TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN PHƯỚC, TỈNH TIỀN GIANG
BẢN ÁN 30/2022/HS-ST NGÀY 11/08/2022 VỀ TỘI GIAO CẤU VỚI NGƯỜI TỪ ĐỦ 13 TUỔI ĐẾN DƯỚI 16 TUỔI
Ngày 11 tháng 8 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tân Phước, tỉnh Tiền Giang xét xử kín vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 26/2022/TLST-HS ngày 05 tháng 7 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 31/2022/QĐXXST-HS ngày 25 tháng 7 năm 2022 đối với:
* Bị cáo: Trần Minh K, sinh ngày 25 tháng 9 năm 2000, tại Tiền Giang; Trú tại ấp B, xã Đ, huyện C, tỉnh Tiền Giang; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hóa: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn S (đã chết) và bà Phạm Thị H1, sinh năm 1974; bị cáo chưa có vợ, chưa có con.
+ Tiền sự: 01: Ngày 22/6/2020 bị công an xã Điềm Hy, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 0002117/QĐ-XPHC với số tiền 1.500.000 đồng do có hành vi trộm cắp tài sản (chưa nộp phạt)
+ Tiền án: không.
- Bị cáo đang tại ngoại, Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
- Bị hại: Nguyễn Huỳnh Bích T1, sinh ngày 28/01/2008 (xin vắng mặt). Trú tại: ấp 4, xã T, huyện T, tỉnh Tiền Giang.
- Người đại diện hợp pháp của bị hại Trâm:
1. Ông Nguyễn Khánh T2, sinh năm 1976 (là cha ruột) (có mặt).
2. Bà Huỳnh Thị Lệ T3, sinh năm 1974 (là mẹ ruột) (có mặt).
Cùng trú tại: ấp 4, xã T, huyện T, tỉnh Tiền Giang.
- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại Trâm: Bà Lê Thị Mỹ H2 là Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Tiền Giang (có mặt).
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Chị Nguyễn Thị Kim T4, sinh ngày 03/7/1999 (có mặt). Trú tại: ấp 4, xã T, huyện T, tỉnh Tiền Giang.
2. Bà Huỳnh Thị H3, sinh năm 1967 (có mặt). Trú tại: ấp H, xã T, huyện T, tỉnh Tiền Giang.
3. Bà Phạm Thị H1, sinh năm 1974 (có mặt). Trú tại: ấp B, xã Đ, huyện C, tỉnh Tiền Giang.
4. Anh Bạch Văn Bích Đ, sinh năm 1986 (vắng mặt). Trú tại: ấp T, xã N, huyện C, tỉnh Tiền Giang.
5. Anh Phạm Thanh T5, sinh ngày 29/8/1991 (có mặt). Trú tại: ấp B, xã Đ, huyện C, tỉnh Tiền Giang.
- Người làm chứng: Anh Nguyễn Duy T6, sinh ngày 23/12/2004 (vắng mặt). Trú tại: ấp M, xã L, huyện C, tỉnh Tiền Giang.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào đầu tháng 11/2021, Trần Minh K và Nguyễn Huỳnh Bích T1, sinh ngày: 28/01/2008 quen biết nhau qua mạng xã hội Facebook, cả hai thường xuyên nhắn tin nói chuyện và đi uống nước chung được 01 lần. Đến ngày 20/11/2021, K nảy sinh ý định giao cấu với T1 nên hỏi mượn xe mô tô 02 bánh biển số 63B3 – 569.44 của Phạm Thanh T5, sinh năm 1991, trú tại ấp B, xã Đ, huyện C, tỉnh Tiền Giang.
Khoảng 06 giờ 30 phút ngày 21/11/2021, K sử dụng điện thoại hiệu NOKIA TA 1203 có gắn số thuê bao 0356.759.015 gọi vào số thuê bao 0981.834.762 gắn trên điện thoại di động hiệu SAMSUNG GALAXY M12 của T1 để rủ T1 đi chơi, T1 đồng ý. Sau đó, K điều khiển xe trên đến rước và chở T1 đến nhà nghỉ “Kênh Tây” tại ấp Tân Hưng Tây, xã Tân Hòa Tây, huyện Tân Phước, tỉnh Tiền Giang do chị Huỳnh Thị H3, sinh năm 1967 làm chủ. Tại đây, K gặp chị H3 và thuê phòng số 10. Khi vào phòng, K và T1 cởi quần áo ra và tự nguyện giao cấu với nhau được 01 lần. Sau khi giao cấu xong, do không có tiền trả tiền phòng nên K hỏi mượn điện thoại trên của T1 để đăng nhập vào tài khoản Facbook của mình và nhắn tin vào nickname “Nguyễn Duy T6” của Nguyễn Duy T6, sinh năm 2004, trú tại ấp H, xã M, huyện C, tỉnh Tiền Giang để hỏi mượn tiền. Lúc này, T6 đang uống rượu tại ấp Long Phước, xã Mỹ Phước Tây, thị xã Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang cùng với bạn nên Tân gửi định vị để K tìm đến. K kêu T1 ở phòng chờ, còn K cầm điện thoại của T1 và điều khiển xe 63B3 – 569.44 để đi tìm T6. Trên đường đi K thay đổi ý định nên đem xe về trả lại cho T5.
