TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN THẠNH, TỈNH LONG AN
BẢN ÁN 49/2024/HS-ST NGÀY 12/09/2024 VỀ TỘI GIAO CẤU VỚI NGƯỜI TỪ ĐỦ 13 TUỔI ĐẾN DƯỚI 16 TUỔI
Ngày 12 tháng 9 năm 2024 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tân Thạnh, tiến hành xét xử kín vụ án hình sự thụ lý số: 47/2024/HSST ngày 20 tháng 8 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 53/2024/QĐXXST-HS ngày 23 tháng 8 năm 2024 đối với bị cáo:
Lê Nhứt S, sinh ngày: 25/5/2003; nơi sinh: huyện T, Long An; nơi cư trú: ấp H, xã T, huyện T, tỉnh Long An; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: 07/12; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: không; giới tính: nam; con của ông Lê Quang T, sinh năm 1983; và bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1984; chưa có vợ, con; tiền sự: không; tiền án: không; Bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú theo Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số 128/LC-ĐTTH ngày 21/5/2024 của Cơ quan CSĐT Công an huyện T, tỉnh Long An; hiện bị cáo được tại ngoại (có mặt tại phiên tòa).
1. Bị hại: cháu Nguyễn Thị Thanh V, sinh năm: 2009.
Nơi cư trú: ấp H, xã H, huyện C, tỉnh Tiền Giang (vắng mặt, có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).
Người đại diện theo pháp luật của bị hại: bà Nguyễn Thị Đ, sinh năm: 1992. Nơi cư trú: ấp H, xã H, huyện C, tỉnh Tiền Giang (vắng mặt, có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).
Người bảo vệ quyền và lợi ích cho bị hại: bà Đăng Kim H1 - Trợ giúp viên pháp lý Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh L; địa chỉ: số B, N, phường A, thành phố T, tỉnh Long An (có mặt).
2.3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
+ Bà Nguyễn Thị M, sinh năm: 1969.
Nơi cư trú: ấp H, xã T, huyện T, tỉnh Long An (có mặt).
+ Phạm Văn C, sinh năm: 1974.
Nơi cư trú: ấp B, xã T, huyện T, tỉnh Long An (vắng mặt, có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).
2.4. Người làm chứng:
+ Anh Hồ Ngọc M1, sinh năm: 2003.
Nơi cư trú: ấp H, xã T, huyện T, tỉnh Long An.
+ Cháu Nguyễn Thị Diễm M2, sinh năm: 2012.
Nơi cư trú: khu phố A, thị trấn B, huyện M, tỉnh Long An.
Người đại diện theo pháp luật của cháu Nguyễn Thị Diễm M2:
Bà Nguyễn Thị Đ1, sinh năm: 1990.
Nơi cư trú: khu phố A, thị trấn B, huyện M, tỉnh Long An.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Nguyễn Thị Diễm M2 quen biết với Hồ Ngọc M1 thông qua mạng xã hội Facebook vào khoảng giữa năm 2023. Đến ngày 08/02/2024, M1 và M2 liên hệ với nhau qua ứng dụng Messenger hẹn đến xã T, huyện T, tỉnh Long An để chơi. Khoảng 10 giờ cùng ngày, M2 điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda, số loại Vision màu đỏ, biển số 71B4-xxxxx chở Nguyễn Thị Thanh V, sinh ngày 15/9/2009, đi đến đường T, thuộc ấp H, xã T, huyện T thì gặp Lê Nhứt S điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda, số