;