Bản án về tội giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi số 180/2024/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 180/2024/HS-PT NGÀY 24/09/2024 VỀ TỘI GIAO CẤU VỚI NGƯỜI TỪ ĐỦ 13 TUỔI ĐẾN DƯỚI 16 TUỔI

Ngày 24/9/2024, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Bắc Giang mở phiên tòa công khai xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 38/2024/TLPT-HS ngày 22/8/2024, đối với bị cáo Lưu Quang S, do có kháng cáo của bị cáo Lưu Quang S và kháng cáo của người bị hại chị Nguyễn Thị Hoài A đối với bản án hình sự sơ thẩm số: 148/2024/HS-ST ngày 10/7/2024 của Tòa án nhân dân thị xã Việt Yên, tỉnh Bắc Giang;

* Bị cáo có kháng cáo: Họ và tên: Lưu Quang S, sinh năm 2003; Tên gọi khác: không; Nơi cư trú: Thôn C, xã V, huyện V (nay là thị xã V), tỉnh Bắc Giang; Giới tính: Nam; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 07/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam;

Con ông Lưu Quang H, sinh năm 1982; Con bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1977; Vợ: chưa có và có 01 con sinh năm 2022; Tiền án, tiền sự: không. Bị cáo bị khởi tố và áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, hiện tại ngoại (Có mặt tại phiên tòa).

Trợ giúp viên pháp lý bào chữa cho bị cáo: Ông Thân Văn D - Trợ giúp viên pháp lý, Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh B (Có mặt)

* Bị hại kháng cáo: Chị Nguyễn Thị Hoài A, sinh 17/8/2007 ( Có mặt).

* Người đại diện cho chị Nguyễn Thị Hoài A:

Bà Trương Thị H1, sinh năm 1979 ( Có mặt). Ông Nguyễn Văn G, sinh năm 1979 ( Vắng mặt). Đều địa chỉ: Xóm T, xã V, huyện P, tỉnh Thái Nguyên

* Đại diện Đoàn thanh niên xã V, huyện P, tỉnh Thái Nguyên: Bà Lưu Thị T1, chức vụ: Bí thư (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lưu Quang S, sinh năm 2003, trú tại thôn C, xã V, huyện V (nay là thị xã V), tỉnh Bắc Giang và chị Nguyễn Thị Hoài A, sinh ngày 17/8/2007, trú tại xóm T, xã V, huyện P, tỉnh Thái Nguyên quen biết, yêu nhau từ khoảng tháng 9/2021; cả hai cùng làm công nhân thời vụ tại Công ty G1 ở thôn H, xã V, huyện V (nay là thị xã V), tỉnh Bắc Giang.

Buổi tối một ngày trong tháng 3/2022 (Sóng và chị A không nhớ ngày giờ cụ thể), S đến phòng trọ của chị A đang thuê trọ tại gia đình chị Hoàng Thị N1, sinh năm 1980 ở thôn H, xã V, huyện V (nay là thị xã V), tỉnh Bắc Giang chơi, rồi quan hệ tình dục với chị A tại phòng trọ, khi quan hệ tình dục cả hai không dùng biện pháp phòng tránh thai. Khoảng mấy tháng sau, chị A phát hiện có thai nên thông báo cho S biết rồi cả hai thông báo cho bố, mẹ hai gia đình biết. Gia đình S đến gia đình chị A xin phép bố mẹ chị A, đưa chị A về nhà S ở để chăm sóc và chờ sinh con; khi nào chị A đủ 18 tuổi thì S và chị A đăng ký kết hôn, tổ chức đám cưới. Khi về nhà S, chị A ở chung phòng với mẹ đẻ của S là bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1977, còn S ở phòng riêng. Ngày 18/12/2022, tại Trung tâm Y tế huyện V (nay là thị xã V), chị A đã sinh ra một con trai, đặt tên là Nguyễn Văn H2. Ngày 25/9/2023, bà Trương Thị H1, sinh năm 1979, trú tại xóm T, xã V, huyện P, tỉnh Thái Nguyên là mẹ đẻ của chị A đến Ủy ban nhân dân xã V làm thủ tục đăng ký thường trú cho cháu Nguyễn Văn H2 là con của chị A. Lúc này, Công an xã V, huyện P, tỉnh Thái Nguyên phát hiện chị A khi sinh con là cháu H2 chưa đủ 16 tuổi nên đã lập biên bản sự việc và chuyển hồ sơ vụ việc đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện P, tỉnh Thái Nguyên để tiến hành xác minh theo quy định.

