Bản án về tội giết người số 01/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 01/2022/HS-ST NGÀY 06/01/2022 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Ngày 06 tháng 01 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 15/2021/TLST-HS-CTN ngày 28 tháng 10 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 10/2021/QĐXXST-HS-CTN ngày 16 tháng 11 năm 2021, các Thông báo dời ngày xét xử số 13/2021/TB_XX ngày 26/11/2021 và số 18/2021/TB-XX ngày 21/12/2021; Thông báo mở lại phiên tòa số 19/2021/TB-XX ngày 28/12/2021 đối với bị cáo:

Bùi Trọng N, sinh ngày 10/12/2005; Giới tính: Nam; Nơi cư trú: Số X, đường Y, khóm Z, phường Châu Phú B, thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Đạo Phật; Trình độ học vấn: Lớp 10/12; Nghề nghiệp: Học sinh; Cha: Bùi Mạnh H, sinh năm 1967; Mẹ: Phạm Thị L, sinh năm 1959; Anh, chị, em: 03 người, bị cáo là người thứ ba;

- Tiền án, tiền sự: Không.

- Bị cáo bị tạm giam từ ngày 24/3/2021 đến nay;

- Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

* Người bào chữa:

Luật sư: Ông Nguyễn Trọng B – Văn phòng luật sư Phan Thị V, Đoàn luật sư tỉnh An Giang bào chữa chỉ định cho bị cáo Bùi Trọng N.

Địa chỉ: Lô 4C3, KDC B 1, phường B, thành phố L, tỉnh An Giang; (có mặt)

* Người bị hại: Thái Quang M, sinh năm 1993; (đã chết)

* Đại diện hợp pháp của bị hại: Thái Tống Minh T, sinh năm 1987;

Nơi cư trú: Tổ S, khóm Z, phường Châu Phú B, thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang; (có mặt)

* Đại diện hợp pháp của bị cáo:

- Bùi Mạnh H, sinh năm 1967;

Nơi cư trú: Số X, đường Y, khóm Z, phường Châu Phú B, thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang; (có mặt)

- Phạm Thị L, sinh năm 1959;

Nơi cư trú: Số X, đường Y, khóm Z, phường Châu Phú B, thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang; (có mặt)

* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

1. Tống Thị K, sinh năm 1962; (vắng mặt) Nơi cư trú: Số Z đường Y, khóm Z, phường Châu Phú B, thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang;

2. Bùi Phương A, sinh năm 2000; (có mặt) Nơi cư trú: Số X, đường Y, khóm Z, phường Châu Phú B, thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang;

3. La Đức H, sinh năm 1957; (có đơn xin xét xử vắng mặt ngày 20/11/2021) Nơi cư trú: Tổ X1, khóm Y2, phường Châu Phú A, thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang;

4. Nguyễn Văn Bé N, sinh năm 1980; (vắng mặt) Nơi cư trú: Tổ Q, ấp P, xã AH, huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp;

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng đầu tháng 3/2021, thông qua mạng internet, Bùi Trọng N quen biết với Thái Quang M (sinh năm 1993, là người đồng tính nam). Sáng ngày 23/3/2021, N nhiều lần đến tiệm game “Nam Phong 2” tại số 544, đường Thủ Khoa Huân, khóm Châu Long 3, phường Châu Phú B, thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang chơi game và thua hết khoảng 12.950.000 đồng, trong đó: Tiền của N có 1.000.000 đồng, bán một chiếc nhẫn vàng 18K được 6.000.000 đồng, tiền cầm 02 chiếc xe mô tô 5.9500.000 đồng và mượn tiền của M 1.000.000 đồng.

