TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CẦN THƠ
BẢN ÁN 09/2022/HS-ST NGÀY 24/01/2022 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI, CƯỚP TÀI SẢN
Ngày 24 tháng 01 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ, xét xử sơ thẩm công khai, vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 48/2021/TLST- HS ngày 18/11/2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 01/2022/QĐXXST- HS ngày 06 tháng 01 năm 2022 đối với bị cáo:
Nguyễn Bá M, sinh năm 1984, tại Cần Thơ. Nơi cư trú: đường A, phường N, quận B, thành phố Cần Thơ; nghề nghiệp: Thợ bê; trình độ học vấn: 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Bá H và bà Lê Thị D (chết); vợ: Lê Thị N; con: 02 người, lớn sinh năm 2009, nhỏ sinh năm 2010; tiền án, tiền sự: Không;
Nhân thân: Ngày 09/01/2006 bị Tòa án nhân dân quận B xử phạt 02 năm tù về tội Trộm cắp tài sản, chấp hành xong ngày 20/7/2007.
Bị cáo bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 26/5/2021 đến nay. Có mặt.
- Người bào chữa cho bị cáo:
Luật sư Trịnh Hữu B – Văn phòng Luật sư L thuộc Đoàn Luật sư thành phố Cần Thơ.
- Người bị hại:
1. Ông Đỗ Quang Đ, sinh năm 1961 Nơi cư trú: Phường X, quận N, thành phố Cần Thơ. (có mặt)
2. Bà Nguyễn Thị K, sinh năm 1984 Nơi cư trú: Phường X, quận N, thành phố Cần Thơ. (có mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau.
Tháng 4/2021, Nguyễn Bá M được được người quen giới thiệu đến thi công sơn bê nhà ông Đỗ Quang Đ. Khoảng 07 giờ ngày 25/5/2021, M điều khiển xe mô tô hiệu Airblade biển số 65D1-xxxxx đến nhà ông Đ để sơn bê như thường ngày, thấy M nên ông Đ rủ M sang quán giải khát gần đó uống cà phê. Sau đó, ông Đ thấy chị Nguyễn Thị K là người giúp việc nhà cho ông Đ đạp xe đến mở cửa vào nhà dọn dẹp nên ông Đ kêu M vô nhà để sơn bê. Đến khoảng 10 giờ ông Đ về nhà, gặp M thì chỉ các chỗ tường cần sơn lại và lắp khung chắn cửa sổ trong phòng, xong M nói với ông Đ kêu chị K lên phòng giặt phơi đồ tại tầng 3 dọn dẹp cho M sơn bê. Ông Đ kêu chị K lên dọn dẹp thì M cùng đi theo phía sau chị K lên lầu 3, vào phòng giặt phơi đồ, chị K đẩy 01 sào phơi quần áo ra phía ngoài, lúc này M nhìn thấy trên tay chị K có đeo 02 vòng bằng kim loại màu vàng nên nảy sinh ý định dùng vũ lực để chiếm đoạt tài sản của chị K bán lấy tiền trả nợ. Khi chị K quay vào đẩy sào đồ thứ hai ra phơi thì làm rơi cái áo nên cuối xuống nhặt thì M cầm 01 khối kim loại hình chữ U có thanh chắn ngang (ma ní – dụng cụ dùng đu dây sơn tường) đánh mạnh 01 cái vào vùng đầu phía sau làm chị K choáng ngã xuống nền gạch và kêu cứu, đồng thời giằng co với M, cả hai đều ngã xuống nền gạch, lúc này M nhìn thấy có cây dao (loại dao Thái Lan) cán bằng nhựa, lưỡi bằng kim loại nên M lấy cây dao đâm nhiều nhát trúng vào tay phải, vùng bẹn và hông sườn của chị K. Ông Đ nghe chị K kêu cứu nên chạy từ lầu 1 lên và nói “cái gì vậy M”. M biết ông Đ chạy lên nên giấu cây dao phía sau và nói “ chị K bị té”, ông Đ đi đến đỡ chị K thì bất ngờ M dùng dao lao tới đâm nhiều nhát vào người ông Đ, trúng 02 nhát vào vùng cổ và 01 nhát vào vùng lưng thấu ngực. Ông Đ ôm M lại nên cả hai ngã xuống nền gạch, chị K đứng lên bỏ chạy xuống tầng trệt để thoát thân. M thấy chị K bỏ chạy nên buông ông Đ ra và cầm dao đuổi theo chị K xuống tầng trệt, nắm chị K lại dùng dao đâm liên tiếp trúng vào vùng hông, ngực, bụng của chị K (trúng 05 nhát). Lúc này ông Đ chạy từ trên xuống đến cầu thang tầng trệt, M nhìn thấy ông Đ nên buông chị K và đuổi theo ông Đ để đâm tiếp, ông Đ thấy M truy đuổi nên bỏ chạy lên lầu 3. Khi M đuổi theo ông Đ, chị K mở được cửa chạy ra ngoài truy hô. M nghe tiếng truy hô nên ném cây dao xuống nền gạch, chạy ra ngoài lấy xe mô tô tẩu thoát khỏi hiện trường. Người dân ở gần nhà ông Đ phát hiện sự việc nên đưa chị K và ông Đ đi cấp cứu.