Khoảng 30 phút sau, do chưa thấy K quay lại nhà nghỉ nên T1 ra quầy tiếp tân hỏi mượn điện thoại của chị H3 để gọi vào điện thoại của mình do T6 đang giữ và gọi vào số thuê bao của K nhưng K không bắt máy nên T1 gọi cho Nguyễn Thị Kim T4, sinh năm 1999, trú tại ấp 4, xã T, huyện T, tỉnh Tiền Giang (chị ruột của T1) đến trả 80.000đồng (Tám mươi nghìn đồng) tiền phòng và chở T1 về nhà. Sau đó, gia đình đưa T1 đến Công an xã Tân Hòa Tây trình báo, vụ việc được chuyển đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Tân Phước xử lý theo thẩm quyền.
Tại bản kết luận giám định pháp y về tình dục số 51/2021/TD ngày 21/11/2021 của Trung tâm pháp y tỉnh Tiền Giang kết luận tại thời điểm giám định Nguyễn Huỳnh Bích T1 vào ngày 21/11/2021 như sau: màng trinh hình ruy băng, dãn rộng, không thấy vết rách cũ và mới. Soi tươi tìm xác tinh trùng: Tìm thấy xác tinh trùng.
Tại bản kết luận giám định số 4976/C09B ngày 23/12/2021 của Phân viện khoa học hình sự tại thành phố Hồ Chí Minh kết luận: Trong mẫu dịch âm đạo và trên quần lót của Nguyễn Huỳnh Bích T1 có tinh trùng. Kiểu gen của các mẫu tinh trùng này đều trùng với kiểu gen của Trần Minh K.
Tại Cơ quan điều tra, bị cáo Trần Minh K hoàn toàn thừa nhận hành vi của mình.
Vật chứng, tài sản thu giữ và xử lý:
- 01 (một) mảnh gạc y tế tẩm máu của Trần Minh K, được niêm phong trong bì thư màu nâu, trên bì thư có chữ ký xác nhận của Điều tra viên Trần Văn Hải, cử nhân Lê Thanh Vân, Trần Minh K và đóng dấu mộc vuông của Trung tâm y tế huyện Tân Phước – xét nghiệm CĐHA.
- 01 (một) que thử tinh trùng sử dụng trong lĩnh vực y tế. Trong đó, thân que bằng gỗ dài 16,5 cm, đường kính 02 mm, có 01 đầu gắn tăm bông màu trắng. Đầu gắn tăm bông được để khô tự nhiên. Que thử tinh trùng được niêm phong bằng cách để vào bì thư màu trắng của Trung tâm pháp y tỉnh Tiền Giang. Trên bì thư có chữ ký của Phan Bắc Lin – Điều tra viên, Nguyễn Văn Tuấn – Kiểm sát viên và Nguyễn Vũ Phương – Giám định viên.
- 01 (một) điện thoại di động hiệu SAMSUNG Galaxy M12, màu xanh ngọc. Số IMEI 1: 353930950419193, số IMEI 2: 357022850419196. Điện thoại đã qua sử dụng, bị nứt màn hình và đang hoạt động bình thường, chưa kiểm tra dữ liệu máy. Bên trong điện thoại đang gắn 01 sim 0356.759.015, số mã trên sim 8984048000056056376, được niêm phong.
- 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia, màu đen, loại bàn phím, Model TA -1203. Số IMEI: 357732102980049. Điện thoại đang hoạt động bình thường với một sim có mã số trên sim 8984048000327173461, điện sang máy khác hiện lên số thuê bao: 0981.834.762, được niêm phong.
- 01 (một) chiếc quần lót bằng vải, màu hồng, loại quần lót nữ, không có thông tin về nhãn hiệu và kích cỡ. Chiếc quần lót có chiều ngang 36cm, chiều cao chiếc quần từ lưng đến đáy quần là 25cm. Đáy quần bị ngã ố vàng. Chiếc quần đã qua sử dụng và được niêm phong bằng cách để vào hộp giấy và dán giấy trắng. Trên giấy có chữ ký của Phan Bắc Lin – Điều tra viên; Nguyễn Huỳnh Bích T1 và Nguyễn Thị Kim T4.