Đến khoảng 19 giờ cùng ngày, M điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Vespa biển số 67E1-X đến nhà rủ N đi chơi và chủ động giao xe cho N điều khiển chở M trên các tuyến đường thuộc thành phố Châu Đốc. Khi N điều khiển xe, M ngồi phía sau dùng tay sờ vùng ngực, bộ phận sinh dục và hôn vào cổ làm N khó chịu nhưng N không phản kháng, vì sợ M đòi tiền đã cho N mượn. Sau đó, N chở M về nhà trọ của N, M kêu N vào lấy chìa khóa cổng, tiếp tục đi chơi với M. Nghe vậy, N biết M muốn quan hệ đồng tính với N và tức giận việc M có hành vi dâm ô nên N vào nhà lấy cây dao (loại dao Thái lan, cán màu đen, lưỡi bằng kim loại màu trắng dài 20cm) quấn vào áo thun ngắn tay để trong bọc ni lon rồi ra xe đi cùng M. M kêu N điều khiển đến khu đô thị mới thuộc tổ 18, khóm Mỹ Thành, phường Vĩnh Mỹ, thành phố Châu Đốc rồi dừng xe, M tiếp tục có hành vi dâm ô với N, N không đồng ý, kêu M chở về nhà nhưng M không chịu, N lấy dao đã chuẩn bị sẵn, cầm tay phải dọa đâm, M sợ chạy ra hướng Quốc lộ 91 được khoảng 10 mét, N đuổi theo, tay trái nắm cổ áo phía sau làm đứt sợi dây chuyền M đang đeo, M quay lại dùng hai tay xô đẩy N té ngã vào vách tường, đạp trúng mảnh vỡ thủy tinh làm bàn chân trái bị đứt. N cầm dao chồm người tới từ phía sau đâm M nhiều nhát vào lưng, M quay người lại đối diện với N, N tiếp tục đâm nhiều nhát vào mặt, cổ và ngực của M làm gãy lưỡi dao rơi xuống đường. N ném bỏ cán dao gần đó rồi dùng hai tay quật M nằm ngửa xuống đường, thấy M nằm bất động, nên kéo xác M để nằm ngửa chỗ gác chân xe Vespa để chở đến hố sâu cách đó khoảng 200 mét; dừng xe kéo xác M xuống, thì lưng quần, áo của M vướng vào chân chống xe mô tô, N cởi quần, áo M ném cùng với xác M xuống hố sâu. Xong, N lấy 500.000 đồng, 01 sợi dây chuyền vàng trắng (đã lấy trước đó) và xe mô tô của M chạy về hướng đường kênh Huỳnh Văn Thu, khi đến khu vực tổ 11, ấp Mỹ An, xã Vĩnh Châu, thành phố Châu Đốc, N đẩy xe mô tô xuống kênh Huỳnh Văn Thu rồi về nhà trọ. Khoảng 07 giờ ngày 24/3/2021, N đi bộ đến tiệm game “Nam Phong 2” nhờ Lê Hiền H chở đến tiệm vàng “Kim Hà” bán sợi dây chuyền vàng trắng cho La Đức H được 34.422.000 đồng lấy tiền tiêu xài. Sau đó, quay lại tiệm game “Nam Phong 2” chơi game thắng được 5.400.000 đồng, rồi N chuộc 02 xe mô tô biển số 66VA-X và 67AB-X đã mang cầm vào ngày 23/4/2021 hết 6.200.000 đồng. Đến khoảng 08 giờ ngày 24/3/2021, N đến Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an thành phố Châu Đốc đầu thú và giao nộp số tiền còn lại 33.578.000 đồng.

Ngày 01/4/2021, N bị khởi tố, điều tra.

* Vật chứng thu giữ; xử lý vật chứng: Thu giữ 01 Sợi dây chuyền bằng kim loại, màu trắng, dạng xoắn (vàng 18K), 01 xe mô tô nhãn hiệu Piaggio loại Vespa SPINT 125 ABS-514, biển số 67E1-X và 01 điện thoại di động Iphone XS Max màu vàng và đã trao trả Thái Tống Minh T (đại diện hợp pháp bị hại); 01 xe mô tô loại Cub màu sơn xanh, biển số 67AB-X cùng giấy chứng nhận đăng ký xe; 01 lưỡi dao kim loại màu trắng, mũi nhọn, loại một lưỡi sắc có in chữ "HAPPY LIFE", kích thước (14,7 x 1,7) cm, ở đoạn giữa rộng 1,3 cm, lưỡi dao cong và các vật dụng khác có liên quan.