Sau khi gây án, M về quán cà phê G do chị Trương Thị Ngọc T (sống chung với M như vợ chồng) làm chủ, thì gặp Trương Quang Th (con riêng của Ngọc T), M hỏi “mẹ đâu” rồi đi vào tắm. Sau đó, M đi ra gặp Ngọc T rồi nói “ tôi xảy ra chuyện rồi, tôi đi trước, hai mẹ con em tự lo” và lấy xe bỏ đi. Trên đường đến thành phố H, tỉnh Kiên Giang để trốn thì M điện thoại cho chị Ngọc T kêu lấy bộ quần áo có dính máu trong nhà tắm ném bỏ, nên chị Ngọc T lấy bộ quần áo của M ném vào thùng rác.
Khi đến thành phố H, tỉnh Kiên Giang, khoảng 17 giờ ngày 25/5/2021 M nghĩ ông Đ chết nên điều khiển xe mô tô quay lại thành phố Cần Thơ để biết thông tin về ông Đ và chị K.
Đến khoảng 01 giờ ngày 26/5/2021 M về tới thành phố Cần Thơ, khi đi ngang qua quán cà phê G thấy cửa đóng nên M tiếp tục chạy đến căn chòi giữ vườn của ông Đinh Văn Đ tại ấp L, xã P, huyện T, tỉnh Hậu Giang để ngủ nhờ, tại đây M nói với ông Đ có đánh nhau với người khác thì ông Đ kêu M ra đầu thú. Đến 13 giờ 05 phút ngày 26/5/2021 M bị bắt giữ.
Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 192/TgT ngày 30/9/2021 của Trung tâm pháp y thành phố Cần Thơ đối với Nguyễn Thị K:
1/ Dấu hiệu chính qua giám định:
Vết thương mặt ngoài: 1/3 trên cánh tay phải, chấn thương khuỷu tay phải gây trật khớp khuỷu tay phải, mẻ rời xương vùng khuỷu tay phải đã được khâu vết thương, nắn và bó cố định khớp khuỷu. Hiện tại vết thương đã lành sẹo, vận động khuỷu tay phải trong giới hạn bình thường.
Vết thương vùng bẹn trái đã được khâu vết thương và điều trị nội khoa. Hiện tại vết thương đã lành sẹo, không ảnh hưởng chức năng.
Vết thương ở khoang liên sườn V bên phải, khoang liên sườn III bên trái và vết thương vùng thượng vị gây thấu ngực - bụng, đứt động mạch liên sườn IV bên trái, thủng thùy dưới phổi trái, thủng thùy dưới phổi phải, thủng cơ hoành hai bên, thủng gan đã được phẩu thuật khâu nhu mô phổi, khâu cơ hoành, khâu gan, dẫn lưu màng phổi và ổ bụng, điều trị nội khoa. Hiện tại các vết thương, các vết mổ và vết dẫn lưu đã lành sẹo, không ảnh hưởng chức năng.
2/ Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 61% (sáu mươi mốt phần trăm).
3/ Kết luận khác: Các vết thương phù hợp với cơ chế do vật sắc nhọn gây ra.
Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 191/TgT ngày 30/9/2021 của Trung tâm pháp y thành phố Cần Thơ đối với Đỗ Quang Đ:
1/ Dấu hiệu chính qua giám định:
- Vết thương phần mềm dọc cổ phải, dọc sau cổ phải đã được khâu vết thương và điều trị nội khoa. Hiện tại các vết thương đã lành sẹo, không ảnh hưởng chức năng.