Ngày 11/10/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện P, tỉnh Thái Nguyên tiến hành xác định hiện trường nơi Sóng quan hệ tình dục với chị A, có sự tham dự của S và chị A. Kết quả, chị A và S đều chỉ và xác nhận hiện trường nơi cả hai quan hệ tình dục vào tháng 3/2022 tại phòng trọ số 3 ở tầng 2 khu nhà trọ của gia đình chị Hoàng Thị N1, sinh năm 1980, ở thôn H, xã V, huyện V (nay là thị xã V), tỉnh Bắc Giang, nơi chị A thuê trọ. Cùng ngày 11/10/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện P, tỉnh Thái Nguyên chuyển hồ sơ vụ việc nêu trên đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện V (nay là thị xã V) để thụ lý, giải quyết theo thẩm quyền.

Ngày 18/10/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện V (nay là thị xã V) ra Quyết định số 122 trưng cầu Viện Pháp y Quân đội giám định AND để xác định quan hệ huyết thống giữa Lưu Quang S, Nguyễn Thị Hoài A với cháu Nguyễn Văn H2.

Tại Bản kết luận giám định ADN số HT638.23/PY-XNSH ngày 24 tháng 10 năm 2023 của V kết luận:

“1. Anh Lưu Quang S và cháu Nguyễn Văn H2 có quan hệ huyết thống C - Con. 2. Chị Nguyễn Thị Hoài A và cháu Nguyễn Văn H2 có quan hệ huyết thống Mẹ - Con.” Quá trình điều tra vụ án, ngày 04/12/2023 bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1977, trú tại thôn C, xã V, huyện V (nay là thị xã V), tỉnh Bắc Giang là mẹ đẻ của Lưu Quang S cung cấp tài liệu cho Cơ quan điều tra thể hiện việc S bị khuyết tật trí tuệ và được hưởng trợ cấp hàng tháng của Nhà nước. Ngày 05/12/2023, Ủy ban nhân dân xã V, huyện V (nay là thị xã V) cung cấp cho Cơ quan điều tra: Bản sao Giấy xác nhận khuyết tật số 0240VYYT196 của Ủy ban nhân dân xã V cấp ngày 25/11/2013 cho Lưu Quang S (Dạng khuyết tật: Trí tuệ; Mức độ khuyết tật: Nặng) cùng bản sao số lĩnh tiền trợ cấp xã hội của Lưu Quang S, thời gian nhận trợ cấp từ tháng 5/2018 đến nay) và bản sao hồ sơ xác nhận khuyết tật của S.

Ngày 06/12/2023, Cơ quan điều tra ra Quyết định số 207 trưng cầu Trung tâm pháp y tâm thần Khu vực miền núi phía Bắc giám định tình trạng tâm thần đối với Lưu Quang S.

Tại Bản kết luận giám định pháp y tâm thần số 221/KLGD ngày 29/12/2023 của Trung tâm pháp y tâm thần Khu vực miền núi phía Bắc kết luận:

“1. Lưu Quang S, sinh năm 2003, trú tại thôn C, xã V, huyện V, tỉnh Bắc Giang không bị mắc bệnh tâm thần.

2. Tại thời điểm thực hiện hành vi “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi” từ ngày 01/02/2022 đến ngày 30/4/2022, Lưu Quang S không bị bệnh tâm thần. Lưu Quang S đủ khả năng nhận thức và đủ khả năng điều khiển hành vi.

3. Hiện tại (thời điểm giám định) Lưu Quang S không bị bệnh tâm thần. Lưu Quang S đủ khả năng nhận thức và đủ khả năng điều khiển hành vi.” Đối với bố, mẹ của S, khi đón chị A về nhà sống để chờ sinh con, kết quả điều tra thể hiện Sóng không có lần nào khác quan hệ tình dục với chị A; chị N1 là người cho chị A ở trọ không biết chị A dưới 16 tuổi và không biết S quan hệ tình dục với chị A tại phòng trọ nên Cơ quan điều tra không đề cập xử lý.