* Căn cứ Bản kết luận giám định pháp y tử thi số 59/KLGĐ-PC09 ngày 28/3/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh An Giang, kết luận đối với Thái Quang M:

* Khám ngoài:

- Tử thi dài 1,7m, không mặc quần áo, trên cơ thể dính nhiều cỏ rác.

- Vùng ngực phải có 04 vết thương: Vết 1 kích thước (02 x 0,3)cm; vết 2 kích thước (1,5 x 0,6)cm; vết 3 kích thước (1,4 x 0,6)cm; vết 4 kích thước (1,5 x 0,6)cm.

- Vùng ngực trái có 04 vết thương: Vết 1 kích thước (1,1 x 0,5)cm; vết 2 kích thước (1,5 x 0,6)cm; vết 3 kích thước (1,2 x 0,3)cm; vết 4 kích thước (1,2 x 0,4)cm.

- Vùng cổ phải có 15 vết thương, trong đó có 13 vết nông và 02 vết sâu, gồm: Vết 1 kích thước (1,9 x 0,9)cm; vết 2 kích thước (02 x 1,1)cm.

- Vùng cổ sau có 02 vết thương: Vết 1 kích thước (3,5 x 01)cm, sâu 2,5cm;

vết 2 kích thước (1,6 x 01)cm, sâu 01cm, 02 vết cách nhau 02cm.

- Vùng thái dương phải có 02 vết thương, kích thước mỗi vết (1,4 x 0,4)cm.

- Vành tai phải có 02 vết thương, kích thước mỗi vết (2,2 x 0,8)cm.

- Vùng mặt phải có 02 vết thương: Vết 1 kích thước (2,1 x 0,7)cm; vết 2 kích thước (02 x 01)cm.

- Vai phải có 01 vết thương, kích thước (1,2 x 0,8)cm, sâu 01cm.

- Vùng chẩm phải có 01 vết thương, kích thước (3,8 x 1,3)cm, sâu 01cm.

- Nhiều vết sây sát, rách da vùng đầu, lưng, ngực, tay và chân.

* Khám trong:

- Bầm tụ máu dưới da vùng ngực tương ứng với các vết thương bên ngoài.

- Thủng cơ gian sườn 3, 4, 5 bên phải và cơ gian sườn 2, 3 bên trái.

- Thủng giữa, dưới phổi phải; thủng giữa trên phổi trái.

- Thủng màng ngoài tim, khoang màng tim có nhiều máu loãng lẫn máu đông.

- Vết thương mặt trước tâm thất phải xuyên thấu vào buồng tim phải.

* Bác sĩ pháp y kết luận nguyên nhân chết: Suy tuần hoàn cấp do vết thương thấu ngực, thủng tim, thủng phổi.

* Căn cứ các Kết luận giám định số 22/KLGĐ-PC09(SH), ngày 15/5/2021, số 26 ngày 17/5/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh An Giang, kết luận:

- Vết màu nâu thu tại vị trí số 1 là máu người, thuộc nhóm máu A.

- Vết màu nâu thu tại vị trí số 2, số 3 là máu người, thuộc nhóm máu B.

- Trên chiếc dép nhựa màu đen bên trái gửi giám định có dính máu người, thuộc nhóm máu B.

- Vết màu nâu dính trên quần Jean ngắn màu xanh gửi giám định là máu người, thuộc nhóm máu A.

- Vết màu nâu dính trên quần lót gửi giám định là máu người, thuộc nhóm máu A.

- Vết màu nâu dính trên nón bảo hiểm gửi giám định là máu người. Do dấu vết quá ít không đủ điều kiện giám định xác định nhóm máu.

- Trên chiếc dép nhựa màu đen bên phải gửi giám định có dính máu người. Do dấu vết quá ít không đủ điều kiện giám định xác định nhóm máu.

- Vết màu nâu dính trên áo thun màu vàng gửi giám định là máu người, thuộc nhóm máu A.

- Vết màu nâu dính trên lưỡi dao gửi giám định là máu người, thuộc nhóm máu A.

- Vết màu nâu dính trên túi nilon màu trắng gửi giám định là máu người, thuộc nhóm máu A.