- Hai vết thương vùng lưng gây thấu ngực làm tràn khí màng phổi hai bên, tràn dịch màng phổi phải, dập thùy dưới phổi phải đã được phẩu thuật dẫn lưu tối thiểu khoang màng phổi phải và điều trị nội khoa. Hiện tại vết thương và vết mổ đã lành sẹo, không ảnh hưởng chức năng.
2/ Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 16%.
3/ Kết luận khác: Các vết thương phù hợp với cơ chế do vật sắc nhọn gây ra.
Kết luận giám định số 108/KLGĐ-PC09 (SV) ngày 23/7/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an thành phố Cần Thơ kết luận:
- Máu của bị can Nguyễn Bá M thuộc nhóm máu O.
- Máu ghi thu của Đỗ Quang Đ thuộc nhóm máu A.
- Máu ghi thu của Nguyễn Thị K thuộc nhóm máu O.
Vết nghi máu thu tại hiện trường được ký hiệu lần lượt 3, 5, 6, 7, 9, A, B trên quần ngắn của Đỗ Quang Đ là máu người thuộc nhóm máu A, trùng với nhóm máu của ông Đỗ Quang Đ.
Vết máu thu tại hiện trường được ký hiệu 1, 2 trên cây dao là máu người và thuộc nhóm máu O, trùng nhóm máu với máu của Nguyễn Thị K và Nguyễn Bá M.
Kết luận định giá tài sản số: 3749/KL-HĐĐGTS ngày 19/10/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự, Ủy ban nhân dân thành phố Cần Thơ kết luận: 02 vòng tay bằng vàng 60% (14,4K) tại thời điểm ngày 25/5/2021 là:
- Giá mua vào ngày 25/5/2021: 3.196.000đ/chỉ.
- Giá bán ra ngày 25/5/2021: 3.226.000đ/chỉ.
Xác nhận của Công ty cổ phần vàng bạc đá quý SJC Cần Thơ: 02 vòng tròn có tuổi vàng 60% (14,4K) có trọng lượng 2,260 chỉ.
Giá bán 3.226.000 đồng x 2,260 chỉ = 7.292.000 đồng; giá mua 3.196.000 đồng x 2,260 chỉ = 7.222.000 đồng.
Đối với Trương Thị Ngọc T có hành vi ném bỏ quần áo có dính máu của M và đến nhà ông Nguyễn Bá H để lấy căn cước công dân, xin tiền theo yêu cầu của M nhưng T không biết M dùng dao đâm người khác mà cho rằng M bị chủ nợ đánh nên bỏ trốn vì ngày 24/5/2021 có nhiều người đến đòi nợ M và xảy ra cự cãi. T không có ý thức che giấu nên không có cơ sở xử lý đối với T.
Đối với Trương Thanh Q có tiếp xúc và nhìn thấy trên người M dính nhiều máu nhưng nghĩ rằng bị chủ nợ đòi tiền đánh. Do đó Q không có ý thức che giấu nên không có cơ sở xử lý Q.
Đối với Đinh Văn Đ có gặp và cho M ngủ nhờ, biết M đánh nhau nhưng không biết rõ M dùng dao đâm người khác, cướp tài sản. Đồng thời Đ đã yêu cầu M ra đầu thú. Do đó không có căn cứ xử lý Đ.
Vật chứng tạm giữ gồm: 01 xe mô tô Honda Airblade, màu trắng bạc đen, biển số 65D1-xxxxx, số máy JF27E0898063, số khung RLHJF2700BY121006 đã qua sử dụng; 01 cây dao dài 32cm có cán màu hồng, lưỡi màu trắng sáng, mũi nhọn; 01 cái nón màu xanh đen loại Jean có dính màu trắng; 01 quần của Đỗ Quang Đ có dính máu; 01 điện thoại di động Nokia màu đen, loại máy bấm số, IMEI 354247/06/933626/0 đã qua sử dụng; 01 cục bằng kim loại hình chữ U đã rỉ sét, có 02 lỗ và thanh sắt ngang (ma ní) ; 01 đôi dép lào màu vàng đã qua sử dụng; 01 chiếc bông tai bằng kim loại màu vàng; 02 vòng tay bằng kim loại vàng 14,4K; 01 USB chứa nội dung trích xuất từ camera và hình ảnh có âm thanh khi thực nghiệm điều tra, hỏi cung bị can.
