TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN AN DƯƠNG, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
BẢN ÁN 135/2023/HS-ST NGÀY 19/12/2023 VỀ TỘI GIAO CẤU VỚI NGƯỜI TỪ ĐỦ 13 TUỔI ĐẾN DƯỚI 16 TUỔI
Ngày 19 tháng 12 năm 2023 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện A, thành phố H xét xử sơ thẩm kín vụ án hình sự thụ lý số 140/2023/TLST- HS ngày 24/11/2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 131/2023/QĐXXST- HS ngày 06/12/2023 đối với bị cáo:
Nguyễn Văn H sinh ngày 21/3/2005 (thời điểm phạm tội được 18 tuổi 01 tháng 09 ngày) tại H. Nơi cư trú hiện nay: Thôn Đ, xã H, huyện A, thành phố H; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn H và bà Nguyễn Thị H; chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: không; nhân thân: bị Công an huyện A khởi tố về tội Gây rối trật tự công cộng xảy ra ngày 05/3/2022; bị tạm giữ từ ngày 06/9/2023 đến ngày 07/9/2023 chuyển tạm giam trong vụ án Gây rối trật tự công cộng; có mặt.
- Bị hại: Cháu Nguyễn Thị Ánh D sinh ngày 11/11/2009; nơi cư trú: Số 121 H, phường Đ, quận H, TP H; vắng mặt.
- Người đại diện hợp pháp của bị hại: Bà Trần Thị T sinh năm 1984; địa chỉ: Số 121 H, phường Đ, quận H, thành phố H; vắng mặt (có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt).
- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại: Bà Lương Thị Ty - Trợ giúp viên pháp lý - Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước thành phố H; có mặt.
- Đại diện Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh phường Đông Hải 1, quận Hải An, thành phố H; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng tháng 3/2023, qua mạng xã hội facebook Nguyễn Văn H có quen biết với cháu Nguyễn Thị Ánh D, sinh ngày 11/11/2009 (đến ngày phạm tội là 13 tuổi 05 tháng 19 ngày), trú tại số 121 đường H, phường Đ, quận H, thành phố H. Sau đó, H và cháu D nảy sinh tình cảm, nhiều lần đi chơi cùng nhau. Ngày 28/4/2023, cháu D nhắn tin hẹn H sáng ngày 29/4/2023 qua nhà đón cháu D đi chơi, H đồng ý. Khoảng 09 giờ 30 phút ngày 29/4/2023, H điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 16K7-4643 từ nhà đi đến nhà cháu D đón và chở cháu Dương về nhà H.
Sau đó, H đưa cháu D đi chơi. Khoảng 23 giờ 30 phút ngày 29/4/2023, H đưa cháu D về nhà H ngồi chơi tại phòng khách. Khoảng 01 giờ ngày 30/4/2023, H nói với cháu D “làm nháy không”, tức rủ cháu D quan hệ tình dục, thì cháu D gật đầu đồng ý. H đứng dậy đi xuống phòng ngủ phía dưới thì cháu D đi theo sau. Khi vào trong phòng, H chốt cửa phòng rồi nằm trên giường cùng cháu D. H dùng tay cởi quần cháu D và tự cởi quần của mình ra rồi cho dương vật của mình vào âm đạo của cháu D, thực hiện hành vi giao cấu với cháu D. Quá trình giao cấu với cháu D, H có dùng răng cắn vào vùng cổ của cháu D. Giao cấu được khoảng 15 phút, H rút dương vật ra khỏi âm đạo của cháu D rồi xuất tinh lên đùi cháu D. Sau đó, H và cháu D đi ra ngoài phòng khách nằm ngủ. Ngày 01/5/2023, bà Trần Thị T là mẹ đẻ của cháu D không thấy cháu D về nên có đơn trình báo gửi cơ quan Công an huyện A.
Quá trình điều tra, cơ quan điều tra đã thu giữ: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6s, kiểm tra điện thoại có tin nhắn cháu D rủ H đón đi chơi; 01 áo phông cộc tay màu đen; 01 quần sóoc vải màu đen; 01 quần sịp màu xanh của H giao nộp. Cháu Nguyễn Thị Ánh D giao nộp 01 quần đùi vải màu đen, 01 áo phông ngắn tay màu đen, 01 áo ngực màu trắng, 01 quần lót màu trắng.
Kết luận giám định xâm hại tình dục ở trẻ em số 263/KLTDTE-TTPYHP ngày 09/5/2023 của Trung tâm pháp y H kết luận: Cháu Nguyễn Thị Ánh D có 02 vết bầm tím vùng trước cổ có đặc điểm do tác động tương hỗ trực tiếp với vật tày gây nên. Màng trinh bị rách cũ. Không có dấu vết thương tích trong và ngoài bộ phận sinh dục của nạn nhân. Không tìm thấy hình ảnh xác tinh trùng trên mẫu xét nghiệm phiến đồ nhuộm soi xác tinh trùng. Hiện tại nạn nhân không có thai.
Về vật chứng vụ án gồm: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6s, 01 áo phông cộc tay màu đen, 01 quần sóoc vải màu đen, 01 quần sịp màu xanh của Nguyễn Văn H; 01 quần đùi vải màu đen, 01 áo phông ngắn tay màu đen, 01 áo ngực màu trắng, 01 quần lót màu trắng của cháu Nguyễn Thị Ánh D, chuyển đến Chi cục Thi hành án dân sự huyện A quản lý.