- Vết màu nâu dính trên áo khoác màu trắng gửi giám định là máu người, thuộc nhóm máu A.

- Vết màu nâu dính trên áo thun màu đen gửi giám định là máu người, thuộc nhóm máu A.

- Vết màu nâu dính trên khẩu trang y tế gửi giám định là máu người, thuộc nhóm máu A.

- Vết màu nâu dính trên điện thoại di động, ốp lưng điện thoại gửi giám định là máu người, thuộc nhóm máu A.

- Máu của Thái Quang M, sinh năm: 1993 thuộc nhóm máu A.

- Máu của Bùi Trọng N, sinh ngày 10/12/2005 thuộc nhóm máu B.

* Căn cứ Kết luận định giá tài sản số 73/KL-HĐĐG.TTHS ngày 03/6/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự tỉnh An Giang, kết luận:

- Sợi dây chuyền bằng kim loại, màu trắng, dạng xoắn (vàng 18K), tại thời điểm định giá 23/3/2021, có giá trị: 38.405.880 đồng.

- Xe môtô hiệu Piaggio loại Vespa SPINT 125 ABS-514, biển số 67E1-X, tại thời điểm định giá 23/3/2021, có giá trị: 72.152.771 đồng.

Tổng giá trị: 110.558.651 đồng (Một trăm mười triệu năm trăm năm mươi tám nghìn sáu trăm năm mươi một đồng).

* Căn cứ Bản kết luận giám định pháp y về độ tuổi số 3964/C09B ngày 23/9/2021 của Phân viện khoa học hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh, kết luận: Tại thời điểm giám định (tháng 9 năm 2021) Bùi Trọng N có độ tuổi từ 16 năm 09 tháng đến 17 năm 3 tháng.

* Lời khai của đại diện hợp pháp bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan;

người làm chứng:

- Tống Thị K, Thái Tống Minh T (mẹ, chị của bị hại Thái Quang M), Bùi Mạnh H, Phạm Thị L, Bùi Phương A, Bùi Vân A1, La Đức H, Nguyễn Văn T, Ngô Văn T1, Huỳnh Thanh G, Bùi Vĩnh Q, Đỗ Văn B, Lê Ngọc C, Lê Văn A2 , Phan Phú T2, Nguyễn Văn U, Lê Hiền H, Nguyễn Minh Th, Nguyễn Ngọc Q1, Hồ Phương L, Nguyễn Thị M1, Nguyễn Văn Bé N trình bày phù hợp với nội dung vụ án. Thái Tống Minh T (đại diện hợp pháp bị hại) không yêu cầu bồi thường dân sự.

- La Đức H trình bày: Không biết 01 sợi dây chuyền vàng trắng do N mang bán là tài sản phạm tội mà có, nên đã mua với giá 34.422.000 đồng và đã tự nguyện giao nộp cho Cơ quan Cảnh sát điều tra, yêu cầu xin nhận lại số tiền đã mua dây chuyền của N.

- Bùi Mạnh H, Phạm Thị L (cha, mẹ bị can N) trình bày: N sinh vào năm 2005 (không nhớ rõ ngày, tháng), do gia đình sinh sống tại thành phố Châu Đốc không đăng ký thường trú nên không đăng ký khai sinh cho N. Tết Nguyên đán năm 2007, gia đình về quê tại huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An, H đã đến Ủy ban nhân dân huyện Thanh Chương, đăng ký khai sinh cho N đề ngày 10/12/2005.

Tại Cơ quan điều tra, bị cáo Bùi Trọng N đã khai nhận hành vi phạm tội phù hợp với lời khai của đại diện hợp pháp bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; người làm chứng; Kết quả khám nghiệm hiện trường; Kết luận giám định pháp y tử thi, vật chứng thu giữ và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Bị cáo N còn khai nhận thêm: Do tức giận việc Thái Quang M có hành vi dâm ô nên N lấy cây dao đâm nhiều nhát vào vùng cổ, ngực, lưng giết chết M. Sau khi thấy M đã chết, N mới chiếm đoạt tài sản tiền, sợi dây chuyền vàng 18K và xe mô tô nhãn hiệu Piaggio loại Vespa của M như nội dung vụ án đã nêu.