Ngày 20/10/2021 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Cần Thơ đã xử lý vật chứng trả lại cho người bị hại Nguyễn Thị K 01 chiếc bông tai bằng kim loại màu vàng và 02 chiếc vòng tay bằng kim loại màu vàng.
Trách nhiệm dân sự: Nguyễn Thị K yêu cầu bồi thường chi phí điều trị, tiền tổn thất tinh thần và ngày công lao động tổng cộng 160.000.000đồng, gia đình M đã khắc phục 50.000.000đồng. Ông Đỗ Quang Đ yêu cầu bồi thường 120.000.000đồng.
Tại cáo trạng số 39/CT – VKS – P2 ngày 12/11/2021, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cần Thơ đã truy tố Nguyễn Bá M về tội Giết người và Cướp tài sản theo điểm a, e, g, n khoản 1 Điều 123 và điểm d khoản 2 Điều 168 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
* Tại phiên tòa:
- Bị cáo khai nhận đã thực hiện hành vi đúng như đã nêu trong nội dung cáo trạng. Giữa bị cáo và người bị hại cũng thống nhất về số tiền bị cáo phải có trách nhiệm bồi thường, theo đó bị cáo bồi thường cho chị K 160.000.000đồng; bồi thường cho ông Đ 80.000.000 đồng. Bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt để sớm đoàn tụ chăm sóc cho gia đình.
- Người bị hại yêu cầu xem xét trách nhiệm hình sự đối với bị cáo theo quy định của pháp luật.
- Đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm:
Vẫn giữ quan điểm đã truy tố đối với bị cáo. Phân tích tính chất, mức độ phạm tội bị cáo đã thực hiện, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo các điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Đề nghị áp dụng Điều 15 Bộ luật Hình sự do bị cáo phạm tội chưa đạt. Đề nghị quyết định hình phạt đối với bị cáo từ 15 – 16 năm tù về tội giết người, 08 - 09 năm tù về tội cướp tài sản.
Về trách nhiệm dân sự: Đề nghị công nhận thỏa thuận bồi thường giữa bị cáo và các bị hại.
Về xử lý vật chứng: Đề nghị tịch thu sung công xe moto và điện thoại di động Nokia đã thu giữ của bị cáo do bị cáo sử dụng là phương tiện để tẩu thoát. Đề nghị tịch thu tiêu hủy tang vật liên quan đến hành vi phạm tội.
- Luật sư bào chữa cho bị cáo thống nhất về tội danh đã truy tố đối với bị cáo, đề nghị xem xét lại các tình tiết định khung đối với tội giết người. Thống nhất các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 51 mà Viện kiểm sát đã đề nghị. Đề nghị xem xét thêm tình tiết giảm nhẹ theo khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự do hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn, cha bị cáo là người có công được tặng thưởng huân chương. Đề nghị áp dụng Điều 54 Bộ luật Hình sự quyết định hình phạt cho bị cáo dưới mức thấp nhất của khung hình phạt đã truy tố.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Ở giai đoạn điều tra, truy tố cơ quan tiến hành tố tụng tại giai đoạn sơ thẩm đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.