loại Sonic màu đỏ, đen, biển số 62E1-xxxxx chở M1 đến đón và dẫn đến nhà bà Nguyễn Thị M (bà nội của S) tổ chức uống bia. Đến khoảng 14 giờ cùng ngày, S và M1 đưa V và M2 về nhà, S điều khiển xe mô tô biển số 62E1-xxxxx chở V chạy trước, M1 điều khiển xe mô tô biển số 71B4-xxxxx chở M2 chạy sau. Trên đường đi, S nảy sinh ý định giao cấu với V nên rủ V vào nhà nghỉ thì được V đồng ý. S chở V đến nhà nghỉ A do ông Phạm Văn C làm chủ, thuộc ấp H, xã T, huyện T thì gặp Hà Thị Thiên T1, là người quản lý nhà nghỉ, để thuê phòng thì được T1 hướng dẫn vào phòng số 6. S điều khiển xe chở V vào phòng đóng cửa lại sau đó cả hai nằm trên giường, S tự cởi quần, áo đang mặc ra khỏi người và lấy bao cao su có sẵn trong phòng mang vào dương vật đang cương cứng để thực hiện hành vi giao cấu với V và được V đồng ý, V cũng tự cởi quần của V đang mặc ra khỏi người. S giao cấu với V trong tư thế V nằm ngửa trên nệm, S đưa dương vật đang cương cứng vào âm đạo của V, giao cấu với nhau khoảng 15 phút thì S xuất tinh, không giao cấu nữa. Sau đó cả hai tự mặc quần áo vào rồi ra khỏi phòng. Khi đến quầy lễ tân để thanh toán tiền thuê phòng, S và V thấy xe của M2 đậu phía trước nên biết là M2 và M1 cũng đang thuê phòng ở chung nên hỏi và được T1 chỉ đến phòng số 7. Sau đó, V và S đến kêu M2 và M1 đi về rồi cả hai đi ra phía trước quầy lễ tân chờ khoảng 15 phút thì M2 và M1 đi ra. S điều khiển xe mô tô biển số 62E1-xxxxx chở M1 về nhà, còn M2 điều khiển xe mô tô biển số 71B4-xxxxx chở V đến quán C1 thuộc ấp B, xã K, huyện T do ông Lê Văn T2 làm chủ để nằm võng và uống nước giải khát. Đến khoảng 17 giờ 30 phút cùng ngày, M1 gọi điện thoại cho M2 và biết M2 đang ở tại quán cà phê nêu trên nên M1 rủ Huỳnh Nguyễn Nhựt L cùng M1 đến đón M2 và V để chở đi chơi. Sau đó, cả hai chở V và M2 đến nhà nghỉ K thuộc ấp E, xã T, huyện M, tỉnh Long An. Tại đây, L giao cấu với V 01 lần, M1 giao cấu với M2 01 lần. Đến ngày 09/02/2024, L và M1 chở M2 và V đến nhà nghỉ A, L tiếp tục giao cấu với V 01 lần. Đến ngày 10/02/2024, M2 điều khiển xe mô tô biển số 71B4-xxxxx chở V đến huyện Đ chơi và được gia đình tìm gặp, đưa về nhà.
Ngày 12/02/2024, bà Nguyễn Thị Đ1 là mẹ ruột của M2 và bà Nguyễn Thị Đ là mẹ ruột của V làm đơn tố giác Hồ Ngọc M1, Lê Nhứt S và Huỳnh Nguyễn Nhựt L. Sau đó, M1, S và L đến Cơ quan CSĐT Công an huyện T đầu thú và khai nhận hành vi phạm tội nêu trên.
Tại Kết luận giám định xâm hại tình dục ở trẻ em số 05/KLTDTE-TTPY ngày 20 tháng 02 năm 2024 của Trung tâm Pháp y Sở y tế tỉnh L kết luận: Bộ phận sinh dục của Nguyễn Thị Thanh V: Mảng trinh rách cũ ở vị trí 03 giờ, 09 giờ đến chân. Âm hộ, tầng sinh môn không dấu xây xát. Cơ thể: Vùng cổ bên phải có hai dấu bầm, vùng đùi phải mặt ngoài có dấu bầm. Cơ chế hình thành tổn thương: Không đủ cơ sở để khẳng định do cái gì gây ra. Kết quả nhuộm, soi: Không tìm thấy tinh trùng trong dịch âm đạo.
