Bản án về tội giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi số 211/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN NAM TỪ LIÊM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 211/2022/HS-ST NGÀY 27/10/2022 VỀ TỘI GIAO CẤU VỚI NGƯỜI TỪ ĐỦ 13 TUỔI ĐẾN DƯỚI 16 TUỔI

Trong ngày 27/10/2022, tại trụ sở TAND quận N, TP Hà Nội, mở phiên tòa công khai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 220/2022/TLST-HS ngày 10/10/2022 đối với bị cáo:

Vũ Thành L, sinh năm 2000; Giới tính: Nam Nơi ĐKNKTT: Thôn C, xã H, huyện L, Bắc Giang. Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam Trình độ học vấn: 07/12; Nghề Nghiệp: Lao động tự do Con ông Vũ Xuân L và bà Trần Thị H Tiền án, tiền sự: Không Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 26/4/2022. Hiện đang tạm giam tại trại tạm giam số 1, Công an thành phố Hà Nội – Có mặt Người bị hại: Cháu Lê Gia N, sinh ngày 28/02/2008 – Xin xét xử vắng mặt Người giám hộ và đại diện hợp pháp của cháu N: Chị Phạm Thị Hồng H, sinh năm 1987 – Có mặt Nơi ĐKNKTT: Số 180, phường Đ, TP P, tỉnh G Chỗ ở: Thôn T, xã Đ, huyện G, Hà Nội.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho cháu N: Bà Nguyễn Thị N – Trợ giúp viên pháp lý – Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước thành phố Hà Nội – Có mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

 Bị cáo bị VKSND quận N, thành phố Hà Nội truy tố về hành vi phạm tội như sau: Qua mạng xã hội facebook, Vũ Thành L quen biết và có quan hệ tình cảm với cháu Lê Gia N. Ngày 20/4/2022,Vũ Thành L cùng với Vũ Minh G là em họ của L, đi sang Gia Lâm rủ cháu N đi chơi. Tại đây, G gặp cháu Nguyễn Thị Ngọc A, hai người đã kết bạn qua mạng xã hội Facebook với nhau. Khoảng 18 giờ ngày 23/4/2022, cháu N nhắn tin qua Facebook rủ cháu Ngọc A tới địa chỉ 68A, phường M, quận N, Hà Nội để đi chơi với L và G. N và Ngọc A bàn bạc sẽ bỏ nhà đi hai ngày rồi mới về. Sau đó, N và Ngọc A nói dối gia đình là đi học rồi cả hai bắt taxi sang địa điểm đã hẹn. Lúc này, L và G đang ngồi ăn ốc ở khu vực A, phường M, quận N, Hà Nội, G lấy xe máy đi đón Ngọc A rồi quay lại đón N từ 68A về quán ốc. Sau khi ăn xong thì L điển khiển xe máy Honda wave màu đen BKS 98M1-xxxx chở N đi ăn đêm, G chở Ngọc A đến quán cà phê Phố Đêm trên đường M, quận N để uống nước. Một lúc sau, L chở N vào nhà nghỉ T tại địa chỉ số 2 ngõ 142 đường Đ, phường M, quận N, Hà Nội và thuê phòng 401. Khi lên phòng, L nằm trên giường còn N ngồi nghịch điện thoại của L. Khoảng 15 phút sau thì L kéo tay N nằm xuống giường rồi cả hai ôm, hôn nhau. L dùng tay phải cởi áo ngoài của N ra thì N dùng tay khẽ đẩy L ra và nói “không được cởi áo ngoài, chỉ cởi áo trong thôi”. L cởi áo ngực và quần lót của N rồi tự cởi quần dài và quần lót của mình. Lúc này, N đang nằm ngửa, L dùng tay phải cầm dương vật của mình đưa dương vật vào bên trong âm đạo của N và thực hiện hành vi quan hệ tình dục với N. Khoảng 10 phút sau thì L rút dương vật ra khỏi âm đạo của N và xuất tinh lên bụng N rồi cả hai cùng đi tắm. Khi cả hai đang nằm trên giường nghỉ ngơi thì bác của L gọi điện thoại thông báo gia đình của N và Ngọc A đã báo Công an và đang đi tìm nên L đã xuống thanh toán tiền nhà nghỉ hết 170.000đ rồi gọi điện thoại cho G hỏi địa chỉ G và Ngọc A. Sau đó, L chở N ra chỗ hẹn với G và Ngọc A.