- 01 (một) áo thun nam giới, màu đen, ngắn tay, có cổ, nhãn hiệu Zenz FA, size XL. Trên vai áo và cổ áo có nền thêu chữ BURBERRY, đã qua sử dụng.
- 01 (một) chiếc quần lửng, nam giới, vải jean, màu xanh, hiệu “TC& HL”. Size 32 made in Viet Nam, đã qua sử dụng.
- 01 (một) chiếc áo thun, nhãn hiệu J & Y, màu loang, dạng trắng bông. Kích thước từ cổ áo đến vạc áo là 65 cm. Kích thước 02 bên nách áo là 50 cm, đã qua sử dụng.
- 01 (một) chiếc quần jean, màu xanh, size L, lưng thun, nhãn hiệu S & A, đã qua sử dụng.
Đối với xe mô tô 02 bánh biển kiểm soát 63B3 – 569.44. Qua điều tra xác định do Phạm Thanh T5, sinh năm 1991, ĐKTT: Ấp B, xã Đ, huyện C, tỉnh Tiền Giang mua lại của anh Bạch Văn Bích Đ, sinh năm 1986, ĐKTT: Ấp T, xã N, huyện C, tỉnh Tiền Giang nhưng chưa làm thủ tục sang tên. Kết quả làm việc T5 không biết K mượn xe đi thực hiện hành vi phạm tội nên Cơ quan điều tra không tạm giữ xe là có căn cứ.
* Người bị hại:
Em Nguyễn Huỳnh Bích T1 xin vắng mặt có lời khai: Vào đầu tháng 11/2021, Em và Trần Minh K quen biết nhau qua mạng xã hội Facebook, cả hai thường xuyên nhắn tin nói chuyện và đi uống nước với nhau được 01 lần. Khoảng 07 giờ 15 phút em có nhận được cuộc gọi từ K rủ em đi chơi nhưng em không đồng ý, sau đó K nhiều lần gọi hâm dọa nếu em không ra gặp K ở bãi đậu xe thì K vào nhà gặp cha mẹ em để quậy vì sợ nên em đồng ý. Đến khoảng 15 phút sau em đi bộ ra bãi đậu xe Thạnh Tân đứng đợi khoảng 30 phút thì K đến và nắm tay em lên xe nói chở đi nói chuyện, em có hỏi đi đâu K nói đi rồi biết. Sau đó K chở em vào nhà nghỉ “Kênh Tây” thuê phòng số 10. Khi vào phòng, K cởi quần áo của em và K ra và thực hiện hành vi giao cấu với em 01 lần. Sau khi giao cấu xong, K hỏi mượn điện thoại SAMSUNG GALAXY M12 của em và nói ở đây đợi chút đi lấy tiền rồi quây lại đưa em về nhà. Khoảng 30 phút sau, do chưa thấy K quay lại nhà nghỉ nên em ra quầy tiếp tân hỏi mượn điện thoại của chị H3 để gọi vào điện thoại của em do T6 đang giữ và gọi vào số thuê bao của K nhưng K không bắt máy nên em gọi cho chị Nguyễn Thị Kim T4 (chị ruột của em) đến trả 80.000 đồng (Tám mươi nghìn đồng) tiền phòng và chở em về nhà.
Sau khi sự việc xảy ra vào ngày 18/5/2022 Trần Minh K và gia đình em có thỏa thuận số tiền bồi thường là 20.000.000 đồng (Hai mươi triệu đồng), gia đình em đã nhận đủ số tiền trên nên em không yêu cầu gì thêm và xin giảm nhẹ hình phạt cho Trần Minh K.
* Người đại diện hợp pháp của bị hại T1: Ông Nguyễn Khánh T2 và bà Huỳnh Thị Lệ T3 khai: Vợ chồng ông bà là cha mẹ ruột của Nguyễn Huỳnh Bích T1. Vào khoảng 09 giờ ngày 21/11/2021 vợ chồng ông bà đi làm khóm về không thấy cháu T1 ở đâu nên đi tìm, một lúc sau thì chị của T1 là Nguyễn Thị Kim T4 chở T1 về nhà. Khi T1 về nhà thì nói cho vợ chồng ông bà biết là có quen biết với một thanh niên tên K được hai tháng và gặp mặt đi chơi với K được hai lần. Đến lần thứ hai thì K chở T1 vào nhà nghỉ “Kênh Tây” và ép buộc, hâm dọa T1 quan hệ tình dục. Do là sợ nên T1 làm theo lời của K. Sau khi quan hệ tình dục xong thì K lấy điện thoại của T1 đi mất. Sau khi biết được sự việc nên ông bà trình báo Công an xã Tân Hòa Tây.