Tại bản cáo trạng số 132/CT-VKS ngày 20/5/2024 của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Việt Yên đã truy tố Lưu Quang Sóng về tội “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi” theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 145 Bộ luật hình sự.

Bản án hình sự sơ thẩm số: 148/2024/HS-ST ngày 10/7/2024 của Tòa án nhân dân thị xã Việt Yên, tỉnh Bắc Giang đã quyết định:

Căn cứ điểm d khoản 2 Điều 145; điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 54, Điều 38 Bộ luật hình sự;

Xử phạt bị cáo Lưu Quang S 02 (Hai) năm 06 (S1) tháng tủ về tội “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi”, thời hạn tủ tính từ ngày bị cáo bị bắt đi thi hành án.

Ngoài ra bản án còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 19/7/2024, bị cáo Lưu Quang S và người bị hại chị Nguyễn Thị Hoài A nộp đơn kháng cáo. Nội dung kháng cáo của bị cáo và người bị hại đều đề nghị cấp phúc thẩm xem xét giảm nhẹ hình phạt và cho bị cáo được hưởng án treo.

Tại phiên toà phúc thẩm bị cáo Lưu Quang S và người bị hại chị Nguyễn Thị Hoài A vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo với lý do:

Bị cáo Lưu Quang S trình bày: Bị cáo là người khuyết tật nặng, bố đẻ bị cáo mắc bệnh tâm thần bỏ nhà đi lang thang từ năm 2016 đến nay, mẹ đẻ bị cáo bị bệnh tim, thận mãn tính; gia đình thuộc diện hộ nghèo. Hiện tại chị Nguyễn Thị Hoài A và con được bị cáo đưa về nuôi dưỡng cùng gia đình bị cáo, khi đến tuổi bị cáo và chị A sẽ làm thủ tục đăng ký kết hôn.

Bị hại chị Nguyễn Thị Hoài A trình bày: Do chị còn ít tuổi, chưa nhận thức được pháp luật, việc chị cho bị cáo S quan hệ tình dục là tự nguyện. Sau khi chị sinh con, gia đình và bị cáo đã đón chị về chung sống cùng gia đình của bị cáo, hiện tại chị đang ở chung cùng gia đình bị cáo. Do hoàn cảnh điều kiện của gia đình bị cáo rất khó khăn, chị kháng cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt và cho bị cáo được hưởng án treo để bị cáo tại ngoại có điều kiện chăm sóc mẹ con chị và gia đình của bị cáo.

Bà Trương Thị H1 là mẹ đẻ và là người đại diện hợp pháp cho chị Nguyễn Thị Hoài A đồng ý với lời trình bày của chị A, không bổ sung thêm gì.

Đại diện VKSND tỉnh Bắc Giang thực hành quyền công tố tại phiên toà, sau khi phân tích các tình tiết của vụ án, tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội do bị cáo gây ra, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, đưa ra đề nghị xem xét các vấn đề kháng cáo mà bị cáo và người bị hại nêu ra đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 1 Điều 355; điểm e khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự; không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, chấp nhận kháng cáo xin được hưởng án treo của bị cáo Lưu Quang S và của người bị hại chị Nguyễn Thị Hoài A; sửa bản án sơ thẩm, giữ nguyên hình phạt của bản án sơ thẩm nhưng cho bị cáo được hưởng án treo, bị cáo phải chịu thời gian thử thách theo quy định của pháp luật. Do kháng cáo của bị cáo và người bị hại được chấp nhận; mặt khác, bị cáo Lưu Quang S là người khuyết tật nặng, thuộc diện hộ nghèo, chị Nguyễn Thị Hoài A là vị thành niên nên được miễn nộp tiền án phí hình sự phúc thẩm.