Về phía Ngọc A và G sau khi xong đi uống cà phê đến khoảng 22 giờ 20 phút cùng ngày thì Ngọc A đòi đi về nhưng G nói là muộn rồi, ngủ lại mai G sẽ đưa Ngọc A về hoặc Ngọc A tự bắt taxi về. Sau đó, G chở Ngọc A đến nhà nghỉ ở gần quán cà phê (hiện không xác định được địa chỉ). Tại đây, Ngọc A vẫn đòi về nên lễ tân nhà nghỉ bảo với G “thôi chở nó về” và không đồng ý cho thuê phòng. Sau đó, G bảo muộn rồi thuê nhà nghỉ để ngủ lại thì Ngọc A đồng ý và cả hai thuê phòng 401 tại nhà nghỉ H số 43, phường M, Hà Nội. Khi lên phòng được khoảng 5 phút thì Ngọc A nói muốn đi ăn đêm nên G chở Ngọc A đi ăn, sau đó, cả hai trở lại phòng. Tại phòng, Ngọc A và G cùng nằm trên giường, G vòng tay phải ôm bụng Ngọc A rồi hôn môi và cổ thì Ngọc A không phản ứng gì. G dùng tay sờ hai bên ngực Ngọc A rồi cởi quần dài và quần lót của Ngọc A rồi tự cởi quần áo của G. Cởi xong quần áo, G bảo Ngọc A ngồi dậy, tựa lưng vào thành giường. G ngồi đối diện Ngọc A, dùng hai tay banh chân Ngọc A ra rồi đưa dương vật của G vào bên trong âm đạo của Ngọc A thì Ngọc A thấy đau nên dã dùng hai tay cấu vào tay của G. Ngay lúc này, L gọi điện cho G báo là gia đình N và Ngọc A đã trình báo Công an nên Ngọc A và G không quan hệ tình dục nữa.

Một lúc sau, L và N gặp G và Ngọc A ở nhà nghỉ H. Cả bốn người cùng bàn bạc với nhau sẽ đi về nhà ông bà của L và G ở Thanh Hóa để nhờ người giải quyết sự việc. Sau đó, tất cả bắt taxi về nhà nghỉ T ở tiểu khu 6 thị trấn H, huyện H, tỉnh Thanh Hóa. Tại đây, L và G thuê phòng 302 còn Ngọc A và N thuê phòng 303. Đến tối ngày 24/4/2022, N mượn điện thoại của L gọi về cho gia đình và nói sẽ về nhà. Đến khoảng 01 giờ ngày 25/4/2022, N và Ngọc A bắt taxi về nhà và kể lại toàn bộ sự việc với gia đình. Sau đó, hai gia đình đã đưa Ngọc A và N đến Công an phường Mễ Trì để trình báo.

*Vật chứng thu giữ:

1. Thu giữ của Vũ Thành L: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7Plus màu đen có Imei 356695081700236.

2. Thu giữ của Vũ Minh G: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 11 Promax màu đen có Imei 352848113965913.

Tại Bản kết luận giám định pháp y tình dục số 944 ngày 15/7/2022 của Trung tâm pháp y của Sở y tế Hà Nội, kết luận đối với Lê Gia N:

1. Có vết bầm tím màu xanh vàng nhạt ở vùng ngực 2 bên, theo thông tư số 22/2019/TT-BYT ngày 28/8/2019 không có chương mục nào quy định cho điểm tỷ lệ tổn hại sức khỏe đối với các chạm thương này. Cơ chế hình thành thương tích do vật tày gây nên.

2. Màng trinh dạng cánh hoa, không có vết rách cũ và mới, lỗ màng trình giãn rộng, không sây sát bầm tím.

3. Xét Nệm phát hiện dấu vết tinh dịch – PSA card:

+ Dịch âm đạo: không rõ + Quần dài: Dương tính 4. Xét Nệm nhuộm soi mẫu bệnh phẩm lấy từ dịch âm đạo: Không có ảnh tinh trùng trên tiêu bản.