Vào ngày 18/5/2022 Trần Minh K và gia đình ông bà có thỏa thuận số tiền bồi thường là 20.000.000 đồng (Hai mươi triệu đồng), gia đình ông bà đã nhận đủ số tiền trên nên ông bà không yêu cầu gì thêm và xin giảm nhẹ hình phạt cho Trần Minh K.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Chị Nguyễn Thị Kim T4 khai: Chị T4 là chị ruột của Nguyễn Huỳnh Bích T1. Khoảng 09 giờ 30 phút ngày 21/11/2021 chị có nhận được cuộc gọi của T1 nói chị ra nhà nghỉ “Kênh Tây” rước T1 về. Khi ra đến nhà nghỉ “Kênh Tây” thì thấy T1 đang đứng trước của, T1 nói chị vô trả tiền phòng là 80.000 đồng (Tám mươi nghìn đồng). Sau khi trả tiền phòng xong chị chở T1 về. Chị không yêu cầu bị cáo trả lại số tiền 80.000 đồng (Tám mươi nghìn đồng) cho chị.
2. Chị Huỳnh Thị H3 khai: Chị H3 là quản lý của Nhà nghỉ “Kênh Tây” thuộc ấp Tân Hưng Tây, xã Tân Hòa Tây, huyện Tân Phước, tỉnh Tiền Giang. Khoảng 08 giờ ngày 21/11/2021 chị đang quản lý nhà nghỉ thì có một đôi nam nữ vào thuê phòng nghỉ, chị đưa chìa khóa phòng số 10 cho nam thanh niên và nam thanh niên này chở cô gái vô phòng số 10 tự mở cửa phòng, dẫn xe máy vào phòng nghỉ. Khoảng 30 phút sau chị thấy nam thanh niên điều khiển xe máy một mình đi ra khỏi nhà nghỉ. Khoảng 20 phút sau thì cô gái ra mượn điện thoại chị để điện thoại cho ai thì chị không rõ. Khoảng 30 phút sau thì có chị của cô gái đến trả tiền phòng là 80.000 đồng (Tám mươi nghìn đồng) và rước cô gái về. Đến khi Công an đến xác minh thì chị mới biết nam thanh niên trên là Trần Minh K còn cô gái tên Nguyễn Huỳnh Bích T1.
3. Bà Phạm Thị H1 khai: Bà là mẹ của bị cáo Trần Minh K. Sau khi bà biết bị cáo K phạm tội bà có đến gia đình bị hại thỏa thuận số tiền bồi thường là 20.000.000 đồng (Hai mươi triệu đồng). Gia đình bị hại đã nhận đủ số tiền 20.000.000 đồng (Hai mươi triệu đồng) vào ngày 18/5/2022 tại Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyên Tân Phước. Bà không yêu cầu bị cáo K trả lại số tiền 20.000.000 đồng (Hai mươi triệu đồng) mà bà đã bồi thường cho gia đình bị hại.
4. Anh Phạm Thanh T5 khai: Xe mô tô 02 bánh biển kiểm soát 63B3 – 569.44 do anh mua lại của anh Bạch Văn Bích Đ nhưng chưa làm thủ tục sang tên. Vào khoảng 21 giờ ngày 20/11/2021 anh có cho bị cáo K mượn xe mô tô nêu trên, đến khoảng 09 giờ ngày 21/11/2021 thì bị cáo K trả xe cho anh. Từ thời điểm bị cáo K mượn xe anh đến khi bị cáo K trả xe cho anh thì anh xác định anh không có liên lạc với bị cáo K để đồi xe, việc bị cáo K trả xe cho anh vì bị cáo K chạy ngang quán cafe thấy anh đang uống cafe nên vào quán trả xe cho anh và đi bộ về nhà. Thời điểm anh cho bị cáo K mượn xe thì anh không biết bị cáo K mượn xe để thực hiện hành vi phạm tội. Vì vậy, Cơ quan điều tra không tạm giữ xe mô tô 02 bánh biển số 63B3 – 569.44 nên anh không yêu cầu gì.
5. Anh Bạch Văn Bích Đ vắng mặt có lời khai: Vào tháng 10/2016 anh có mua và đứng tên chủ sở hữu đối với xe mô tô 02 bánh biển kiểm soát 63B3 – 569.44. Khoảng năm 2019 anh đã bán xe mô tô trên cho anh Phạm Thanh T5 nhưng chưa làm thủ tục sang tên. Việc anh T5 cho bị cáo K mượn xe thì anh không biết. Anh Đ xác định xe mô tô trên là của anh T5 nên anh không yêu cầu.
