Bản án 15/2023/HS-ST về tội giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂY HÒA, TỈNH PHÚ YÊN

BẢN ÁN 15/2023/HS-ST NGÀY 22/05/2023 VỀ TỘI GIAO CẤU VỚI NGƯỜI TỪ ĐỦ 13 TUỔI ĐẾN DƯỚI 16 TUỔI

Ngày 22 tháng 5 năm 2023, tại trụ sở TAND huyện T, xét xử kín vụ án hình sự thụ lý số: 07/2023/TLST-HS ngày 10 tháng 02 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 12/2023/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 02 năm 2023 đối với bị cáo:

Lê Văn T, sinh năm 2004, nơi sinh và nơi cư trú: Thôn T, xã H, huyện T, tỉnh Phú Yên. Nghề nghiệp: Thợ sơn; trình độ học vấn: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam. Con ông: Lê Văn T1, sinh năm 1978 và bà Lưu Kim T2, sinh năm 1989; có 01 chị và 01 em; Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo tại ngoại, có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

- Người bị hại: Tạ Thị Hồng L, sinh ngày 15/01/2009; Trú tại: Khu phố M, thị trấn P, huyện T, tỉnh Phú Yên. Có mặt.

Người đại diện hợp pháp cho bị hại: Bà Lê Thị Hồng L, sinh năm 1982; Trú tại: Khu phố M, thị trấn P, huyện T, tỉnh Phú Yên, là mẹ của cháu L. Có mặt.

Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho bị hại: Bà Nguyễn Thị Khánh D – Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Phú Yên. Có đơn xin vắng mặt.

- Người làm chứng:

Cao Bùi Hồng N, sinh năm 2009; trú tại: Khu phố M, thị trấn P, huyện T, tỉnh Phú Yên. Người giám hộ: Ông Bùi Hạnh, sinh năm 1941; Trú tại: Khu phố M, thị trấn P, huyện T, tỉnh Phú Yên, là ông ngoại của cháu N. Vắng mặt.

Lê Thị Kim N, sinh năm 2009; trú tại: Thôn T, xã H, huyện T, tỉnh Phú Yên.

Người giám hộ: Bà Lưu Kim T2, sinh năm 1989; Trú tại: Thôn T, xã H, huyện T, tỉnh Phú Yên, là mợ của cháu N. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng tháng 9/2022, Lê Văn T và Tạ Thị Hồng L quen biết nhau qua mạng xã hội Facebook, sau đó T và L thường gặp nhau và nảy sinh tình cảm nam nữ. Sáng ngày 22/9/2022, L cùng với bạn Cao Thị Hồng N đến nhà T chơi. Đến khoảng 9h00 cùng ngày, N ngồi phòng khách xem tivi còn L đi vào phòng ngủ của T nằm trên giường bấm điện thoại. Thấy vậy T nảy sinh ý định giao cấu với L nên đi vào phòng dóng kín cửa, T đi đến chỗ L nằm, hôn vào mặt, cổ của L, T nói muốn quan hệ tình dục với L thì L đồng ý. L nằm ngửa trên giường, T dùng tay cởi quần của L ra khỏi hai chân rồi T tự kéo quần của T xuống. Lúc này dương vật của T đã cương cứng, T lấy bao cao sư bao và dương vật rồi nằm úp lên người của L, T cầm dương vật đút vào âm hộ của L để giao cấu khoảng 10 phút thì T rút dương vật ra khỏi âm hộ. Giao cấu xong, T và L tự mặc quần vào rồi đi ra khỏi phòng. Về nhà, mẹ ruột của L (bà Lê Thị Hồng L) thấy L có biểu hiện lạ nên hỏi thì L kể lại sự việc L vàT thực hiện hành vi giao cấu nên bà L báo cáo cơ quan Công an.

Tại Bản kết luận giám định pháp y đối với trẻ em bị hoặc nghi bị xâm hại tình dục số 353/2022/TDTE ngày 07/10/2022 của Trung tâm pháp y tỉnh Phú Yên kết luận: Chưa phát hiện Tạ Thị Hồng L bị tổn thương bộ phận sinh dục, chưa phát hiện rách màng trinh, màng trinh giãn rộng. Xét nghiệm tinh trùng không thấy xác tinh trùng trên tiêu bản nhuộm Giêmsa.

Tại Công văn số 82/2022/CVGĐ ngày 08/11/2022 của Trung tâm pháp y tỉnh Phú Yên trả lời: Màng trinh của Tạ Thị Hồng L thuộc loại màng trinh có độ đàn hồi co giãn, với loại này thường khó gây rách hơn các loại màng trinh khác khi có giao hợp vì độ co giãn của màng trinh.

Về vật chứng, đồ vật tạm giữ: 01 quần jean, 01 quần vải, 02 áo.

Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo đã tự nguyện bồi thường danh dự và tổn thất tinh thần cho bị hại số tiền 10.000.000 đồng, bị hại không có yêu cầu bồi thường gì thêm.

