Bản án về tội giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi số 320/2024/HS-ST

                          TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PH T, TỈNH THANH HOÁ

BẢN ÁN 320/2024/HS-ST NGÀY 11/09/2024 VỀ TỘI GIAO CẤU VỚI NGƯỜI TỪ ĐỦ 13 TUỔI ĐẾN DƯỚI 16 TUỔI

Ngày 11 tháng 09 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Thanh Hoá xét xử kín vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 336/2024/TLST-HS ngày 12 tháng 08 năm 2024, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 347/2024/QĐXXST-HS ngày 23 tháng 08 năm 2024, đối với bị cáo:

Lê Văn Đức A; sinh ngày 22 tháng 11 năm 2003; nơi sinh: tỉnh Thanh Hoá; Nơi ĐKNKTT: số nhà B T, phường N, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa; Nơi ở hiện tại: số nhà B T, phường N, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Lê Văn H; Con bà: Trần Thị T; Gia đình có 02 anh em, bị cáo là con đầu; Vợ, con: Chưa có; tiền sự: Không; tiền án: Không; nhân thân: Không; Tạm giữ, tạm giam: Bị bắt tạm giam từ ngày 25/6/2024 đến nay, hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà Tạm giữ Công an thành phố T, tỉnh Thanh Hóa. Có mặt.

- Bị hại: Cháu Trần Thị Tân N; sinh ngày: 08/03/2010; nơi cư trú: số nhà A N, phường Đ, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa. Vắng mặt (có đơn xin xét xử vắng mặt).

- Người đại diện hợp pháp của bị hại: Chị Lê Thị T1; sinh năm: 1991; nơi cư trú: số nhà A N, phường Đ, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa. Vắng mặt (có đơn xin xét xử vắng mặt).

- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại: Bà Lê thu H1, Trợ giúp viên pháp lý, Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh T. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Vào khoảng đầu tháng 2 năm 2024, Lê Văn Đức A gặp và quen biết với cháu Trần Thị Tân N sinh ngày 08/3/2010 ở số nhà A N, phường Đ, thành phố T rồi nảy sinh tình cảm yêu đương. Sau đó trong khoảng thời gian quen biết, Đức A đã có hành vi quan hệ tình dục hai lần với cháu N, cụ thể các lần như sau:

Lần thứ nhất: Vào khoảng 19 giờ 00 phút ngày 23/2/2024, Lê Văn Đức A điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 36B4-57000 đón cháu N đi chơi ở siêu thị, đến khoảng 20 giờ cùng ngày, Đức A rủ cháu N về nhà mình để chơi thì cháu N đồng ý. Khi Đức A chở cháu N về nhà thì không có ai ở nhà, Đức A dẫn cháu N vào giường ngủ của mình rồi cả hai nằm trên giường để nằm nghỉ. Sau đó Đức A ôm hôn môi, sở ngực và bộ phận sinh dục của cháu N, thấy cháu N không phản kháng lại nên Đức A tiếp tục cởi quần dài, quần lót và áo ngực của cháu N và tự cởi quần của mình để lộ dương vật đã cương cứng, sau đó Đức A lấy bao cao su đã chuẩn bị từ trước để đeo vào dương vật của mình rồi đưa dương vật của mình vào bên trong âm hộ của cháu N để quan hệ tình dục, Đức A và cháu N quan hệ tình dục trong khoảng thời gian 20 đến 30 phút thì Đức A xuất tinh vào bao cao su, sau khi quan hệ tình dục thì Đức A vứt bao cao su vào thùng rác rồi cả hai nằm nghỉ ít phút trên giường, sau đó Đức A và cháu N tự mặc quần áo rồi Đức A chở cháu N về nhà.

Lần thứ hai: Vào ngày 03/3/2024, Lê Văn Đức A điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 36B4- 57000 đón cháu N đi chơi trên phố và ăn uống. Đến khoảng 14 giờ 00 phút cùng ngày, Đức A rủ cháu N về nhà mình đề quan hệ tình dục thì cháu N đồng ý. Khi Đức A chở cháu N về nhà thì không có ai ở nhà. Đức A dẫn cháu N vào giường của mình rồi cả hai nằm trên giường và tiếp tục quan hệ tình dục như lần đầu với cháu N. Sau đó Đức A và cháu N mặc quần áo rồi Đức A chở cháu N về nhà.

Ngày 26/5/2024, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố T Quyết định trưng cầu giám định pháp y tình dục số 1882/QĐ-ĐTTH đối với cháu Trần Thị Tân N. Tại Bản kết luận giám định số 529/KLTDTE-PYTH ngày 04/6/2024 của Trung tâm pháp y tỉnh T kết luận:

- Màng trinh hình ống, bờ tròn. Lỗ màng trinh để tự nhiên khoảng 0,8 cm, kéo giãn tối đa khoảng 2 cm. Màng trinh rách cũ vị trí 3 giờ và 6 giờ bờ tự do đến tận gốc màng trinh.

- Trần Thị Tân N không có thai.

- Dấu vết trên mẫu tăm bông thu chất bám dính tại bộ phận sinh dục của cháu Trần Thị Tân N không phát hiện ADN nhiễm sắc thể Y.

Về dân sự: cháu Trần Thị Tân N và đại diện hợp pháp của cháu N không có yêu cầu đề nghị Lê Văn Đức A phải bồi thường về dân sự cho cháu N.

Tại bản cáo trạng số 262/CTr-VKS-HS ngày 09 tháng 10 năm 2024, Viện kiểm sát nhân dân (sau đây viết tắt là VKSND) thành phố T, tỉnh Thanh Hóa đã truy tố Lê Văn Đức A về tội “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi” quy định tại điểm a khoản 2 Điều 145 Bộ luật Hình sự (sau đây viết tắt là BLHS).