* Người làm chứng:
Anh Nguyễn Duy T6 vắng mặt có lời khai: Anh T6 và bị cáo K là bạn quen biết nhau qua Facebook. Vào khoảng 08 giờ ngày 21/11/2021 anh có nhận được tin nhắn (qua Mesenger) của bị cáo K hỏi mượn 100.000 đồng (Một trăm nghìn đồng) anh đồng ý và gửi định vị cho bị cáo K. Khoảng 30 phút sau anh nhận được tin nhắn của bị cáo K nói không có xe nên không lên lấy tiền được. Thời điểm bị cáo K nhắn tin hỏi mượn tiền anh thì không có nói ở đâu, mục đích mượn tiền để làm gì, anh cũng không có hỏi.
Tại Cáo trạng số 26/CT-VKS-TP ngày 04/7/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Phước truy tố bị cáo Trần Minh K về tội “ Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi” theo khoản 1 Điều 145 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa,
* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Phước vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố các bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:
Áp dụng khoản 1 Điều 145, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự.
- Xử phạt bị cáo Trần Minh K từ 01 năm đến 02 năm tù.
- Về vật chứng của vụ án:
- Đề nghị tịch thu tiêu hủy: 01 (một) mảnh gạc y tế tẩm máu của Trần Minh K; 01 (một) chiếc quần lót bằng vải, màu hồng, loại quần lót nữ, không có thông tin về nhãn hiệu và kích cỡ, đã qua sử dụng; 01 (một) áo thun nam giới, màu đen, ngắn tay, có cổ, nhãn hiệu Zenz FA, size XL. Trên vai áo và cổ áo có nền thêu chữ BURBERRY, đã qua sử dụng; 01 (một) chiếc quần lửng, nam giới, vải jean, màu xanh, hiệu “TC& HL”. Size 32 made in Viet Nam, đã qua sử dụng;
01 (một) chiếc áo thun, nhãn hiệu J & Y, màu loang, dạng trắng bông, đã qua sử dụng; 01 (một) chiếc quần jean, màu xanh, size L, lưng thun, nhãn hiệu S & A, đã qua sử dụng.
- Đề nghị trả lại cho bị hại: 01 (một) điện thoại di động hiệu SAMSUNG Galaxy M12, màu xanh ngọc. Số IMEI 1: 353930950419193, số IMEI 2: 357022850419196. Điện thoại đã qua sử dụng, bị nứt màn hình và đang hoạt động bình thường và 01 (một) sim 0981.834.762, số mã trên sim 8984048000327173461 (được lắp trong điện thoại di động hiệu Nokia, màu đen, loại bàn phím, Model TA -1203. Số IMEI: 357732102980049).
- Đề nghị tịch thu sung vào công quỹ nhà nước: 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia, màu đen, loại bàn phím, Model TA -1203. Số IMEI: 357732102980049. Điện thoại đã qua sử dụng, đang hoạt động bình thường và 01 (một) sim 0356.759.015, số mã trên sim 8984048000056056376 (được lắp trong điện thoại di động hiệu SAMSUNG Galaxy M12, màu xanh ngọc. Số IMEI 1: 353930950419193, số IMEI 2: 357022850419196).
Đối với xe mô tô 02 bánh biển số 63B3 – 569.44, xác định do Phạm Thanh T5, sinh năm 1991, ĐKTT: Ấp B, xã Đ, huyện C, tỉnh Tiền Giang mua lại của anh Bạch Văn Bích Đ, sinh năm 1986, ĐKTT: Ấp T, xã N, huyện C, tỉnh Tiền Giang nhưng chưa làm thủ tục sang tên. Kết quả làm việc anh T5 không biết bị cáo K mượn xe đi thực hiện hành vi phạm tội nên Cơ quan điều tra không tạm giữ xe là có căn cứ.
- Về trách nhiệm dân sự: Bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không yêu cầu bị cáo bồi thường, nên không xem xét.
- Bị cáo khai nhận về hành vi bị cáo đã thực hiện đúng như nội dung bản Cáo trạng và ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát, không tranh luận gì.