Bị cáo Lưu Quang S tranh luận đối đáp gì. Trợ giúp viên pháp lý ông Thân Văn D bào chữa cho bị cáo Lưu Quang S trình bày Luận cứ: Về tội danh và điều luật cấp sơ thẩm đã áp dụng xét xử đối với bị cáo, Trợ giúp viên không có ý kiến gì. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, ngoài các tình tiết mà án sơ thẩm đã áp dụng đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng thêm cho bị cáo Lưu Quang S tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm p khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự đó là “Người phạm tội là người khuyết tật nặng...” vì bị cáo là người khuyết tật nặng có Giấy xác nhận khuyết tật số 0240VYVT196 của Ủy ban nhân dân xã V, huyện V (nay là thị xã V) cấp ngày 25/11/2013 cho Lưu Quang S (Dạng khuyết tật: Trí tuệ; mức độ khuyết tật: Nặng), hàng tháng bị cáo được lĩnh tiền trợ cấp xã hội.

Bị cáo Lưu Quang S nhất trí bào chữa của Trợ giúp viên pháp lý không tranh luận gì thêm.

Bị hại chị Nguyễn Thị Hoài A không tranh luận đối đáp gì. Đối đáp của đại diện VKS: Quan điểm của Trợ giúp viên đồng ý với quan điểm của Viện kiểm sát nên Viện kiểm sát không có tranh luận đối đáp gì, giữ nguyên quan điểm đã trình bày.

Kết thúc tranh luận các bên giữ nguyên quan điểm của mình. Bị cáo Lưu Quang S nói lời sau cùng: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng án treo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của đơn kháng cáo: Đơn kháng cáo của bị cáo Lưu Quang S và của người bị hại chị Nguyễn Thị Hoài A đã được làm trong thời hạn kháng cáo theo đúng quy định tại khoản 1 Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự nên được coi là đơn kháng cáo hợp pháp. HĐXX chấp nhận xem xét giải quyết đơn kháng cáo của bị cáo theo trình tự phúc thẩm.

[2] Xét hành vi của bị cáo Lưu Quang S thì thấy: Lưu Quang S, sinh năm 2003 và chị Nguyễn Thị Hoài A, sinh ngày 17/8/2007 quen biết, yêu nhau từ trước. Buổi tối một ngày trong tháng 3/2022 (Sóng và chị A không nhớ ngày giờ cụ thể), tại phòng trọ của chị A đang thuê trọ tại thôn H, xã V, huyện V (nay là thị xã V), tỉnh Bắc Giang; Lưu Quang S mặc dù biết rõ chị A chưa đủ 16 tuổi (lúc này chị A được hơn 14 tuổi) nhưng vẫn thực hiện hành vi giao cấu với chị A 01 lần. Hậu quả, chị A có thai, đến ngày 18/12/2022 thì sinh được con trai đặt tên là Nguyễn Văn H2. Kết quả xét nghiệm AND, thể hiện cháu H2 với S có quan hệ huyết thống cha - con, với chị A có quan hệ huyết thống mẹ - con.

Như vậy, hành vi của bị cáo Lưu Quang S đã đủ yếu tố cấu thành tội “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi ” quy định tại điểm d khoản 2 Điều 145 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Từ những nội dung trên, án sơ thẩm xét xử bị cáo Lưu Quang S về tội “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi ”, là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không oan sai.

[3] Xét nội dung kháng cáo của bị cáo Lưu Quang S thấy: Tại phiên tòa, bị cáo và người bị hại chỉ kháng cáo đề nghị giảm hình phạt và cho bị cáo được hưởng án treo nên các vấn đề khác của án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật, Hội đồng xét xử phúc thẩm không đặt ra giải quyết.

Xét về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị cáo Lưu Quang S thì thấy: Ấn sơ thẩm xác định bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng theo quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự, là có căn cứ.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Án sơ thẩm xác định trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; đã bồi thường thiệt hại cho bị hại và hàng tháng nuôi dưỡng, chăm sóc cho bị hại và con của bị hại; người bị hại có đơn xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, là có căn cứ.

Hành vi phạm tội của bị cáo Lưu Quang S là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền được bảo vệ về nhân phẩm, danh dự của trẻ em, xâm phạm đến sức khỏe và sự phát triển bình thường của trẻ em, làm mất trật tự trị an xã hội tại địa phương, do vậy cần phải xử lý nghiêm bị cáo bằng pháp luật hình sự mới đảm bảo tính giáo dục riêng và phòng ngừa chung. Ấn sơ thẩm đã xử phạt bị cáo Lưu Quang S mức hình phạt 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng tù là tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo.