Tại Cáo trạng số 79/CT-VKSAG-P2 ngày 27/10/2021 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh An Giang, đã truy tố bị cáo Bùi Trọng N về tội “Giết người” và “Cướp tài sản” theo điểm e, n khoản 1 Điều 123; điểm đ khoản 2 Điều 168 của Bộ luật Hình sự 2015 được sửa đổi, bổ sung 2017.

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Bùi Trọng N khai nhận: Do tức giận việc M có hành vi dâm ô nhiều lần đối với bị cáo, nên bị cáo lấy cây dao mang theo đâm nhiều nhát vào vùng cổ, ngực, lưng của M, khi thấy M. Sau khi thấy M đã chết, bị cáo mới lấy 500.000 đồng, một sợi dây chuyền vàng 18K và xe mô tô nhãn hiệu Piaggio loại Vespa của M như nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát đã quy kết, bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt để sớm được trở về với gia đình và giúp ích cho xã hội.

Đại diện hợp pháp của bị hại chị Thái Tống Minh T trình bày: Đề nghị Hội đồng xét xử, xử phạt bị cáo và yêu cầu bị cáo và cha mẹ của bị cáo phải bồi thường thiệt hại về tổn thất tinh thần do tính mạng bị xâm hại theo quy định của pháp luật, ngoài ra không yêu cầu gì khác.

Bị cáo và đại diện của bị cáo ông Bùi Mạnh H, bà Phạm Thị L thống nhất bồi thường cho gia đình bị hại theo quy định của pháp luật, hiện nay gia đình rất khó khăn về kinh tế cũng như các điều kiện khác.

Đại diện Viện kiểm sát thực hành quyền công tố tại phiên tòa, sau khi xét hỏi, tranh luận, xem xét tính chất vụ án, mức độ và hậu quả từ hành vi phạm tội cũng như các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng: điểm e, n khoản 1 Điều 123; điểm đ khoản 2 Điều 168; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 55; Điều 98 Điều 101; Điều 103; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt: Bị cáo Bùi Trọng N từ 14 năm đến 15 năm tù về tội “Giết người” và từ 06 năm đến 07 năm tù về tội “Cướp tài sản”. Tổng hợp hình phạt, buộc bị cáo phải chấp hành chung cho cả hai tội là 18 năm tù.

* Về trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng:

Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: Điều 46; Điều 47; Điều 48 Bộ luật Hình sự; Điều 585, Điều 586, Điều 591 Bộ luật Dân sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:

- Buộc bị cáo phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật và gắn với trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cha, mẹ bị cáo.

- Tịch thu, tiêu hủy các vật chứng không còn giá trị sử dụng theo quy định của pháp luật.

- Tạm quản lý các vật chứng để đảm bảo thi hành án, bao gồm:

1. Một giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô biển số: 66VA-X, mang tên Nguyễn Văn Bé N.

2. Một xe môtô màu đỏ, biển số 66VA-X, số máy 00002517, số khung 000517 của bị cáo và gia đình sang nhượng nhưng chưa sang tên. (đã qua sử dụng) Buộc bị cáo bồi thường thiệt hại cho ông La Đức H số tiền 34.442.000 đồng đối với sợi dây chuyển bằng vàng trắng là tài sản do phạm tội mà có, nhưng ông H không biết và đã mua của bị cáo và đã tự nguyện giao nộp cho cơ quan điều tra.

Luật sư bào chữa chỉ định cho bị cáo Bùi Trọng N trình bày: Thống nhất về tội danh, khung hình phạt, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như Viện kiểm sát truy tố và đề nghị đối với bị cáo không tranh luận. Tuy nhiên, đề nghị Hội đồng xét xử có quan tâm xem xét, khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo là người chưa thành niên nên nhận thức bị hạn chế; trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thành khẩn khai báo, tỏ rõ thái độ ăn năn hối cải; bị cáo xin lỗi gia đình bị hại; hoàn cảnh gia đình khó khăn; bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, do đó đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt thấp nhất đối với bị cáo.