- Bị hại và người đại diện hợp pháp của bị hại, không yêu cầu thêm về trách nhiệm dân sự và xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại, thống nhất với nội dung bản Cáo trạng và ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát, không có ý kiến tranh luận gì về vấn đề tội danh. Bị cáo là người thành niên nhận thức được việc quan hệ với người đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi là vi phạm pháp luật xâm phạm đến sức khỏe tâm sinh lý của trẻ em, nhưng bị cáo đã cố tình thực hiện. Do đó, bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi của mình gây ra. Gia đình bị hại đã xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, bị cáo đã bồi thường thiệt hại, phía bị hại không yêu cầu bồi thường gì thêm. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét xử lý bị cáo theo quy định pháp luật.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan :
+ Bà Phạm Thị H1 tự nguyện bồi thường cho gia đình bị hại số tiền 20.000.000 đồng (Hai mươi triệu đồng), không yêu cầu bị cáo trả lại và xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
+ Chị T4 không yêu cầu bị cáo và bị hại trả lại số tiền 80.000 đồng (Tám mươi nghìn đồng).
+ Anh Phạm Thanh T5 không yêu cầu gì về trách nhiệm dân sự.
+ Anh Bạch Văn Bích Đ vắng mặt tại phiên tòa, không yêu cầu bị cáo bồi thường.
- Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo thấy mình sai, ăn năn hối hận về hành vi phạm tội của mình. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Tại phiên tòa, bị hại Nguyễn Huỳnh Bích T1 xin vắng mặt nhưng có người đại điện hợp pháp của bị hại và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Bạch Văn Bích Đ và người làm chứng anh Nguyễn Duy T6 vắng mặt. Xét việc bị hại T1, anh Đ, anh T6 đã có lời khai tại hồ sơ và không yêu cầu về trách nhiệm dân sự và đã được Tòa án tống đạt hợp lệ. Việc vắng mặt không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án, nên Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt các đương sự trên.
[2] Tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Tân Phước, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Phước, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đều thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không ai có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng thực hiện đều hợp pháp.
[3] Về hành vi phạm tội của các bị cáo:
[3.1] Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Trần Minh K đã thừa nhận toàn bộ hành vi của mình là vào khoảng 08 giờ ngày 21/11/2021, tại phòng số 10 nhà nghỉ Kênh Tây thuộc ấp Tân Hưng Tây, xã Tân Hòa Tây, huyện Tân Phước, tỉnh Tiền Giang do chị Huỳnh Thị H3, sinh năm 1967 quản lý. Bị cáo Trần Minh K đã có hành vi giao cấu với Nguyễn Huỳnh Bích T1, sinh ngày 28/01/2008 một lần, bị hại T1 là người chưa thành niên đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi. Vì vậy, bị cáo Trần Minh K phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội của mình.
Ngoài tố giác hành vi bị giao cấu thì gia đình bị hại Nguyễn Huỳnh Bích T1 còn tố giác bị cáo Trần Minh K có hành vi chiếm đoạt điện thoại di dộng của T1. Qua điều tra xác định, sau khi thực hiện hành vi giao cấu thì bị cáo K có hỏi mượn điện thoại di động của T1 để sử dụng liên lạc với Nguyễn Duy T6 mượn tiền trả tiền phòng. Sau đó, bị cáo K không đến gặp T1 mà về nhà tuy nhiên bị cáo K không có ý thức chiếm đoạt và có chủ động liên lạc để trả lại điện thoại cho T1, tại phiên tòa bị hại và gia đình bị hại không yêu cầu xử lý hành vi chiếm đoạt trên của bị cáo K. Xét thấy hành vi của bị cáo Trần Minh K không đủ yếu tố cấu thành tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại Điều 175 Bộ luật Hình sự nên Cơ quan điều tra không xử lý hình sự K về hành vi này là có căn cứ.
[3.2] Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai trong quá trình điều tra, lời khai của người bị hại; Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và người làm chứng và các tài liệu chứng cứ khác thu thập có trong hồ sơ vụ án, phù hợp với kết quả xét hỏi và tranh tụng tại phiên tòa hôm nay. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận bị cáo Trần Minh K phạm tội “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi” quy định tại Khoản 1 Điều 145 Bộ luật Hình sự năm 2015: “1. Người nào đủ 18 tuổi trở lên mà giao cấu … với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 142 và Điều 144 của Bộ luật này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm”.
Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Phước truy tố đối với bị cáo là có cơ sở và đúng pháp luật.