Về dân sự: Quá trình điều tra Nguyễn Văn H đã tác động đến gia đình bồi thường cho cháu D 50.000.000 đồng. Gia đình cháu D không có yêu cầu, đề nghị gì khác và có đơn xin miễn, giảm trách nhiệm hình sự cho H.
Tại phiên tòa bị cáo trình bày thống nhất về hành vi như đã nêu trên; đồng ý với Kết luận giám định xâm hại tình dục, không có ý kiến hay khiếu nại gì.
Cáo trạng số 142/2023/CT-VKS ngày 24/11/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện A truy tố bị cáo Nguyễn Văn H về tội Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi theo khoản 1 Điều 145 Bộ luật Hình sự (BLHS). Đại diện Viện Kiểm sát đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 145, Điều 38; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của BLHS xử phạt bị cáo từ 18 đến 24 tháng tù; miễn hình phạt bổ sung; trả lại cho bị cáo điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6s; tịch thu tiểu hủy 01 áo phông cộc tay màu đen, 01 quần sóoc vải màu đen, 01 quần sịp màu xanh; 01 quần đùi vải màu đen, 01 áo phông ngắn tay màu đen, 01 áo ngực màu trắng, 01 quần lót màu trắng. Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại phát biểu quan điểm: Đồng ý với quan điểm của đại diện Viện Kiểm sát phát biểu tại phiên tòa; bị hại không có nguyện vọng nhận là tài sản đã bị Công an thu giữ khi lập biên bản hiện trường. Đề nghị Hội đồng xét xử kiến nghị chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện A chỉ đạo Ủy ban nhân dân xã Hồng Phong và các xã, trường học trên địa bàn huyện A thực hiện việc tuyên truyền để bảo vệ quyền lợi cho trẻ em tránh hậu quả tương tự xảy ra.
Nói lời sau cùng bị cáo nhận thức rõ hành vi phạm tội, hậu quả của tội phạm đã thực hiện; mong nhận được sự khoan hồng của pháp luật và giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định trong quá trình tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện A và Điều tra viên, của Viện kiểm sát nhân dân huyện A và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo và những người khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về những chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định không có tội: Hồi 01 giờ ngày 30/4/2023, tại nhà ở của Nguyễn Văn H; Nguyễn Văn H đã có hành vi giao cấu với cháu D, khi cháu D đã đủ 13 tuổi nhưng dưới 16 tuổi là phạm tội Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi vi phạm quy định tại khoản 1 Điều 145 của BLHS. Các chứng cứ xác định bị cáo không có tội được loại trừ.
[3] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Hành vi phạm tội của bị cáo gây ảnh hưởng đến thể chất, sự phát triển bình thường và tinh thần của người khác được pháp luật bảo vệ. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; bị cáo thành khẩn khai báo, đã tác động đến gia đình để bồi thường cho bị hại được người đại diện của bị hại xin miễn, giảm trách nhiệm hình sự nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại các điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của BLHS.
[4] Về hình phạt: Với phân tích trên cần xử bị cáo mức án khởi điểm như đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát là phù hợp.
[5] Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung quy định tại khoản 4 Điều 145 của BLHS đối với bị cáo.
[6] Về vật chứng vụ án gồm: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6s không liên quan đến thực hiện hành vi phạm tội cần trả lại cho bị cáo sử dụng; 01 áo phông cộc tay màu đen, 01 quần sóoc vải màu đen, 01 quần sịp màu xanh thu giữ của bị cáo; 01 quần đùi vải màu đen, 01 áo phông ngắn tay màu đen, 01 áo ngực màu trắng, 01 quần lót màu trắng thu giữ của bị hại; do bị cáo và bị hại không có nhu cầu nhận lại nên tịch thu tiêu hủy.
[7] Về dân sự: Đã được giải quyết xong, bị hại và người đại diện hợp pháp không có yêu cầu bồi thường thêm khoản nào khác nên không xét giải quyết.
[8] Về những vấn đề khác: Vụ án này không có dấu hiệu của việc bỏ lọt tội phạm hoặc hành vi phạm tội mới nên Hội đồng xét xử không phân tích chứng cứ để xem xét việc khởi tố vụ án hay yêu cầu Viện Kiểm sát khởi tố vụ án hình sự. Đối với kiến nghị của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại: Hiện nay công tác tuyên truyền giáo dục, phổ biến pháp luật liên quan đến xâm hại tình dục đã và đang được tuyên truyền sâu rộng trên mọi phương diện vì vậy không cần thiết phải kiến nghị nội dung này trong bản án.
[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.
[10] Về quyền kháng cáo: Bị cáo; người đại diện và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 145; Điều 38; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; xử phạt: Nguyễn Văn H 18 (Mười tám) tháng tù về tội “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi”. Thời hạn hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ là ngày 06/9/2023.
Về vật chứng: Trả lại cho bị cáo 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6s; tịch thu tiêu hủy 01 áo phông cộc tay màu đen, 01 quần sóoc vải màu đen, 01 quần sịp màu xanh thu giữ của bị cáo; 01 quần đùi vải màu đen, 01 áo phông ngắn tay màu đen, 01 áo ngực màu trắng, 01 quần lót màu trắng (Chi tiết tại Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 11/12/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện A).
Về án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án; bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại có quyền kháng cáo trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày tuyên án. Người đại diện hợp pháp cho bị hại có quyền kháng cáo trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Bản án 135/2023/HS-ST về tội giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi
Số hiệu: | 135/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện An Dương - Hải Phòng |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 19/12/2023 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về