Bản án về tội giao cho người không đủ điều kiện điều khiển phương tiện tham gia giao thông đường bộ số 44/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRI TÔN, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 44/2023/HS-ST NGÀY 12/09/2023 VỀ TỘI GIAO CHO NGƯỜI KHÔNG ĐỦ ĐIỀU KIỆN ĐIỀU KHIỂN PHƯƠNG TIỆN THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ

Ngày 12-9-2023, tại trụ sở Tòa án, Tòa án nhân dân huyện Tri Tôn công khai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 39/2023/TLST-HS, ngày 09-8-2023, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 39/2023/QĐXXST-HS ngày 25-8-2023, đối với các bị cáo:

1. Lưu Phước L (Tên gọi khác: Đ), sinh ngày 25-8-1990, tại thành phố L, tỉnh An Giang.

Nơi cư trú: Ấp B, xã B, huyện C, tỉnh An Giang; nghề nghiệp: Tài xế; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: Hòa Hảo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lưu Văn Dũng E, sinh năm 1964 và bà Trần Thị Phương N, sinh năm 1968; anh, em ruột có 03 người, bị cáo là người thứ ba; chưa có vợ, con; tiền án; tiền sự: không; nhân thân: không; bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 10-11-2022 đến nay, bị cáo có mặt.

2. Nguyễn Kim N1 (Tên gọi khác: B), sinh ngày 08-02-1996, tại huyện T, tỉnh An Giang. Nơi cư trú: Ấp S, xã V, huyện T, tỉnh An Giang; nghề nghiệp: Làm Neo; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Đạo Phật; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Lâm S, sinh năm 1965 và bà Nguyễn Thị Đ1, sinh năm 1965; anh, em ruột có 04 người, bị cáo là người thứ tư; chưa có chồng, con; tiền án; tiền sự: không; nhân thân: không; bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 04-5-2023 đến nay, bị cáo có mặt.

Bị hại: Em Nguyễn Thị Như H, sinh ngày 26-02-2008; nơi cư trú: ấp T, xã V, huyện T, tỉnh An Giang (đã chết);

Người đại diện hợp pháp của H1: Bà Nguyễn Thị C, sinh năm 1984; nơi cư trú: ấp T, xã V, huyện T, tỉnh An Giang, có mặt;

Người đại diện theo ủy quyền của Bà Nguyễn Thị C: Ông Nguyễn Tấn C1, sinh năm 1979; nơi cư trú: Tổ D, ấp B, xã H, huyện C, tỉnh An Giang, vắng mặt;

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Bà Trần Thị C2, sinh năm 1979; nơi cư trú: Số C, khóm H, thị trấn C, huyện T, tỉnh An Giang, có mặt;

Người làm chứng: Bà Mai Thị Ngọc K (vắng mặt), bà Phạm Thị Hồng P (vắng mặt), ông Dương Văn Tấn N2 (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 10 giờ 20 phút ngày 07-7-2022, Lưu Phước L điều khiển xe ô tô tải biển số 67C-xxxxx lưu thông tuyến đường tỉnh lộ 943, hướng từ thị trấn C - xã T, huyện T. Khi đến Km 55+100 thuộc khóm H, thị trấn C, huyện T, L điều khiển xe ô tô lấn sang phần đường bên trái, cách vạch kẻ giữa đường khoảng 01 mét thì phần ngoài cung sau chắn bùn bánh xe trước và thanh cản bên trái của xe ô tô va chạm với phần đầu phía trước của xe mô tô biển số 67M1-xxxxx do Nguyễn Thị Như H (sinh ngày 26/02/2008) điều khiển chở Nguyễn Kim N1, hậu quả H, N1 và xe mô tô té ngã tại phần đường bên phải (hướng xe của H), được mọi người đưa đi cấp cứu, đến khoảng 17 giờ 30 phút cùng ngày, H chết tại Bệnh viện S1, còn N1 bị thương tích nhẹ.

Qua điều tra xác định được: Trước khi xảy ra tai nạn giao thông, N1 điều khiển xe mô tô biển số 67M1-xxxxx chở H lưu thông tuyến đường tỉnh lộ 943, hướng xã T - thị trấn C, huyện T (ngược chiều xe ô tô do L điều khiển). Trên đường đi, N1 biết rõ H là người dưới 18 tuổi và không có giấy phép lái xe mô tô theo quy định, nhưng do mỏi tay và cần sử dụng điện thoại di động nên N1 giao xe mô tô biển số 67M1-xxxxx (dung tích xi-lanh 149 cm³) cho H điều khiển chở N1 ngồi sau dẫn đến tai nạn giao thông làm H tử vong.