Tại quá trình xét xử phúc thẩm, bị cáo Lưu Quang S và người bị hại chị Nguyễn Thị Hoài A không xuất trình được các tình tiết gì mới, xong xét thấy Quá trình điều tra vụ án, ngày 04/12/2023 bà Nguyễn Thị N là mẹ đẻ của Lưu Quang S cung cấp tài liệu cho Cơ quan điều tra thể hiện việc S bị khuyết tật trí tuệ và được hưởng trợ cấp hàng tháng của Nhà nước. Ngày 05/12/2023, Ủy ban nhân dân xã V, huyện V (nay là thị xã V) cung cấp cho Cơ quan điều tra: Bản sao Giấy xác nhận khuyết tật số 0240VYYT196 của Ủy ban nhân dân xã V cấp ngày 25/11/2013 cho Lưu Quang S (Dạng khuyết tật: Trí tuệ; mức độ khuyết tật: Nặng) cùng bản sao sổ lĩnh tiền trợ cấp xã hội của Lưu Quang S, thời gian nhận trợ cấp từ tháng 5/2018 đến nay) và bản sao hồ sơ xác nhận khuyết tật của S. Do vậy, bị cáo Lưu Quang S còn được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đó là “ Người phạm tội là người khuyết tật nặng...” theo quy định tại điểm p khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; Tòa sơ thẩm chưa áp dụng tình tiết giảm nhẹ này cho bị cáo.

Xét thấy: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Tại cấp phúc thẩm Hội đồng xét xử phúc thẩm áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo mà cấp sơ thẩm chưa áp dụng đó là “ Người phạm tội là người khuyết tật nặng...” theo quy định tại điểm p khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; hiện tại mẹ con chị Nguyễn Thị Hoài A đang chung sống cùng gia đình bị cáo. Do bị cáo là người khuyết tật nặng, điều kiện hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn, do vậy không cần thiết bắt bị cáo cách ly khỏi xã hội mà cho bị cáo được hưởng sự khoan hồng của pháp luật, Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo xin được hưởng án treo, không chấp nhận kháng cáo giảm nhẹ hình phạt của bị cáo và của người bị hại, giữ nguyên hình phạt của bản án sơ thẩm nhưng cho bị cáo được hưởng án treo cũng đủ điều kiện cải tạo giáo dục đối với bị cáo, như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên toà là có căn cứ.

[4] Về án phí hình sự phúc thẩm: Do kháng cáo của bị cáo Lưu Quang S và người bị hại chị Nguyễn Thị Hoài A được chấp nhận; mặt khác, bị cáo Lưu Quang S là người khuyết tật nặng, thuộc diện hộ nghèo, chị Nguyễn Thị Hoài A là vị thành niên nên được miễn nộp tiền án phí hình sự phúc thẩm theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

[5] Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; điểm e khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự.

1. Không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, chấp nhận kháng cáo xin được hưởng án treo của bị cáo Lưu Quang S và của người bị hại chị Nguyễn Thị Hoài A, sửa bản án sơ thẩm;

Căn cứ điểm d khoản 2 Điều 145; điểm b, điểm s, điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54, Điều 65 Bộ luật hình sự;

Xử phạt bị cáo Lưu Quang S 02 (Hai) năm 06 (S1) tháng từ về tội “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi”, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 05 năm kể từ ngày tuyên án phúc thẩm.

Giao bị cáo Lưu Quang S cho Ủy ban nhân dân xã V, thị xã V, tỉnh Bắc Giang, giám sát giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách.

Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì được thực hiện theo quy định tại khoản 3 Điều 92 Luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể Quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật hình sự năm 2015.

2. Án phí hình sự phúc thẩm: Miễn nộp tiền án phí hình sự phúc thẩm cho bị cáo Lưu Quang S và người bị hại chị Nguyễn Thị Hoài A.

3. Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

95
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi số 180/2024/HS-PT

Số hiệu:180/2024/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bắc Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/09/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: [email protected]
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;