Tại kết luận giám định ADN, số HT32522/PY-XNSH ngày 13/7/2022 của Viện pháp y quân đội – Cục quân y, kết luận đối với Lê Gia N:

- Dấu vết trên tăm bông thu mẫu dịch âm đạo của Lê Gia N có ADN nhiễm sắc thể Y, trùng khớp với ADN nhiễm sắc thể Y từ mẫu niêm mạc miệng của Vũ Thành L.

- Dấu vết trên chiếc quần dài gửi giám định có ADN nhiễm sắc thể Y tạp nhiễm, không đủ điều kiện so sánh với ADN nhiễm sắc thể Y từ mẫu niêm mạc miệng của Vũ Thành L.

Tại bản kết luận giám định số 975 ngày 21/7/2022 của Trung tâm pháp y của Sở y tế Hà Nội, kết luận đối với Nguyễn Thị Ngọc A:

1. Vùng cổ trước 2 bên có 02 vết bầm tím mới : thông tư số 22/2019/TT-BYT ngày 28/8/2019 không có chương mục nào quy định cho điểm tỷ lệ tổn hại sức khỏe đối với các chạm thương này. Cơ chế hình thành thương tích do vật tày gây nên.

2. Vùng tiền đình vị trí 6 giờ có vết rách niêm mạc mới: thông tư số 22/2019/TT-BYT ngày 28/8/2019 không có chương mục nào quy định cho điểm tỷ lệ tổn hại sức khỏe đối với các chạm thương này. Cơ chế hình thành thương tích là do sự tác động của cọ sát với vật tày.

3. Màng trinh dạng vành khăn, không có vết rách cũ và mới, lỗ màng trinh giãn nhẹ.

4. Xét Nệm phát hiện dấu vết tinh dịch -PSA card:

+ Dịch âm đạo: âm tính + Quần lót: không rõ 5. Xét Nệm nhuộm soi mẫu bệnh phẩm lấy từ dịch âm đạo, không có hình ảnh tinh trùng trên tiêu bản.

Tại kết luận giám định ADN số HT32422/PY-XNSH ngày 13/7/2022 của Viện pháp y quân đội – Cục quân y, kết luận:

- Không phát hiện thấy ADN nhiễm sắc thể Y từ dấu vết trên tăm bông thu mẫu dịch âm đạo và quần lót của Nguyễn Thị Ngọc A.

- Phân tích ADN nhiễm sắc thể Y từ mẫu niêm mạc trên của Vũ Minh G, ADN và kiểu gen được lưu tại Khoa Xét Nệm Sinh học, Viện pháp y Quân đội ký hiệu HT32422_3.

Đối với hành vi quan hệ tình dục của Vũ Minh G với Nguyễn Thị Ngọc A vào ngày 23/4/2022. Quá trình điều tra xác định: bản thân Ngọc A tự nguyện quan hệ tình dục, thời điểm thực hiện hành vi quan hệ tình dục G mới 17 tuổi 6 tháng 12 ngày, cháu Ngọc A 13 tuổi 4 tháng 14 ngày. Vì vậy, hành vi của G không cấu thành tội Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi nên Cơ quan điều tra Công an quận N không đề cập xem xét xử lý đối với G.

Tại bản cáo trạng số 225/CT-VKSNTL ngày 06/10/2022 của VKSND quận N, thành phố Hà Nội đã truy tố bị cáo về tội “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi” theo khoản 1 Điều 145 BLHS.

Kết thúc phần tranh tụng; Tại phần tranh luận, đại diện VKS đọc bản luận tội đối với bị cáo. Nội dung bản luận tội đã phân tích nguyên nhân, động cơ, mục đích phạm tội của bị cáo; Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ áp dụng đối với bị cáo và khẳng định cáo trạng truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; Đề nghị HĐXX tuyên bố bị cáo phạm tội tội “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi”. Áp dụng khoản 1 Điều 145 BLHS, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, 47 BLHS, Điều 106 BLTTHS; Các Điều 584, 585, 590 BLDS. Đề nghị xử phạt bị cáo từ 15 đến 18 tháng tù. Về trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo phải bồi thường cho cháu N 20.000.000đ; Về xử lý vật chứng đề nghị không xem xét.

Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai của các bị cáo đúng như nội dung bản cáo trạng số 225 ngày 06/10/2022 của VKSND quận N đã truy tố bị cáo. Bị cáo thừa nhận cáo trạng truy tố và lời luận tội của đại diện VKS đối với bị cáo tại phiên tòa là đúng người, đúng tội, không oan. Bị cáo không tranh luận với lời luận tội của đại diện VKS. Tại lời nói sau cùng, bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Người đại diện hợp pháp cho người bị hại trình bày: Sự việc xảy ra giữa bị cáo và cháu N là rất đáng tiếc. Gia đình thấy có phần trách nhiệm trong việc dạy dỗ cháu N. Về hình phạt đề nghị HĐXX giảm nhẹ cho bị cáo. Về dân sự yêu cầu bị cáo bồi thường tổn thất tinh thần, danh dự nhân phẩm tổng cộng là 20.000.000đ.

Bị cáo nhất trí chấp nhận với mức bồi thường mà người bị hại và đại diện hợp pháp cho người bị hại yêu cầu.

Bà N trự giúp viên pháp lý bảo vệ cho cháu N: Đồng tình với bản luận tội của đại diện VKS về tội danh. Đề nghị xử phạt bị cáo ở mức án phù hợp, giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, lời khai của bị cáo, HĐXX nhận định: Khoảng 20 giờ 15 phút ngày 23/4/2022, tại nhà nghỉ T địa chỉ số 2 ngõ 142 đường Đ, phường M, quận N, Hà Nội, Vũ Thành L đã có hành vi giao cấu với cháu Lê Gia N (khi cháu Lê Gia N mới 14 tuổi 01 tháng 26 ngày).

Hành vi của các bị cáo đã phạm tội “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 145 BLHS.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền được bảo vệ sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của trẻ em, làm ảnh hưởng xấu đến trật tự an toàn xã hội, ảnh hưởng tiêu cực đến thuần phong mỹ tục.

Về nhân thân của bị cáo: Tính đến ngày phạm tội bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, có nhân thân tốt. Lần đầu phạm tội nhưng phạm tội Nghiêm trọng.

Về tình tiết giảm nhẹ: Tại phiên tòa bị cáo đều thành khẩn khai báo và ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Đại diện hợp pháp cho người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Do vậy, bị cáo được tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS. HĐXX áp dụng để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Xét cần xử phạt bị cáo một mức án tương xứng với tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra. Cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục cải tạo bị cáo và phòng ngừa chung đối với xã hội.

Về hình phạt bổ sung: Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại là cháu Lê Gia N và người giám hộ là chị Phạm Thị Hồng H yêu cầu Vũ Thành L bồi thường 20.000.000đ. Tại phiên tòa bị cáo đã chấp nhận toàn bộ yêu cầu này nên HĐXX chấp nhận và buộc bị cáo phải bồi thường số tiền trên cho người bị hại.

Về xử lý vật chứng: Trả lại bị cáo 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7Plus màu đen có Imei 356695081700236.

Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí HSST và DSST theo quy định. Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Vũ Thành L phạm tội “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi”.

Áp dụng khoản 1 Điều 145, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38, 46 Bộ luật hình sự 2015; Điều 106, 136, 329 Bộ luật tố tụng hình sự 2015; Các Điều 584, 585, 590, 592 BLDS; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử phạt: Vũ Thành L 21 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 26/4/2022. Tạm giam bị cáo 45 ngày, kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

Về trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo phải bồi thường cho người bị hại 20.000.000đ.

Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bị cáo không chịu thi hành khoản tiền trên thì hàng tháng phải chịu lãi suất theo khoản 2 Điều 468 BLDS tương ứng với số tiền và thời gian chưa thi hành án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự;

Về xử lý vật chứng: Trả lại bị cáo 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7Plus màu đen có Imei 356695081700236. (Đặc điểm vật chứng đúng như biên bản giao nhận vật chứng số 05 ngày 07/10/2022 giữa Cơ quan điều tra và Chi cục thi hành án dân sự quận N) Về án phí: Buộc bị cáo phải nộp 200.000đ tiền án phí HSST và 1000.000đ án phí DSST.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người bị hại và người đại diện hợp pháp của người bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án hoặc niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

27
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi số 211/2022/HS-ST

Số hiệu:211/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Nam Từ Liêm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/10/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: [email protected]
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;