Các ngày 10-11-2022 và 04-5-2023, L, N1 bị khởi tố và áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú.

Vật chứng thu giữ:

+ 01 xe ô tô 67C-xxxxx, hiệu FORLAND, màu xanh, số máy 3E36M2F00567, số khung 00ACGC074191; 01 giấy chứng nhận kiểm định số EA-0909138 và 01 giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô 67C-xxxxx đứng tên Công ty trách nhiệm hữu hạn M. (Đã giao trả cho đại diện theo pháp luật của Công ty là Trần Thị C2 nhận);

+ 01 xe mô tô 67M1-xxxxx, hiệu Honda, loại VARIO150, màu xanh đen, số máy KF11E1692741, số khung 1112GK693652; 01 mảnh vỡ bằng nhựa màu đen bên trên có dính vết màu đỏ kích thước (33 x 17 cm) nghi của xe mô tô 67M1-xxxxx. (Đã giao trả cho Nguyễn Kim N1);

+ 01 giấy phép lái xe hạng E số 89012600xxxx tên Lưu Phước L;

Căn cứ Bản kết luận giám định pháp y về tử thi số 205 ngày 07-7-2022 của Trung tâm pháp y Sở y tế tỉnh A, ghi nhận: Tử thi Nguyễn Thị Như H, sinh năm 2008.

Dấu hiệu chính qua giám định: Bầm tụ máu dưới da vùng đính - trán - thái dương - chẩm trái tương ứng với vết sây sát và bầm máu, phù nề bên ngoài. Vỡ sọ phức tạp vùng đính - thái dương - chẩm trái (kích thước 12 x 5 cm). Nguyên nhân chết: Chấn thương sọ não nặng.

Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, các bị cáo Lưu Phước L và Nguyễn Kim N1 khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung cáo trạng.

Người đại diện hợp pháp của bị hại, bà Nguyễn Thị C (mẹ em H) trình bày: Tai nạn xảy ra làm em H tử vong, các bị cáo có đến thăm hỏi, chia buồn và L hỗ trợ số tiền 70.000.000 đồng, N1 hỗ trợ 20.000.000 đồng. Bà C không yêu cầu các bị cáo bồi thường thêm, chỉ xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, kiểm sát viên, các bị cáo, người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận giám định.

Bản cáo trạng số 39/CT-VKSTT-HS ngày 09-8-2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tri Tôn đã truy tố bị cáo Lưu Phước L về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo điểm a khoản 1 Điều 260 Bộ luật hình sự. Truy tố bị cáo Nguyễn Kim N1 về tội “Giao cho người không đủ điều kiện điều khiển phương tiện tham gia giao thông đường bộ” theo điểm a khoản 1 Điều 264 Bộ luật hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát luận tội đối với các bị cáo, giữ nguyên quyết định truy tố như Cáo trạng. Căn cứ vào tính chất, mức độ phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của người phạm tội, đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 260; điểm b, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự;

Xử phạt bị cáo Lưu Phước L từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù cho hưởng án treo về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”, thời gian thử thách từ 03 năm đến 04 năm tính từ ngày tuyên án.

Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 264; điểm b, điểm i, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 35 Bộ luật hình sự;

Xử phạt bị cáo Nguyễn Kim N1 số tiền từ 15.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng về tội “Giao cho người không đủ điều kiện điều khiển phương tiện tham gia giao thông đường bộ”.

Về hình phạt bổ sung: Nhận thấy, các bị cáo chưa có thu nhập ổn định, đang khó khăn về kinh tế, nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

Về trách nhiệm dân sự: Đại diện hợp pháp của bị hại, bà Nguyễn Thị C (mẹ em H) đã nhận tiền hỗ trợ từ bị cáo L 70.000.000 đồng, bị cáo N1 hỗ trợ 20.000.000 đồng. Bà C không yêu cầu các bị cáo bồi thường thêm nên không đặt ra xem xét.