Tại Kết luận giám định độ tuổi trên người sống số 2244/KLGDĐT-C09B ngày 25 tháng 04 năm 2024 của Phân Viện khoa học hình sự Bộ Công an tại Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: qua quá trình khám giám định, kết quả cận lâm sàng, xác định tại thời điểm giám định (tháng 04 năm 2024) Nguyễn Thị Thanh V có độ tuổi từ 15 năm 06 tháng đến 16 năm.
Tại Kết luận giám định số 375/KL-KTHS ngày 05 tháng 7 năm 2024 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh L đối với 13 File video lưu trữ trong đĩa DVD do Cơ quan điều tra thu giữ tại nhà nghỉ A kết luận: không phát hiện chỉnh sửa, cắt ghép.
Tại bản cáo trạng số: 48/CT-VKSTT, ngày 19/8/2024 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Thạnh truy tố bị cáo Lê Nhứt S về tội “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi” quy định tại khoản 1 Điều 145 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo đồng thời phân tích tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi vi phạm pháp luật mà bị cáo Lê Nhứt S đã gây ra, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và đề nghị Hội đồng xét xử:
Căn cứ khoản 1 Điều 145; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 50, Điều 38 Bộ luật Hình sự; đề nghị xử phạt bị cáo Lê Nhứt S từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù về tội “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi”.
Về trách nhiệm dân sự: bị cáo đã bồi thường xong cho bị hại số tiền 50.000.000 đồng, bị hại không yêu cầu thêm nên đại diện Viện kiểm sát không đề nghị.
Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; đề nghị Hội đồng xét xử: tiếp tục lưu giữ theo hồ sơ chính vụ án 01 đĩa DVD lưu trữ 13 đoạn phim ghi hình được trích xuất từ camera tại nhà nghỉ A; tịch thu tiêu hủy 01 áo khoác bằng vải thun màu đen, sau lưng áo có chữ màu trắng PEGASSU hai chiều và dòng chữ UNICORN, đã qua sử dụng thuộc sở hữu của bị cáo Lê Nhứt S do bị cáo không yêu cầu nhận lại; tịch thu tiêu hủy 01 nón bảo hiểm màu trắng, không nhãn hiệu, đã qua sử dụng, 01 áo thun dài tay bằng vải thun màu đen, không nhãn hiệu, có đính 07 cúc áo bằng kim loại, đã qua sử dụng; 01 quần Jean dài, màu xanh, không nhãn hiệu, đã qua sử dụng thuộc sở hữu của bị hại Nguyễn Thị Thanh V do bị hại không yêu cầu nhận lại.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại nêu quan điểm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại như sau: bị cáo Lê Nhứt S thực hiện hành vi giao cấu với bị hại là người đủ 13 tuổi nhưng dưới 16 tuổi đã ảnh hưởng đến sự phát triển bình thường về thể chất, tinh thần, sức khỏe cũng như danh dự, nhân phẩm của bị hại; đồng thời còn xâm phạm trật tự, an toàn xã hội. Do đó, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại thống nhất với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát về tội danh; các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo; mức hình phạt đề nghị đối với bị cáo. Bị hại và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại đã có đơn đề nghị miễn trách nhiệm hình sự cho bị cáo, nhưng xét thấy hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, hành vi của bị cáo xâm phạm trật tự quản lý xã hội, ảnh hưởng sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của bị hại, là trẻ em được pháp luật bảo vệ. Do đó, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng hình phạt nghiêm khắc đối với bị cáo nhằm để răn đe đối với bị cáo và để đảm bảo phòng ngừa chung. Về trách nhiệm dân sự, bị hại không yêu cầu bị cáo bồi thường thiệt hại nên không đề nghị xem xét.
Bị hại Nguyễn Thị Thanh V và bà Nguyễn Thị Đ, là người đại diện hợp pháp của bị hại vắng mặt tại phiên tòa nhưng đã có đơn đề nghị Hội đồng xét xử xem xét miễn trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Về trách nhiệm dân sự: bị hại đã được bị cáo bồi thường số tiền 50.000.000 đồng, hiện nay bị hại và người đại diện hợp pháp của bị hại không yêu cầu bị cáo bồi thường thiệt hại thêm.