Tại Bản cáo trạng số 09/CT-VKSTH ngày 03 tháng 02 năm 2023 của VKSND huyện T đã truy tố bị cáo Lê VănT về tội “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi” theo khoản 1 Điều 145 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

Bị hại không yêu cầu bồi thường gì thêm và xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo mức thấp nhất vì bị cáo hiện nay đang bị bệnh.

Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa sau khi phân tích tính chất, mức độ hành vi phạm tội, tình tiết định khung hình phạt, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, giữ nguyên cáo trạng, đề nghị HĐXX áp dụng: Khoản 1 Điều 145, điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51, 65 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo từ 12 đến 15 tháng tù, cho hưởng án treo. Thời gian thử thách từ 24 đến 30 tháng tù. Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã H giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy vì không còn giá trị sử dụng. Về trách nhiệm dân sự: Bị hại không có yêu cầu bồi thường gì nên không xét. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra huyện T, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện T, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, không có ai khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, Người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, Người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định pháp luật.

[2] Bị cáo, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Xét thấy quá trình điều tra, cơ quan điều tra, viện kiểm sát đã lấy lời khai, hỏi cung đầy đủ, hiện nay bị cáo đang bệnh nặng do đó HĐXX chấp nhận xét xử vắng mặt.

[3] Theo các tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ, bị cáo Lê Văn T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, như nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố bị cáo là đúng, không oan, đủ cơ sở kết luận: Khoảng 09h00 ngày 22/9/2022, tại thôn T, xã H, huyện T, Lê Văn T đã có hành vi giao cấu với sự đồng ý của Tạ Thị Hồng L mới 13 tuổi 08 tháng, như Cáo trạng VKSND huyện T truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật.

[4] Bị cáo T là người đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền được bảo vệ nhân phầm, danh dự; xâm phạm đến sức khỏe, sự phát triển về thể chất và tinh thần của bị hại. Việc giao cấu tuy có sự đồng ý của bị hại, nhưng tại thời điểm bị cáo giao cấu thì bị hại mới chỉ 13 tuổi 08 tháng nên khả năng nhận thức còn nhiều hạn chế nên cần phải áp dụng mức hình phạt nghiêm đối với bị cáo mới đủ tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[5] Tuy nhiên, khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo và bị hại đã có tình cảm với nhau từ trước và tự nguyện thực hiện hành vi giao cấu; quá trình điều tra, truy tố, bị cáo đã thành khẩn khai, báo ăn năn hối cải; bị cáo đã tự nguyện bồi thường cho bị hại với số tiền 10.000.000đ và được đại diện của bị hại làm đơn miễn trách nhiệm hình sự đây là tình tiết giảm nhẹ đặc biệt. Tại phiên tòa, mẹ bị cáo trình bày hiện nay bị cáo vừa bị tai nạn giao thông, không đi lại được; gia đình bị hại và bị hại đề nghị HĐXX xử mức hình phạt thấp nhất và cho bị cáo hưởng án treo.

Xét thấy, bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51 BLHS, có nơi cư trú rõ ràng, việc không bắt bị cáo phải cách ly xã hội không ảnh hưởng đến phòng chống tội phạm, ngoài ra thể hiện tính khoan hồng của pháp luật nên áp dụng Điều 65 BLHS cho bị cáo được hưởng án treo cũng đủ tác dụng giáo dục, tương xứng với tính chất, mức độ, hành vi tội phạm do bị cáo gây ra.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo đã tự nguyện bồi thường danh dự và tổn thất tinh thần cho bị hại số tiền 10.000.000đồng, bị hại không có yêu cầu bồi thường gì thêm nên HĐXX không xét.

[7] Về vật chứng, đồ vật tạm giữ: Đối với 01 quần jean, 01 quần vải, 02 áo không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Lê Văn T phạm tội “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi”.

Áp dụng khoản 1 Điều 145; điểm b,s khoản 1, 2 Điều 51, 65 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Lê Văn T 12 (mười hai) tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 24 (hai mươi bốn) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo Lê Văn T cho Ủy ban nhân dân xã H, huyện T, tỉnh Phú Yên giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáoT có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo. Khi bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của Luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, nếu bị cáo Lê Văn T cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc bị cáoT phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

2. Về vật chứng, dồ vật tạm giữ: Áp dụng Điều 106, 107 Bộ luật tố tụng Hình sự : Tịch thu tiêu hủy 01 áo vải ngắn tay màu đen hiệu N&M Jeans dài 67 cm; 01 quần vải màu đen hiệu RuiSha dài 86cm; 01 quần dài jean hiệu Collection màu xám, dài 93cm, 01 áo vải thun, cổ tròn, ngắn tay hiệu Cabaloo (Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 06/02/2023 giữa Cơ quan CSĐT và Chi cục Thi hành án dân sự huyện T, tỉnh Phú Yên).

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 BLTTHS, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội, buộc bị cáo Lê Văn T phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Bị hại được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

19
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 15/2023/HS-ST về tội giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi

Số hiệu:15/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Tuy Hòa - Phú Yên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/05/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;