Tại phiên tòa, bị cáo L tự nguyện hỗ trợ thêm cho bà C số tiền 10.000.000 đồng, bị cáo N1 tự nguyện hỗ trợ thêm cho bà C số tiền 5.000.000 đồng, nhận thấy sự hỗ trợ của các bị cáo là tự nguyện, không trái pháp luật, không trái đạo đức xã hội, đề nghị ghi nhận.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Bà Trần Thị C2 không có yêu cầu gì nên không đặt ra xem xét. Tại phiên tòa, bà C2 tự nguyện hỗ trợ thêm cho bà C số tiền 10.000.000 đồng, nhận thấy sự hỗ trợ của bà C2 là tự nguyện, không trái pháp luật, không trái đạo đức xã hội, đề nghị ghi nhận.

Bị cáo Nguyễn Kim N1 đã nhận tiền chi phí sửa chữa xe mô tô từ bà C2 22.500.000 đồng, bị cáo không yêu cầu bị cáo L và bà C2 bồi thường thêm nên không đặt ra xem xét.

Về vật chứng vụ án: Đối với giấy phép lái xe hạng E số 89012600xxxx đứng tên Lưu Phước L, qua điều tra xác định thuộc sở hữu hợp pháp của bị cáo nên trả lại cho bị cáo.

Các bị cáo không tranh luận, lời nói sau cùng bị cáo xin lỗi đại diện bị hại và xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về Tố tụng:

- Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện T, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện T, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

- Tại phiên tòa người làm chứng vắng mặt, mặc dù Tòa án đã tống đạt giấy triệu tập hợp lệ. Xét thấy, sự vắng mặt của họ không gây trở ngại gì đến việc xét xử của vụ án. Căn cứ Điều 292, 293 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án theo thủ tục chung.

[2] Về nội dung: Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa các bị cáo Lưu Phước L và Nguyễn Kim N1 đều khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung Cáo trạng đã nêu trên. Lời khai nhận tội của các bị cáo tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa phù hợp với nhau, phù hợp lời khai của đại diện bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người làm chứng, biên bản khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm phương tiện, cũng như thời gian, địa điểm xảy ra tai nạn và hậu quả do tội phạm gây ra, cùng các vật chứng đã thu giữ, các tài liệu chứng cứ khác được thu thập khách quan, đúng pháp luật có trong hồ sơ vụ án. Từ đó, có đủ căn cứ để kết luận: Khoảng 10 giờ 20 phút ngày 07-7-2022, bị cáo Lưu Phước L đã có hành vi điều khiển xe ô tô tải biển số 67C-xxxxx, không chú ý quan sát, lấn sang phần đường bên trái đụng vào xe mô tô 67M1-xxxxx do Nguyễn Thị Như H điều khiển chở Nguyễn Kim N1 theo chiều ngược lại, hậu quả làm em H chết do chấn thương sọ não nặng. Còn bị cáo Nguyễn Kim N1 đã có hành vi giao xe mô tô 67M1-xxxxx, dung tích xi-lanh 149 cm³ cho Nguyễn Thị Như H điều khiển khi biết rõ H chưa đủ 18 tuổi và không có giấy phép lái xe mô tô theo quy định, dẫn đến điều khiển xe tham gia giao thông đường bộ xảy ra tai nạn. Hành vi của bị cáo L đã phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo điểm a khoản 1 Điều 260 Bộ luật hình sự; hành vi của bị cáo N1 đã phạm tội “Giao cho người không đủ điều kiện điều khiển phương tiện tham gia giao thông đường bộ” theo điểm a khoản 1 Điều 264 Bộ luật hình sự. Vì vậy, cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố các bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng quy định pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ của hành vi phạm tội: Các bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội khi có ý thức rõ ràng, dù biết rằng hành vi điều khiển xe mô tô tham gia giao thông thiếu quan sát, lấn trái đường cũng như giao xe cho người không đủ điều kiện điều khiển phương tiện tham gia giao thông là trực tiếp xâm phạm đến trật tự an toàn trong hoạt động giao thông đường bộ, đồng thời sẽ ảnh hưởng đến tính mạng, sức khỏe, tài sản của người khác, nhưng do các bị cáo cẩu thả, không quan sát, không làm chủ tay lái khi điều khiển xe tham gia giao thông, cũng như cẩu thả trong việc giao xe cho người không đủ điều kiện điều khiển phương tiện đã gây tai nạn, hậu quả làm em H tử vong.

Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm đến trật tự an toàn trong hoạt động giao thông đường bộ, xâm phạm đến tính mạng của em H, mà còn ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự, an toàn xã hội tại địa phương. Cần áp dụng hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ, hậu quả do hành vi phạm tội của từng bị cáo gây ra, nhằm cải tạo, giáo dục các bị cáo trở thành người công dân có ích cho gia đình và xã hội, đồng thời cũng nhằm răn đe, phòng ngừa tội phạm chung.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ: Xét thấy, quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo thật thà khai báo, ăn năn hối cải; sau khi sự việc xảy ra các bị cáo đã hỗ trợ khắc phục hậu quả cho đại diện bị hại, đại diện bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo, nên các bị cáo được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm b, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo N1 mới phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên được áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Các bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng theo quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự.

Do đó, việc buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù cách ly khỏi xã hội là không cần thiết, cần chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa cho bị cáo L được hưởng án treo, phạt tiền đối với bị cáo N1 cũng có tác dụng răn đe, giáo dục, cải tạo các bị cáo trở thành người công dân có ích cho xã hội. Mức hình phạt tù cho hưởng án treo và phạt tiền mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị là tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội mà các bị cáo đã gây ra.

Về hình phạt bổ sung: Xét thấy, bị cáo L chỉ sống bằng nghề lái xe, bị cáo N1 mới ra nghề, các bị cáo có thu nhập không ổn định, nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Đại diện hợp pháp của bị hại, bà Nguyễn Thị C (mẹ em H) đã nhận tiền hỗ trợ từ bị cáo L 70.000.000 đồng, bị cáo N1 hỗ trợ 20.000.000 đồng. Bà C không yêu cầu các bị cáo bồi thường thêm nên không đặt ra xem xét.

Tại phiên tòa, bị cáo L tự nguyện hỗ trợ thêm cho bà C số tiền 10.000.000 đồng, bị cáo N1 tự nguyện hỗ trợ thêm cho bà C số tiền 5.000.000 đồng, nhận thấy sự hỗ trợ của các bị cáo là tự nguyện, không trái pháp luật, không trái đạo đức xã hội, nên được ghi nhận.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Bà Trần Thị C2 không có yêu cầu gì nên không đặt ra xem xét. Tại phiên tòa, bà C2 tự nguyện hỗ trợ thêm cho bà C số tiền 10.000.000 đồng, nhận thấy sự hỗ trợ của bà C2 là tự nguyện, không trái pháp luật, không trái đạo đức xã hội, nên được ghi nhận.

Bị cáo Nguyễn Kim N1 đã nhận tiền chi phí sửa chữa xe mô tô từ bà C2 22.500.000 đồng, bị cáo không yêu cầu bị cáo L và bà C2 bồi thường thêm nên không đặt ra xem xét.

[6] Về vật chứng vụ án: Đối với giấy phép lái xe hạng E, số 89012600xxxx đứng tên Lưu Phước L, qua điều tra xác định thuộc sở hữu hợp pháp của bị cáo nên trả lại cho bị cáo.

[7] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Lưu Phước L (Tên gọi khác: D) phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”, bị cáo Nguyễn Kim N1 (Tên gọi khác: B) phạm tội “Giao cho người không đủ điều kiện điều khiển phương tiện tham gia giao thông đường bộ”.

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 260; điểm b, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự;

Xử phạt bị cáo Lưu Phước L 02 (hai) năm tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 04 (bốn) năm tính từ ngày tuyên án 12-9-2023.

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 264; điểm b, điểm i, điểm s khoản 1 Điều 51; Bộ luật hình sự;

Xử phạt bị cáo Nguyễn Kim N1 số tiền 20.000.000 đồng (hai mươi triệu đồng).

Giao bị cáo Lưu Phước L1 cho Ủy ban nhân dân xã B, huyện C, tỉnh An Giang giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Công nhận sự tự nguyện của bị cáo L1 hỗ trợ thêm cho bà C số tiền 10.000.000 đồng; bị cáo N1 hỗ trợ thêm cho bà C số tiền 5.000.000 đồng; bà Trần Thị C2 hỗ trợ thêm cho bà C số tiền 10.000.000 đồng.

Căn cứ Điều 46; Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự;

Trả lại cho bị cáo Lưu Phước L giấy phép lái xe hạng E, số 89012600xxxx đứng tên Lưu Phước L.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 14-8-2023 của Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an huyện T).

Căn cứ Điều 136, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23; khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí.

Các bị cáo Lưu Phước L và Nguyễn Kim N1, mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo, đại diện hợp pháp của bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo. Trường hợp vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

17
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội giao cho người không đủ điều kiện điều khiển phương tiện tham gia giao thông đường bộ số 44/2023/HS-ST

Số hiệu:44/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tri Tôn - An Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: [email protected]
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;