Bà Nguyễn Thị M là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có ý kiến, yêu cầu gì đối với bị cáo Lê Nhứt S về số tiền 20.000.000 đồng mà bà đã cùng với bị cáo bồi thường cho bị hại với tổng số tiền là 50.000.000 đồng (tiền của bà M 20.000.000 đồng, tiền của bị cáo 30.000.000 đồng).
Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như cáo trạng và luận tội của đại diện Viện kiểm sát đã nêu, bị cáo không có ý kiến tranh luận; đối với vật chứng, bị cáo không yêu cầu nhận lại.
Tại lời nói sau cùng, bị cáo ăn năn, hối hận về hành vi phạm tội của mình, bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện T, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện T, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã được thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng thực hiện đều phù hợp quy định pháp luật.
[2] Tại phiên tòa, có sự vắng mặt của bị hại, người đại diện hợp pháp của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án là ông Phạm Văn C, người làm chứng nhưng tất cả đều có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Đồng thời, Tòa án đã tống đạt hợp lệ văn bản tố tụng, cho những người tham gia tố tụng nêu trên. Bị cáo và người tham gia tố tụng có mặt tại phiên tòa không đề nghị hoãn phiên tòa. Hồ sơ vụ án cũng đã thể hiện đầy đủ lời khai, trình bày ý kiến của các đương sự đã vắng mặt tại phiên tòa. Hội đồng xét xử xét thấy sự vắng mặt của những người tham gia tố tụng không ảnh hưởng đến việc xét xử nên vẫn tiến hành xét xử theo quy định tại Điều 292, 293 Bộ luật Tố tụng hình sự.
[3] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa, bị cáo Lê Nhứt S khai nhận hành vi phạm tội của bị cáo như nội dung bản cáo trạng, phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa. Có đủ cơ sở xác định được hành vi phạm tội của bị cáo như sau:
Ngày 08/02/2024, bị cáo Lê Nhứt S đã lợi dụng bị hại Nguyễn Thị Thanh V, sinh ngày 15/9/2009, thiếu hiểu biết về tâm sinh lý đã thực hiện hành vi giao cấu với V 01 lần tại phòng số 6 của nhà nghỉ A, thuộc ấp H, xã T, huyện T, tỉnh Long An. Tại thời điểm S giao cấu với V, V mới 14 tuổi 4 tháng.
Hành vi của bị cáo Lê Nhứt S đã phạm tội “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi” theo quy định tại khoản 1 Điều 145 Bộ luật Hình sự.
Điều 145 Bộ luật Hình sự quy định:
“1. Người nào đủ 18 tuổi trở lên mà giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 142 và Điều 144 của Bộ luật này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.” Như vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Thạnh, tỉnh Long An đã truy tố bị cáo Lê Nhứt S với tội danh và điều luật nêu trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
[4] Về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội:
Bị cáo Lê Nhứt S là người đã thành niên, bị cáo đã lợi dụng sự thiếu hiểu biết của bị hại, đã lôi kéo, dụ dỗ bị hại thực hiện hành vi giao cấu. Hành vi của bị cáo thực hiện do lỗi cố ý trực tiếp, đã xâm phạm sự phát triển bình thường về thể chất, sinh lý và tinh thần của trẻ em trong độ tuổi từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi. Tại thời điểm bị cáo thực hiện hành vi phạm tội, bị hại chưa phát triển đầy đủ về tâm sinh lý và sức khỏe, nhất là cơ quan sinh dục, do đó hành vi của bị cáo gây nguy hiểm cho sự phát triển bình thường của bị hại, đặc biệt, gây tác hại đến sự phát triển đạo đức, nhân cách; ảnh hưởng đến danh dự, nhân phẩm của bị hại cả hiện tại và sau này. Hành vi trái pháp luật của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Vì vậy, cần phải áp dụng mức hình phạt nghiêm khắc tương xứng mức độ và hành vi phạm tội đối với bị cáo nhằm răn đe, giáo dục bị cáo và góp phần đấu tranh phòng chống tội phạm xâm hại tình dục đối với trẻ em. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt cần xem xét về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo.