Luật sư bảo về quyền và lợi ích hợp pháp cho đại diện bị hại trình bày: Thống nhất về tội danh, khung hình phạt, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như Viện kiểm sát truy tố và đề nghị đối với bị cáo không tranh luận. Buộc bị cáo và cha mẹ của phải có trách nhiệm bồi thường cho gia đình bị hại thiệt hại tinh thần là đúng theo quy định của pháp luật theo khoản 2 Điều 586 Bộ luật Dân sự vì vậy không có ý kiến. Ngoài ra chúng tôi đề nghị xử lý bị cáo nghiêm theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng:

Trong quá trình điều tra, truy tố, Cơ quan Cảnh sát điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng cũng như các chứng cứ được thu thập trong quá trình điều tra. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện và chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đều hợp pháp.

Tại phiên tòa vắng mặt một số người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người làm chứng nhưng đã được Tòa án tống đạt giấy triệu tập hợp lệ và ông La Đức H có đơn xin xét xử vắng mặt tại phiên tòa. Xét thấy, những người này đã có lời khai trong quá trình điều tra và sự vắng mặt của họ không gây trở ngại đến việc xét xử, giải quyết vụ án. Khi cần thiết Hội đồng xét xử sẽ công bố lời khai của họ tại phiên tòa. Căn cứ Điều 292 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[2] Những chứng cứ xác định hành vi phạm tội của bị cáo:

Xét thấy lời khai nhận tội của bị cáo Bùi Trọng N tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với lời khai trong quá trình điều tra; lời khai của đại diện của bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người làm chứng. Ngoài ra, còn phù hợp với Bản kết luận giám định pháp y tử thi số 59/KLGĐ-PC09 ngày 28/3/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh An Giang; các Kết luận giám định số 22/KLGĐ-PC09(SH), ngày 15/5/2021, số 26 ngày 17/5/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh An Giang; Kết luận định giá tài sản số 73/KL-HĐĐG.TTHS ngày 03/6/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự tỉnh An Giang; Bản kết luận giám định pháp y về độ tuổi số 3964/C09B ngày 23/9/2021 của Phân viện khoa học hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Do đó, đã có đầy đủ căn cứ để kết luận: Do tức giận Thái Quang M có hành vi dâm ô, bị cáo Bùi Trọng N đã lấy cây dao (loại dao Thái Lan, cán màu đen, lưỡi bằng kim loại màu trắng, mũi nhọn, dài 20cm) đâm nhiều nhát vào vùng cổ, ngực, lưng giết chết bị hại Thái Quang M. Sau khi M chết và thấy M có tài sản, bị cáo chiếm đoạt 500.000 đồng, sợi dây chuyền vàng 18K và một xe mô tô nhãn hiệu Piaggio loại Vespa, với tổng giá trị tài sản chiếm đoạt là 111.058.651 đồng đem bán lấy tiền tiêu xài cá nhân và trả nợ. Cho nên, hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Giết người” và tội “Cướp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm e, n khoản 1 Điều 123; điểm đ khoản 2 Điều 168 của Bộ luật Hình sự 2015 được sửa đổi, bổ sung 2017.

Do đó, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh An Giang đã truy tố bị cáo Bùi Trọng N về tội danh và điều luật như đã viện dẫn là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

Đối với:

- La Đức H đã mua sợi dây chuyền do N mang bán, nhưng không biết tài sản do phạm tội mà có, đã tự nguyện giao nộp tài sản nên Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an tỉnh An Giang, không khởi tố để truy cứu trách nhiệm hình sự là có căn cứ.

- Việc N sử dụng tài sản cá nhân, cầm xe mô tô của gia đình, vay tiền của M để chơi game có trả thưởng bằng tiền tại tiệm game “Nam Phong 2”, nhưng chưa đủ căn cứ để quy kết trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc, Cơ quan tiến hành tố tụng sẽ phối hợp, đề nghị chính quyền địa phương xem xét việc cấp phép kinh doanh đối với hình thức kinh doanh này.