[4] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của tội phạm: Bị cáo nhận thức được việc quan hệ với người đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi là vi phạm pháp luật. Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, đã trực tiếp xâm phạm đến sức khỏe, nhân phẩm của bị hại là em Nguyễn Huỳnh Bích T1, làm ảnh hưởng đến sự phát triển thể chất, gây tổn hại về sức khỏe cho em T1, làm ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương nơi xảy ra vụ án, gây tư tưởng bất bình trong nhân dân, ảnh hưởng đến đạo đức, lối sống trong xã hội cộng đồng. Bản thân bị cáo nhận thức được rằng, sức khỏe, nhân phẩm là vốn quí của mỗi con người, được pháp luật bảo vệ một cách triệt để, việc xâm phạm gây thiệt hại đến sức khỏe, nhân phẩm của người khác là vi phạm pháp luật. Nhưng do dục vọng ham muốn sinh lý bản năng, chỉ muốn thỏa mãn nhu cầu sinh lý bản thân mà bị cáo bất chấp tất cả để thực hiện hành vi phạm tội của mình. Bị cáo là người đã thành niên có hiểu biết nhưng đã lợi dụng sự quen biết và thiếu hiểu biết của bị hại để dụ dỗ, quan hệ giao cấu với em T1, trong lúc em T1 mới 13 tuổi 9 tháng. Xã hội đang lên án những hành vi, việc làm như bị cáo K.
[5] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân bị cáo:
- Tình tiết tăng nặng: Bị cáo K không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
- Tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo K thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; bị cáo tự nguyện khắc phục hậu quả, đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Đại diện hợp pháp của bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
- Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu, bị cáo có 01 tiền sự: Ngày 22/6/2020, bị cáo bị Công an xã Điềm Hy, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 0002117/QĐ-XPHC với số tiền 1.500.000 đồng do có hành vi trộm cắp tài sản; Bị cáo chưa chấp hành.
Với tình tiết nêu trên, Hội đồng xét xử cân nhắc khi lượng hình để tuyên xử mức án nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo. Xét cần thiết phải cách ly bị cáo K khỏi đời sống chung với xã hội một thời gian, nhằm giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt, có ích cho gia đình, xã hội và nhằm răn đe, phòng ngừa chung.
[6] Về hình phạt bổ sung: Hội đồng xét xử thống nhất không áp dụng đối với bị cáo.
[7] Về vật chứng của vụ án:
- Tịch thu tiêu hủy vật chứng gồm:
+ 01 (một) mảnh gạc y tế tẩm máu của Trần Minh K, được niêm phong trong bì thư màu nâu có đóng dấu mộc vuông của Trung tâm y tế huyện Tân Phước – xét nghiệm CĐHA (đã mở niêm phong do giám định).
+ 01 (một) chiếc quần lót bằng vải, màu hồng, loại quần lót nữ, không có thông tin về nhãn hiệu và kích cỡ. Chiếc quần lót có chiều ngang 36 cm, chiều cao chiếc quần từ lưng đến đáy quần là 25 cm. Đáy quần bị ngã ố vàng. Chiếc quần đã qua sử dụng và được niêm phong bằng cách để vào hộp giấy và dán giấy trắng (đã mở niêm phong do giám định).
+ 01 (một) áo thun nam giới, màu đen, ngắn tay, có cổ, nhãn hiệu Zenz FA, size XL. Trên vai áo và cổ áo có nền thêu chữ BURBERRY, đã qua sử dụng.
- 01 (một) chiếc quần lửng, nam giới, vải jean, màu xanh, hiệu “TC& HL”. Size 32 made in Viet Nam, đã qua sử dụng.
+ 01 (một) chiếc áo thun, nhãn hiệu J & Y, màu loang, dạng trắng bông. Kích thước từ cổ áo đến vạc áo là 65 cm. Kích thước 02 bên nách áo là 50 cm, đã qua sử dụng.
+ 01 (một) chiếc quần jean, màu xanh, size L, lưng thun, nhãn hiệu S & A, đã qua sử dụng.
- Trả lại cho bị hại: 01 (một) điện thoại di động hiệu SAMSUNG Galaxy M12, màu xanh ngọc. Số IMEI 1: 353930950419193, số IMEI 2: 357022850419196. Điện thoại đã qua sử dụng, bị nứt màn hình và đang hoạt động bình thường và 01 (một) sim 0981.834.762, số mã trên sim 8984048000327173461 (được lắp trong điện thoại di động hiệu Nokia, màu đen, loại bàn phím, Model TA -1203. Số IMEI: 357732102980049).
- Tịch thu sung vào công quỹ nhà nước: 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia, màu đen, loại bàn phím, Model TA -1203. Số IMEI: 357732102980049. Điện thoại đã qua sử dụng, đang hoạt động bình thường và 01 (một) sim 0356.759.015, số mã trên sim 8984048000056056376 (được lắp trong điện thoại di động hiệu SAMSUNG Galaxy M12, màu xanh ngọc. Số IMEI 1: 353930950419193, số IMEI 2: 357022850419196).
[8] Về trách nhiệm dân sự: Trong quá trình giải quyết vụ án bị cáo cùng gia đình bị cáo và bị hại cùng gia đình bị hại đã thỏa thuận thống nhất bồi thường cho bị hại số tiền 20.000.000 đồng (Hai mươi triệu đồng), đã giao nhận xong. Tại phiên tòa phía đại diện bị hại và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì thêm, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.