[5] Xét về nhân thân của bị cáo: bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự.
[6] Xét về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo:
[6.1] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự.
[6.2] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; trong quá trình điều tra, bị cáo đã bồi thường cho bị hại số tiền 50.000.000 đồng theo yêu cầu của bị hại. Do đó, bị cáo được xem xét hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Ngoài ra, xét thấy bị hại và người đại diện hợp pháp của bị hại yêu cầu miễn trách nhiệm hình sự cho bị cáo; đồng thời, bị cáo đầu thú sau khi người đại diện hợp pháp của bị hại tố giác tội phạm. Do đó, bị cáo còn được xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
[7] Hội đồng xét xử xét thấy tình hình tội phạm xâm hại tình dục trẻ em hiện nay diễn ra phức tạp, tính chất mức độ ngày càng nghiêm trọng và có chiều hướng gia tăng, gây bức xúc trong dư luận và để lại nhiều hậu quả nghiêm trọng cho xã hội. Vì vậy, căn cứ tội phạm mà bị cáo đã thực hiện; căn cứ tính chất, mức độ ảnh hưởng của hành vi vi phạm pháp luật của bị cáo đã gây ra; nhân thân của bị cáo và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nêu trên, xét thấy cần cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian nhất định để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho xã hội và nhằm đảm bảo răn đe, phòng ngừa, đấu tranh phòng chống tội phạm chung.
[8] Từ những phân tích nêu trên, xét lời đề nghị của Kiểm sát viên về áp dụng hình phạt tù đối với bị cáo là phù hợp nên Hội đồng xét xử ghi nhận. Xét quan điểm, đề nghị của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại có cơ sở nên cần ghi nhận.
[9] Về những vấn đề khác có liên quan:
[9.1] Đối với Hồ Ngọc M1 có hành vi giao cấu với Nguyễn Thị Diễm M2 và Huỳnh Nguyễn Nhựt L có hành vi giao cấu với Nguyễn Thị Thanh V, Cơ quan điều tra đã khởi tố bị can Hồ Ngọc M1, Huỳnh Nguyễn Nhựt L để điều tra trong vụ án khác nên không đề cập giải quyết trong vụ án này.
[9.2] Đối với ông Phạm Văn C là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án: ông C là chủ nhà nghỉ “An Nhiên”, ông C kinh doanh dịch vụ lưu trú nhưng không thực hiện thông báo việc lưu trú, vi phạm điểm đ khoản 2 Điều 9 Nghị định số 144/2021/NĐ-CP ngày 31/12/2021 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy, chữa cháy; cứu nạn, cứu hộ; phòng, chống bạo lực gia đình, Cơ quan điều tra đã đề nghị Công an huyện T xem xét xử lý vi phạm hành chính theo thẩm quyền.
[10] Về vật chứng thu giừ trong vụ án:
[10.1] Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA, số loại SONIC, màu sơn: đen đỏ, số may: KB11E1276504, số khung: MH1KB1115LK276807, biển số 62E1-xxxxx, đã qua sử dụng, là tài sản hợp pháp của ông Lê Quang T. Cơ quan điều tra đã ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại cho chủ sở hữu là ông Lê Quang T là đúng quy định pháp luật.
[10.2] Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Realme C53 màu đen, số IMEI 1: 867838060226573, số IMEI 2: 867838060226565 có gắn thẻ sim số thuê bao 0367708215, đã qua sử dụng, là tài sản hợp pháp của bị cáo Lê Nhứt s, s không sử dụng vào việc phạm tội. Cơ quan điều tra đã ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại cho chủ sở hữu là Lê Nhứt S đúng quy định pháp luật.
