Bản án về tội giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổisố 48/2024/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THẠCH HÀ, TỈNH HÀ TĨNH

BẢN ÁN 48/2024/HS-ST NGÀY 16/09/2024 VỀ TỘI GIAO CẤU VỚI NGƯỜI TỪ ĐỦ 13 TUỔI ĐẾN DƯỚI 16 TUỔI

Vào hồi 14 giờ 00 phút ngày 16 tháng 9 năm 2024, tại Hội trường xét xử Toà án nhân dân huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 45/2024/TLST-HS, ngày 08 tháng 8 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 47/2024/QĐXXST-HS, ngày 04 tháng 9 năm 2024 đối với bị cáo:

Họ và tên: Hoàng Văn H; Giới tính: Nam; Tên gọi khác: Không. Sinh ngày 26/8/1998, tại thị trấn T, huyện T, tỉnh Hà Tĩnh. Nơi đăng ký thường trú và chỗ ở hiện nay: Tổ dân phố H, thị trấn T, huyện T, tỉnh Hà Tĩnh. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không. Trình độ học vấn: Lớp 9/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do. Con ông: Hoàng Văn Q1, sinh năm 1963. Con bà: Nguyễn Thị K; sinh năm 1964. Anh chị em ruột: có 05 người, bị cáo là con thứ năm. Vợ: Nguyễn Thị H1, sinh năm 2001 (Đã ly hôn). Con: Có 01 con, sinh năm 2017. Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn "Cấm đi khỏi nơi cư trú" kể từ ngày 15/5/2024 cho đến nay, hiện đang trú tại Tổ dân phố H, thị trấn T, huyện T, tỉnh Hà Tĩnh. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Chị Nguyễn Thị H1, sinh năm: 2001; Nghề nghiệp: Lao động tự do. Nơi cư trú: Tổ dân phố F, thị trấn T, huyện T, tỉnh Hà Tĩnh. Có mặt.

- Người làm chứng:

+ Bà Nguyễn Thị K, sinh năm: 1964; Nơi cư trú: Tổ dân phố H, thị trấn T, huyện T, tỉnh Hà Tĩnh. Có mặt.

+ Ông Hoàng Văn Q1, sinh năm: 1963; Nơi cư trú: Tổ dân phố H, thị trấn T, huyện T, tỉnh Hà Tĩnh. Có mặt.

+ Bà Lê Thị D, sinh năm: 1977; Nơi cư trú: Tổ dân phố F, thị trấn T, huyện T, tỉnh Hà Tĩnh. Có mặt.

+ Ông Nguyễn Phùng H2, sinh năm: 1960; Nơi cư trú: Tổ dân phố F, thị trấn T, huyện T, tỉnh Hà Tĩnh. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng đầu năm 2015, Hoàng Văn H quen biết và nảy sinh tình cảm yêu đương với chị Nguyễn Thị H1, sinh ngày 21/7/2001, trú tại tổ dân phố F, thị trấn T, huyện T, tỉnh Hà Tĩnh. Đến khoảng giữa năm 2016, H và chị H1 bắt đầu có quan hệ tình dục với nhau và sau đó có quan hệ nhiều lần mà không áp dụng biện pháp tránh thai, dẫn tới việc H1 có thai. Khi biết mình có thai, chị H1 đã thông báo cho H và được gia đình hai bên đồng ý cho H và H1 kết hôn với nhau. Ngày 09/4/2017, H và chị H1 tổ chức lễ cưới, lúc đó H đã đủ 18 tuổi còn chị H1 mới 15 tuổi, 8 tháng, 18 ngày nên hai người chưa làm thủ tục đăng ký kết hôn mà sống chung với nhau như vợ chồng ở tổ dân phố H, thị trấn T, huyện T. Đến ngày 08/11/2017, chị H1 sinh con khi mới 16 tuổi, 3 tháng, 17 ngày và đăng ký khai sinh tên con theo họ mẹ là Nguyễn Yến N. Ngày 02/12/2021, Hoàng Văn H và Nguyễn Thị H1 cùng đến UBND thị trấn T, huyện T để làm thủ tục đăng ký kết hôn. Sau khi kết hôn được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn nên ngày 04/10/2023, chị H1 khởi kiện ly hôn với Hoàng Văn H tại Tòa án nhân dân huyện Thạch Hà. Quá trình Tòa án nhân dân huyện Thạch Hà thụ lý, giải quyết vụ án ly hôn, chị H1 đã tố cáo Hoàng Văn H về hành vi giao cấu với mình khi chưa đủ 16 tuổi, dẫn đến có thai và sinh con là cháu Nguyễn Yến N. Xét thấy hành vi của Hoàng Văn H có dấu hiệu của tội "Giao cấu với người từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi", nên Tòa án nhân dân huyện Thạch Hà đã chuyển đơn tố giác của chị H1 và tài liệu liên quan đến CQCSĐT Công an huyện T để điều tra, xử lý. Tại Cơ quan điều tra, Hoàng Văn H đã khai nhận đầy đủ hành vi của mình như trên.