[9] Đối với hành vi của anh Bạch Văn Bích Đ và anh Phạm Thanh T5 là cho bị cáo K mượn xe mô tô 02 bánh biển số 63B3 – 569.44. Qua điều tra, anh Đ và anh T5 không biết bị cáo K mượn xe để thực hiện hành vi phạm tội nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Tân Phước không truy cứu trách nhiệm hình sự là có căn cứ.
[10] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.
[11] Xét phân tích và đề nghị của Kiểm sát viên là phù hợp với nhận định trên, Hội đồng xét xử chấp nhận.
[12] Xét lời đề nghị của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại tham gia phiên tòa là phù hợp với nhận định trên, Hội đồng xét xử chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố bị cáo Trần Minh K phạm tội “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi”.
- Áp dụng khoản 1 Điều 145, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự.
Xử phạt: Bị cáo Trần Minh K 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án.
2. Về vật chứng của vụ án: Căn cứ khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng dân sự, Điều 47 Bộ luật Hình sự.
- Tịch thu tiêu hủy vật chứng gồm:
+ 01 (một) mảnh gạc y tế tẩm máu của Trần Minh K, được niêm phong trong bì thư màu nâu, có đóng dấu mộc vuông của Trung tâm y tế huyện Tân Phước – xét nghiệm CĐHA (đã mở niêm phong do giám định).
+ 01 (một) chiếc quần lót bằng vải, màu hồng, loại quần lót nữ, không có thông tin về nhãn hiệu và kích cỡ. Chiếc quần lót có chiều ngang 36 cm, chiều cao chiếc quần từ lưng đến đáy quần là 25 cm. Đáy quần bị ngã ố vàng. Chiếc quần đã qua sử dụng và được niêm phong bằng cách để vào hộp giấy và dán giấy trắng (đã mở niêm phong do giám định).
+ 01 (một) áo thun nam giới, màu đen, ngắn tay, có cổ, nhãn hiệu Zenz FA, size XL. Trên vai áo và cổ áo có nền thêu chữ BURBERRY, đã qua sử dụng.
- 01 (một) chiếc quần lửng, nam giới, vải jean, màu xanh, hiệu “TC& HL”. Size 32 made in Viet Nam, đã qua sử dụng.
+ 01 (một) chiếc áo thun, nhãn hiệu J & Y, màu loang, dạng trắng bông. Kích thước từ cổ áo đến vạc áo là 65 cm. Kích thước 02 bên nách áo là 50 cm, đã qua sử dụng.
+ 01 (một) chiếc quần jean, màu xanh, size L, lưng thun, nhãn hiệu S & A, đã qua sử dụng.
- Trả lại cho bị hại: 01 (một) điện thoại di động hiệu SAMSUNG Galaxy M12, màu xanh ngọc. Số IMEI 1: 353930950419193, số IMEI 2: 357022850419196. Điện thoại đã qua sử dụng, bị nứt màn hình và đang hoạt động bình thường và 01 (một) sim 0981.834.762, số mã trên sim 8984048000327173461 (được lắp trong điện thoại di động hiệu Nokia, màu đen, loại bàn phím, Model TA -1203. Số IMEI: 357732102980049).
- Tịch thu sung vào công quỹ nhà nước: 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia, màu đen, loại bàn phím, Model TA -1203. Số IMEI: 357732102980049. Điện thoại đã qua sử dụng, đang hoạt động bình thường và 01 (một) sim 0356.759.015, số mã trên sim 8984048000056056376 (được lắp trong điện thoại di động hiệu SAMSUNG Galaxy M12, màu xanh ngọc. Số IMEI 1: 353930950419193, số IMEI 2: 357022850419196).
Số vật chứng trên hiện do Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tân Phước, tỉnh Tiền Giang đang tạm giữ. Thực hiện việc tịch thu tiêu hủy và giao trả khi án có hiệu lực pháp luật.
3. Về án phí: Áp dụng Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.
Bị cáo Trần Minh K phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo:
Người đại diện hợp pháp của bị hại T1: Ông Nguyễn Khánh T2 và bà Huỳnh Thị Lệ T3; Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan gồm: Nguyễn Thị Kim T4; Huỳnh Thị H3; Phạm Thị H1; Phạm Thanh T5 được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Bạch Văn Bích Đ vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày Tòa án tống đạt hợp lệ bản án, để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang xét xử phúc thẩm.
Bản án về tội giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi số 30/2022/HS-ST
Số hiệu: | 30/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Tân Phước - Tiền Giang |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 11/08/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về