[10.3] Đối với 01 đĩa DVD lưu trữ 13 đoạn phim ghi hình được trích xuất từ camera tại nhà nghỉ A đã được lưu giữ theo hồ sơ chính vụ án, cần tiếp tục lưu giữ theo hồ sơ chính vụ án [10.4] Đối với 01 áo khoác bằng vải thun màu đen, sau lưng áo có chừ màu trắng PEGASSU hai chiều và dòng chữ UNICORN, đã qua sử dụng thuộc sở hữu của bị cáo Lê Nhứt S mặc vào ngày thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo không yêu cầu nhận lại nên tịch thu tiêu hủy.
[10.5] Đối với 01 áo thun dài tay bằng vải thun màu đen, không nhãn hiệu, có đính 07 cúc áo bằng kim loại, đã qua sử dụng; 01 quần Jean dài, màu xanh, không nhãn hiệu, đã qua sử dụng; 01 nón bảo hiểm màu trắng, không nhãn hiệu, đã qua sử dụng thuộc sở hữu của bị hại Nguyễn Thị Thanh V. Bị hại không yêu cầu nhận lại, vật chứng không có giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.
[11] Về trách nhiệm dân sự:
[11.1] Sau khi sự việc xảy ra, bị hại và người đại diện hợp pháp của bị hại yêu cầu bị cáo Lê Nhứt s bồi thường số tiền 50.000.000 đồng. Bị cáo đã thống nhất thỏa thuận với phía bị hại và đã bồi thường xong cho bị hại số tiền 50.000.000 đồng (tiền của bị cáo 30.000.000 đồng, của bà Nguyễn Thị M 20.000.000 đồng). Hiện nay, bị hại và người đại diện hợp pháp của bị hại không yêu cầu gì thêm nên không đề cập giải quyết.
[11.2] Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Nguyễn Thị M không yêu cầu bị cáo trả lại số tiền 20.000.000 đồng đã cùng bị cáo bồi thường cho bị hại nên không đề cập giải quyết.
[12] Về án phí: Bị cáo Lê Nhứt s phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm theo quy định Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố bị cáo Lê Nhứt S phạm tội “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi”.
Căn cứ khoản 1 Điều 145; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 50, Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017;
Xử phạt: bị cáo Lê Nhứt S 01 (một) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt đi thi hành án.
2. Về xử lý vật chứng:
Căn cứ Điều 47 Bộ Luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự;
2.1. Tiếp tục lưu giữ hồ sơ chính vụ án 01 (một) đĩa DVD lưu trữ 13 đoạn phim ghi hình được trích xuất từ camera tại nhà nghỉ A.
2.2. Tịch thu tiêu hủy 01 (một) áo khoác bằng vải thun màu đen, sau lưng áo có chữ màu trắng PEGASSƯ hai chiều và dòng chữ UNICORN, đã qua sử dụng; 01 (một) áo thun dài tay bằng vải thun màu đen, không nhãn hiệu, có đính 07 (bảy) cúc áo bằng kim loại, đã qua sử dụng; 01 (một) quần Jean dài, màu xanh, không nhãn hiệu, đã qua sử dụng; 01 (một) nón bảo hiểm màu trắng, không nhãn hiệu, đã qua sử dụng.
Vật chứng do Chi cục thi hành án dân sự huyện Tân Thạnh đang tạm giữ theo Quyết định chuyển vật chung số 38/QĐ-VKSTT ngày 20/8/2024 và Biên bản giao nhận vật chứng ngày 21 tháng 8 năm 2024.
3. Về án phí:
Căn cứ khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 thang 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Buộc bị cáo Lê Nhứt S phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
7. Về quyền kháng cáo: căn cứ các điều 331, 333 Bộ Luật tố tụng hình sự;
Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo đối với phần bản án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của người mà mình bảo vệ trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; bị hại, người đại hợp pháp của bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo phần bản án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tạo phiên tòa có quyền kháng cáo đối với phần bản án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Bản án về tội giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi số 49/2024/HS-ST
| Số hiệu: | 49/2024/HS-ST |
| Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
| Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Tân Thạnh - Long An |
| Lĩnh vực: | Hình sự |
| Ngày ban hành: | 12/09/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về