[3] Về tính chất, mức độ, hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, thì thấy:

Bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, có đủ khả năng nhận thức nhận thức được hành vi của mình là xâm phạm đến sức khỏe, tính mạng và tài sản của người khác là vi phạm pháp luật, nhưng bị cáo vẫn bất chấp hậu quả xảy ra và cố ý thực hiện. Giữa bị cáo và bị hại Thái Quang M không có mâu thuẫn gì từ trước, nguyên nhân xuất phát từ việc tức giận bị hại M có hành vi dâm ô như sờ ngực, bộ phận sinh dục, hôm môi, mặt, cổ và đưa thuốc kích dục cho bị cáo uống nằm ép bị cáo quan hệ đồng tính, nếu bị cáo biết kiềm chế bản thân thì hậu quả đáng tiếc sẽ không xảy ra. Nhưng với bản chất côn đồ, hung hãn, xem thường pháp luật bị cáo đã lấy cây dao đã đem theo sẵn trước đó đâm nhiều nhát vào vùng cổ, ngực, lưng giết chết bị hại rồi lấy số tiền 500.000 đồng, sợi dây chuyền vàng và chiếc xe mô tô nhãn hiệu Piaggio loại Vespa của bị hại M mang đi bán để lấy tiền tiêu xài, chơi game và trả nợ thì bị phát hiện và bắt giữ.

Hành vi phạm tội của bị cáo là đặc biệt nghiêm trọng, nguy hiểm cho xã hội, phạm vào nhiều tình tiết tăng nặng định khung hình phạt là “Giết người mà liền ngay sau đó lại thực hiện một tội phạm rất nghiêm trọng”; “Có tính chất côn đồ” và “Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng”; trực tiếp xâm phạm đến sức khỏe, tính mạng, tài sản của người khác một cách trái pháp luật; gây ra đau thương mất mát cho gia đình nạn nhân mà không có gì có thể bù đắp được; gây mất an ninh trật tự tại địa phương. Do đó, cần phải xử phạt bị cáo với mức án nghiêm, tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo mới có tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người dân biết tôn trọng pháp luật, đồng thời răn đe, phòng ngừa chung trong xã hội.

Tuy nhiên, xét thấy tại phiên tòa hôm nay, cũng như trong quá trình điều tra, bị cáo đã thành khẩn khai báo; tỏ rõ thái độ ăn năn hối cải; sau khi phạm tội đã ra đầu thú; khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo là người chưa thành niên nên nhận thức bị hạn chế; hoàn cảnh gia đình khó khăn. Do đó, khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử có cân nhắc, xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cũng đủ tác dụng giáo dục, cải tạo bị cáo.

[4] Về trách nhiệm dân sự:

Bị cáo là người trực tiếp xâm phạm đến sức khỏe, tính mạng, tài sản của người bị hại thì phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Tại phiên tòa hôm nay, đại diện hợp pháp của bị hại là chị Thái Tống Minh T yêu cầu xử phạt bị cáo và buộc bị cáo, cha mẹ phải bồi thường tiền tổn thất tinh thần do tính mạng bị xâm phạm theo quy định của pháp luật, ngoài ra không yêu cầu gì khác. Bị cáo và cha mẹ của bị cáo thống nhất bồi thường theo yêu cầu của chị Trang và xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Xét thấy, sự tự nguyện của các bên là phù hợp với pháp luật nên được Hội đồng xét xử chấp nhận. Do đó, bị cáo khi thực hiện hành vi phạm tội là người chưa thành niên và ông Bùi Mạnh H, bà Phạm Thị L là cha mẹ của bị cáo phải cùng có trách nhiệm bồi thường thiệt hại tiền tồn thất tinh thần do tính mạng bị xâm phạm cho người bị hại số tiền là 149.000.000 đồng (Một trăm bốn mươi chín triệu đồng), tương đương với 100 lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định, do chị Thái Tống Minh T đại diện nhận.