Ngày 23/4/2024, CQCSĐT Công an huyện T ra Quyết định trưng cầu giám định số 453/QĐ-CSĐT-ĐCSHS, yêu cầu giám định Gen (ADN) để xác định Hoàng Văn H và Nguyễn Thị H1 có phải là bố, mẹ đẻ của cháu Nguyễn Yến Như k. Ngày 06/5/2024, Phòng K1 Công an tỉnh T có bản Kết luận giám định số 1795/KL-KTHS kết luận: Hoàng Văn H là bố đẻ của cháu Nguyễn Yến N, xác suất 99,999996%. Nguyễn Thị H1 là mẹ đẻ của cháu Nguyễn Yến N.

Vật chứng thu giữ gồm: Bản sao, bản phô tô các giấy tờ có liên quan đến vụ án như: Giấy khai sinh, Căn cước công dân của Nguyễn Thị H1; Căn cước công dân của Hoàng Văn H; Giấy đăng ký kết hôn của Hoàng Văn H và Nguyễn Thị H1; Giấy khai sinh của cháu Nguyễn Yến N; Quyết định công nhận thuận tình ly hôn giữa Hoàng Văn H và Nguyễn Thị H1; Căn cước công dân của bố, mẹ đẻ Hoàng Văn H và Nguyễn Thị H1. Những tài liệu nêu trên hiện đều được lưu trong hồ sơ vụ án.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại chị Nguyễn Thị H1 đã nhận đủ 20.000.000 đồng tiền tổn thất tinh thần, hiện nay không có yêu cầu gì thêm và có đơn đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo Hoàng Văn H.

Với hành vi trên, tại cáo trạng số 50/CT-VKSTH, ngày 08 tháng 8 năm 2024 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh đã truy tố bị cáo Hoàng Văn H về tội "Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi" theo quy định tại điểm a, điểm d khoản 2 Điều 145 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa hôm nay, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm như cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Hoàng Văn H phạm tội "Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi". Áp dụng điểm a, điểm d khoản 2 Điều 145, điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51, khoản 1 Điều 54, Điều 38 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Hoàng Văn H từ 18 tháng đến 21 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án. Về dân sự: Bị hại không có yêu cầu gì thêm nên miễn xét. Bị cáo phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung cáo trạng truy tố và không có ý kiến tranh luận gì.

Lời nói sau cùng, bị cáo rất ăn năn hối hận về hành vi của mình, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của quyết định và hành vi của các cơ quan và những người tiến hành tố tụng: Trong quá trình điều tra, truy tố, Cơ quan điều tra Công an huyện T, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thạch Hà, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại gì. Do đó, các quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và hành vi của những người tiến hành tố tụng là hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội: Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra; phù hợp với lời khai của bị hại và người làm chứng; phù hợp với các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở kết luận:

Do có quan hệ tình cảm yêu đương với nhau nên trong khoảng thời gian từ giữa năm 2016 đến đầu năm 2017, Hoàng Văn H đã nhiều lần quan hệ tình dục với chị Nguyễn Thị H1, sinh ngày 21/7/2001, trú tại tổ dân phố F, thị trấn T, huyện T, tỉnh Hà Tĩnh (thời điểm đó Nguyễn Thị H1 đã đủ 13 tuổi nhưng chưa đủ 16 tuổi), dẫn đến chị H1 mang thai và sinh con là cháu Nguyễn Yến N vào ngày 08/11/2017 (lúc này Nguyễn Thị H1 mới 16 tuổi, 3 tháng, 17 ngày). Bản Kết luận giám định của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh T xác định: cháu Nguyễn Yến N là con ruột của Nguyễn Thị H1 và Hoàng Văn H (xác suất 99,999996%).

Hành vi của Hoàng Văn H đã phạm vào tội "Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi", tội danh và hình phạt được quy định tại các điểm a, d, Khoản 2 Điều 145 Bộ luật Hình sự. Do vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thạch Hà truy tố bị cáo theo tội danh và điều luật đã viện dẫn là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Tình tiết tăng nặng: Không.

Tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo thành khẩn khai báo nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ "Người phạm tội thành khẩn khai báo". Bị cáo bồi thường cho bị hại số tiền 20.000.000 đồng nên được hưởng thêm tình tiết "Người phạm tội tự nguyện bồi thường thiệt hại". Đây là các tình tiết giảm nhẹ quy định tại các điểm b, s, khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Ngoài ra, người bị hại có đơn đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, hiện bị cáo và gia đình đang thờ cúng đối với các liệt sỹ Hoàng Văn T, Hoàng Văn C (là bác ruột của bị cáo) và mẹ Việt Nam anh hùng Nguyễn Thị M (là bà nội của bị cáo) nên được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[4] Về hình phạt:

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm hại đến sự phát triển bình thường về thể chất và tâm sinh lý của trẻ em trong độ tuổi từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, làm ảnh hưởng xấu đến trật tự an toàn xã hội, ảnh hưởng xấu đến thuần phong mỹ tục là khách thể được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự trên địa bàn. Do đó, cần có hình phạt nghiêm là cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhằm răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

Tuy nhiên, quá trình lượng hình cũng cần xem xét cho bị cáo khi thực hiện hành vi phạm tội tuổi đời còn trẻ (18 tuổi), xuất phát từ tình yêu nam nữ, thời điểm đó bị hại cũng đã đi làm, buôn bán ở chợ, bị cáo không biết tuổi của bị hại và việc bị cáo thực hiện hành vi vi phạm xuất phát từ nhận thức về mối quan hệ với chị H1 đã được gia đình hai bên cho phép, là vợ của bị cáo, có tổ chức lễ cưới đàng hoàng, bị cáo và chị H1 là vợ chồng và đã có con với nhau. Sau khi đủ tuổi, bị cáo và chị H1 cũng đã đi đăng ký kết hôn, cùng có trách nhiệm nuôi dạy con cái. Bị cáo có 2 tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 BLHS, có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 BLHS. Do đó, có thể áp dụng khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự để quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt truy tố là phù hợp, đủ sức răn đe giáo dục bị cáo, vừa thể hiện chính sách nhân đạo, khoan hồng của pháp luật.

Mức hình phạt như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp nên cần được chấp nhận.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo và bị hại đã thỏa thuận xong về phần bồi thường dân sự. Bị hại không yêu cầu bồi thường gì thêm nên HĐXX miễn xét.

[6] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo; bị hại có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a, điểm d khoản 2 Điều 145, điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51, khoản 1 Điều 54, Điều 38 Bộ luật Hình sự:

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Hoàng Văn H phạm tội "Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi".

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Hoàng Văn H 18 (mười tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án.

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Hoàng Văn H phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, khoản 1 Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

51
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổisố 48/2024/HS-ST

Số hiệu:48/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thạch Hà - Hà Tĩnh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/09/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: [email protected]
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;