Tại phiên toà, đại diện VKSND giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị áp dụng điểm a khoản 2 Điều 145; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 để xử phạt Lê Văn Đức A mức án từ 3 (ba) năm 3 (ba) tháng đến 3 (ba) năm 6 (sáu) tháng tù, bị cáo được trừ thời gian tạm giam vào thời gian chấp hành hình phạt.

Về trách nhiệm dân sự: cháu Trần Thị Tân N và đại diện hợp pháp của cháu N không có yêu cầu đề nghị Lê Văn Đức A phải bồi thường về dân sự cho cháu N nên đề nghị không xem xét Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Lê Văn Đức A thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như cáo trạng truy tố bị cáo là đúng, phù hợp với lời khai của bị hại.

Ý kiến trình bày của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại: Thống nhất với tội danh, tình tiết giảm nhẹ và hình phạt mà đại diện VKSND đã truy tố đối với bị cáo. Bị hại và gia đình bị hại không yêu cầu bị cáo phải bồi thường dân sự nên đề nghị không xem xét, bị hại và gia đình bị hại cũng đã có đơn đề nghị xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo, đề nghị HĐXX áp dụng mức hình phạt đúng người, đúng tội, phù hợp với mực độ, tính chất hành vi của bị cáo.

Trong lời nói sau cùng, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội và đề nghị Hội đồng xét xử (sau đây viết tắt là HĐXX) cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, HĐXX nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố T, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thanh Hoá, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự (sau đây viết tắt là BLTTHS). Quá trình điều tra và tại phiên tòa, những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

[3] Về trách nhiệm hình sự: Do có mối quan hệ yêu đương nam nữ nên vào các ngày 23/02/2024 và 03/3/2024, Lê Văn Đức A đã 02 lần thực hiện hành vi giao cấu với cháu Trần Thị Tân N, sinh ngày 08/3/2010 tại giường ngủ của gia đình Đức A ở số nhà B T, phường N, thành phố T (khi quan hệ tình dục, cháu N mới 13 năm 11 tháng tuổi).

Như vậy, có đủ cơ sở kết luận bị cáo đã có hành vi phạm vào điềm a khoản 2 Điều 145 BLHS đúng với đề nghị của Kiểm sát viên thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử tại phiên tòa và đúng với Cáo trạng Viện kiểm sát đã truy tố bị cáo.

[4] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo thấy rằng Tội phạm mà bị cáo thực hiện thuộc loại rất nghiêm trọng; hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến quyền bất khả xâm phạm về tình dục ở trẻ em được pháp luật bảo vệ, chỉ vì ham muốn và để thỏa mãn dục vọng của bản thân mà bị cáo bất chấp hậu quả để thực hiện hành vi phạm tội. Hành vi của bị cáo không những ảnh hưởng đến sức khỏe và sự phát triển bình thường của cháu N mà còn gây tác hại đến đạo đức xã hội, gây tâm lý hoang mang, lo sợ cho gia đình bị hại cũng như cộng đồng xã hội, trong khi cả nước đang lên án gay gắt về tình trạng xâm hại tình dục trẻ em. Nên cần xét xử bị cáo một mức án tương xứng với tính chất, hành vi phạm tội của bị cáo và cần cách ly khỏi xã hội một thời gian để bị cáo cải tạo trở thành người công dân tốt, có ích cho xã hội, đồng thời răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung. Thời gian bị cáo bị tạm giam sẽ được trừ vào thời gian chấp hành hình phạt.

[5] Xét về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Bị cáo không có tiền sự, tiền án, có nhân thân tốt.

- Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo khai trung thực các tình tiết của vụ án là đã thành khẩn khai báo được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS. Bị hại và người đại diện hợp pháp của bị hại đề nghị xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, mẹ bị cáo tham gia thanh niên xung phong khắc phục hậu quả chiến tranh, xây dựng kinh tế mới sau ngày 30/4/1975 quy định tại khoản 2 Điều 51 BLHS. Vì vậy cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo để thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Do bị hại Trần Thị Tân N và đại diện hợp pháp của cháu N không có yêu cầu đề nghị Lê Văn Đức A phải bồi thường về dân sự cho cháu N nên không xem xét.

[7] Các đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thanh Hoá, tỉnh Thanh Hóa, người đại diện hợp pháp của bị hại về việc giải quyết toàn diện vụ án là có căn cứ nên được chấp nhận [8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự, dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điềm a khoản 2 Điều 145; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 BLHS; Điều 331, Điều 332, Điều 333 BLTTHS; Điều 136 BLTTHS; khoản 1 Điều 6, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội:

Tuyên bố: Bị cáo Lê Văn Đức A phạm tội “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi”.

Xử phạt: Lê Văn Đức A 03 (ba) năm 03 (ba) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giam (ngày 25/6/2024).

Án phí: Áp dụng Điều 136 BLTTHS; khoản 1 Điều 6, điềm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016: bị cáo Lê Văn Đức A phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm Án xử kín sơ thẩm, có mặt bị cáo, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, vắng mặt bị hại, người đại diện hợp pháp của bị hại. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án này, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại có quyền kháng cáo phần bản án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của cháu N trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị hại, người đại diện hợp pháp của bị hại có quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt hợp lệ bản án.

Trường hợp bản án được thi hành theo điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người phải thi hành án dân sự có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 7a và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

100
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi số 320/2024/HS-ST

Số hiệu:320/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/09/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: [email protected]
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;