Đối với ông La Đức H đã mua sợi dây chuyền do bị cáo N mang bán, nhưng không biết tài sản này do bị cáo phạm tội mà có, đã tự nguyện giao nộp cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh An Giang. Nay ông yêu cầu bị cáo bồi thường thiệt hại cho ông số tiền là 34.422.000 đồng, ngoài ra không có yêu cầu gì khác, bị cáo đồng ý bồi thường theo yêu cầu của ông H. Xét thấy, sự tự nguyện của các bên là phù hợp với pháp luật, nên được Hội đồng xét xử chấp nhận. Do đó, bị cáo Bùi Trọng N phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho ông La Đức H số tiền 34.422.000 đồng (Ba mươi bốn triệu bốn trăm hai mươi hai nghìn đồng) [5] Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu, tiêu hủy các vật chứng không còn giá trị sử dụng được thu giữ trong quá trình điều tra.

- Tạm quản lý các vật chứng của bị cáo để đảm bảo thi hành án gồm:

1. Một giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô biển số: 66VA-X, mang tên Nguyễn Văn Bé N.

2. Một xe môtô màu đỏ, biển số 66VA-X, số máy 00002517, số khung 000517 (đã qua sử dụng) 3. Tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: 33.578.000 đồng (Ba mươi ba triệu năm trăm bảy mươi tám nghìn đồng), có Ủy nhiệm chi ngày 01/11/2021 kèm theo.

Các loại vật chứng trên được quản lý theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 02/11/2021 của Cục thi hành án dân sự tỉnh An Giang.

[6] Về án phí: Bị cáo Bùi Trọng N phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật. Miễn án phí dân sự sơ thẩm cho bị cáo.

Lời bào chữa của luật sư được Hội đồng xét xử xem xét quyết định trong lúc nghị án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Bùi Trọng N phạm tội “Giết người” và “Cướp tài sản” Áp dụng: điểm e, n khoản 1 Điều 123; điểm đ khoản 2 Điều 168; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 55; Điều 101; Điều 103; Điều 98; Điều 38; Điều 46; Điều 47; Điều 48 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điều 585, Điều 586, Điều 591 Bộ luật Dân sự năm 2015.

Xử phạt: Bị cáo Bùi Trọng N 16 năm tù về tội “Giết người”; 05 năm tù về tội “Cướp tài sản”. Tổng hợp hình phạt buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung cho cả 02 tội là 18 (mười tám) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 24/3/2021.

Buộc bị cáo Bùi Trọng N và ông Bùi Mạnh H, bà Phạm Thị L là cha mẹ của bị cáo phải cùng có trách nhiệm bồi thường thiệt hại tiền tồn thất tinh thần do tính mạng bị xâm phạm cho người bị hại số tiền là 149.000.000 đồng (Một trăm bốn mươi chín triệu đồng), do chị Thái Tống Minh T đại diện nhận.

Buộc bị cáo Bùi Trọng N phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho ông La Đức H số tiền 34.422.000 đồng (Ba mươi bốn triệu bốn trăm hai mươi hai nghìn đồng).

* Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu, tiêu hủy các vật chứng không còn giá trị sử dụng được thu giữ trong quá trình điều tra.

- Tạm quản lý các vật chứng của bị cáo để đảm bảo thi hành án gồm:

1. Một giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô biển số: 66VA-X, mang tên Nguyễn Văn Bé N.

2. Một xe môtô màu đỏ, biển số 66VA-X, số máy 00002517, số khung 000517 (đã qua sử dụng)

3. Tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: 33.578.000 đồng (Ba mươi ba triệu năm trăm bảy mươi tám nghìn đồng), có Ủy nhiệm chi ngày 01/11/2021 kèm theo.

Các loại vật chứng trên được quản lý theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 02/11/2021 của Cục thi hành án dân sự tỉnh An Giang.

Bị cáo Bùi Trọng N phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo Bùi Trọng N và đại diện hợp pháp của bị hại chị Thái Tống Minh T, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan La Đức H được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án hoặc trong thời hạn 15 ngày tính từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án nhưng người phải thi hành án chậm thực hiện nghĩa vụ thì còn phải chịu lãi suất đối với số tiền chậm thi hành án theo mức lãi suất được quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, sự tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, Điều 7a và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

25
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội giết người số 01/2022/HS-ST

Số hiệu:01/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân An Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;