[2] Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận hành vi của mình như đã nêu trong nội dung bản cáo trạng; lời khai nhận của bị cáo phù hợp nhau, phù hợp với lời khai của người bị hại, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác đã được thẩm tra, đủ cơ sở kết luận: Bị cáo được ông Đỗ Quang Đ thuê sơn lại nhà. Ngày 25/5/2021, trong lúc làm việc bị cáo phát hiện người giúp việc nhà cho ông Đ là chị Nguyễn Thị K có đeo vòng tay và hoa tai bằng vàng nên nảy sinh ý định chiếm đoạt. Bị cáo đã sử dụng dụng cụ dùng để phục vụ cho công việc của mình là thanh sắt hình chữ U đập vào vùng đầu phía sau của chị K với mục đích là cho chị K bất tỉnh để chiếm đoạt tài sản. Sau khi bị tấn công, chị K giằng co với bị cáo và kêu cứu, bị cáo đã sử dụng dao (loại dao thái lan) đâm vào vùng bụng và hông của chị K. Lúc ông Đ từ tầng dưới nhà chạy lên thấy chị K nằm dưới sàn nhà định tiến tới đỡ dậy. Tại thời điểm này bị cáo đã có thể bỏ chạy nhưng vì sợ hành vi bị cáo đã thực hiện bị bại lộ nên bị cáo tiếp tục dùng dao đâm vào vùng cổ và vai của ông Đ làm ông Đ gục xuống, bị cáo lại quay sang đâm vào người chị K, ông Đ bị bị cáo xô ngã, rượt đuổi khi cố gắng giữ bị cáo lại cho chị K bỏ chạy, bị cáo tiếp tục đâm chị K khi đuổi kịp chị K ở gần cửa chính. Kết luận giám định pháp y về thương tích đối với chị K và ông Đ đã xác định chị K có 05 vết thương, trong đó có 01 vết thương ở khoang liên sườn V bên phải, 01 khoang liên sườn III bên trái và vết thương vùng thượng vị gây thấu ngực - bụng, đứt động mạch liên sườn IV bên trái, thủng thùy dưới phổi trái, thủng thùy dưới phổi phải, thủng cơ hoành hai bên, thủng gan. Ông Đ có 05 vết thương trong đó 02 vết thương vùng lưng gây thấu ngực làm tràn khí màng phổi hai bên, tràn dịch màng phổi phải, dập thùy dưới phổi phải. Bị cáo nhận thức được tính chất nguy hiểm và hậu quả của việc dùng dao sắc nhọn tác động vào những vị trí trọng yếu trên cơ thể, có khả năng làm người bị hại tử vong nhưng vẫn thực hiện. Với tính chất vết thương, hung khí và cường độ tấn công như vậy thể hiện ý thức muốn tước đoạt sinh mạng của các bị hại, hậu quả chết người không xảy ra là ngoài ý muốn của bị cáo. Từ những phân tích trên đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Cướp tài sản” theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 168 của Bộ luật Hình sự và tội “Giết người” theo quy định tại các điểm a, n, g khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự. Chuỗi hành vi bị cáo đã thực hiện có sự liên quan với nhau, thể hiện sự thống nhất trong động cơ, mục đích của bị cáo nên không thống nhất với tình tiết định khung theo điểm e khoản 1 Điều 123 như nội dung cáo trạng đã truy tố.
[3] Hành vi của bị cáo là đặc biệt nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác; xâm phạm đến quyền con người được pháp luật bảo vệ; gây mất an ninh trật tự tại địa phương. Bị cáo đã từng bị kết án về tội xâm phạm quyền sở hữu tài sản nên bị cáo hiểu rõ không ai có quyền xâm phạm một cách trái pháp luật tài sản của người khác, cũng như nhận thức được tính mạng, sức khỏe của con người là vốn quý, luôn được pháp luật tôn trọng và bảo vệ, nhưng vì muốn có tiền tiêu xài và trả nợ bị cáo đã cố ý thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản và để che giấu hành vi của mình bị cáo đã dùng dao tấn công các bị hại. Tuy nhiên, bị cáo chưa cướp được tài sản, hậu quả chết người chưa xảy ra nên Hội đồng xét xử xem xét áp dụng theo trường hợp phạm tội chưa đạt quy định tại Điều 15 của Bộ luật Hình sự khi quyết định hình phạt đối với bị cáo. Qua đánh giá tính chất, mức độ, hậu quả hành vi phạm tội bị cáo đã thực hiện xét thấy cần phải có mức hình phạt nghiêm, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định để giáo dục, cải tạo bị cáo, cũng như răn đe và phòng ngừa chung trong xã hội.
[4] Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải và đã thỏa thuận thống nhất với người bị hại về trách nhiệm bồi thường và số tiền phải bồi thường nên ghi nhận và xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Ngoài ra, cha của bị cáo là người có công với cách mạng, là thương binh, được Nhà nước tặng thưởng các Huân chương chiến công, do vậy, chấp nhận đề nghị của Luật sư bào chữa xem xét cho bị cáo tình tiết giảm nhẹ theo khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Với tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo như đã phân tích không có cơ sở để áp dụng Điều 54 Bộ luật Hình sự theo đề nghị của Luật sư.
[5] Về trách nhiệm dân sự:
Việc thỏa thuận bồi thường giữa bị cáo và các người bị hại tại phiên tòa là sự tự nguyện, không trái quy định của pháp luật, không trái đạo đức xã hội nên công nhận.
[6] Về xử lý vật chứng:
- Các vật chứng của vụ án, Cơ quan điều tra đã có quyết định xử lý vật chứng, chủ sở hữu tài sản đã nhận lại, không có khiếu nại, yêu cầu gì khác nên không đặt vấn đề giải quyết.
- Đối với xe mô tô biển số 65D1-xxxxx và điện thoại di động Nokia là phương tiện bị cáo sử dụng hàng ngày, bị cáo nảy sinh ý định cướp tài sản sau khi đã đến nhà ông Đ. Hành vi phạm tội bị cáo đã thực hiện đã hoàn thành từ khi bị cáo ra khỏi nhà ông Đ nên xem xét trả lại cho bị cáo. Không thống nhất với đề nghị của Viện kiểm sát tịch thu sung công do các tài sản này có liên quan đến quá trình tẩu thoát của bị cáo. Tuy nhiên cần giữ lại để đảm bảo thi hành án.
- Các vật chứng, tài sản, đồ vật bị thu giữ khác có chứng cứ xác định có liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo và các tài sản, đồ vật không còn giá trị sử dụng được tịch thu tiêu hủy. Cụ thể: Tịch thu tiêu hủy: 01 cây dao dài 32cm có cán màu hồng, lưỡi màu trắng sáng, mũi nhọn; 01 cái nón màu xanh đen loại Jean có dính màu trắng; 01 quần của Đỗ Quang Đ có dính máu; 01 cục bằng kim loại hình chữ U đã rỉ sét, có 02 lỗ và thanh sắt ngang (ma ní); 01 đôi dép lào màu vàng đã qua sử dụng.
[7] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Bá M phạm tội “Giết người” và “Cướp tài sản”.
2. Áp dụng: điểm a, n, g khoản 1 Điều 123; điểm d khoản 2 Điều 168; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 15; Điều 38; Khoản 1 Điều 55; khoản 3 Điều 57 của Bộ luật Hình sự.
3. Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Bá M 16 (mười sáu) năm tù về tội Giết người; 07 (bảy) năm tù về tội Cướp tài sản. Tổng hợp hình phạt bị cáo phải chấp hành chung là 23 (hai mươi ba) năm tù. Thời hạn bị cáo chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 26/5/2021.
4. Về trách nhiệm dân sự:
Căn cứ vào Điều 48 Bộ luật Hình sự; các Điều 584, 585; 590 Bộ luật Dân sự; Điều 246 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Công nhận sự tự thỏa thuận của bị cáo với các bị hại về việc bồi thường thiệt hại, cụ thể: Bị cáo có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho người bị hại Đỗ Quang Đ số tiền: 80.000.000đồng (tám mươi triệu đồng); bồi thường thiệt hại cho người bị hại Nguyễn Thị K số tiền: 160.000.000đ (một trăm sáu mươi triệu đồng), khấu trừ số tiền 50.000.000đồng (năm mươi triệu đồng) gia đình bị cáo đã bồi thường cho chị K, bị cáo còn phải tiếp tục bồi thường cho chị K 110.000.000đồng (một trăm mười triệu đồng).
Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
5. Về xử lý vật chứng:
Căn cứ vào Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.
- Trả lại cho bị cáo: 01 xe mô tô Honda Airblade, màu trắng bạc đen, biển số 65D1-xxxxx, số máy JF27E0898063, số khung RLHJF2700BY121006 đã qua sử dụng; 01 điện thoại di động Nokia màu đen, loại máy bấm số, IMEI 354247/06/933626/0 đã qua sử dụng. Tuy nhiên, tiếp tục giữ lại để đảm bảo thi hành án.
- Tịch thu tiêu hủy: 01 cây dao dài 32cm có cán màu hồng, lưỡi màu trắng sáng, mũi nhọn; 01 cái nón màu xanh đen loại Jean có dính màu trắng; 01 quần của Đỗ Quang Đ có dính máu; 01 cục bằng kim loại hình chữ U đã rỉ sét, có 02 lỗ và thanh sắt ngang (ma ní); 01 đôi dép lào màu vàng đã qua sử dụng.
6. Về án phí: Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/6/2016 của Uỷ ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
- Bị cáo phải chịu 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.
- Bị cáo phải chịu 12.000.000đồng (mười hai triệu đồng) án phí dân sự sơ thẩm.
7. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người bị hại được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 09/2022/HS-ST về tội giết người, cướp tài sản
Số hiệu: | 09/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Cần Thơ |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 24/01/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về