Bản án 115/2023/HS-ST về tội giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HH - TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 115/2023/HS-ST NGÀY 25/12/2023 VỀ TỘI GIAO CẤU VỚI NGƯỜI TỪ ĐỦ 13 TUỔI ĐẾN DƯỚI 16 TUỔI

Ngày 25 tháng 12 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện HH, tỉnh Bắc Giang xét xử sơ thẩm kín vụ án hình sự thụ lý số 115/2023/TLST-HS ngày 01 tháng 12 năm 2023; Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 112/2023/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 12 năm 2023 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Văn Hữu L; Sinh ngày 19/10/1994; Giới tính: Nam Tên gọi khác: Không;

Nơi cư trú: thôn Dinh Đồng, xã Thường Th, huyện HH, tỉnh Bắc Giang. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không Nghề nghiệp: Làm ruộng; Chức vụ: Không; Trình độ học vấn: 09/12 Họ và tên cha: Văn Hữu L- sinh năm 1970 Họ và tên mẹ: Nguyễn Thị M- sinh năm 1975 Vợ: Ngô Thị H- sinh năm 2000 Con: Bị cáo có 03 con (con lớn sinh năm 2020, con nhỏ sinh năm 2021) Anh, chị em ruột: Gia đình có 03 chị em, bị cáo là con thứ 2 Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 28/8/2023 đến nay. Hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện HH (có mặt).

2.Họ và tên: Nguyễn Duy H; sinh ngày 18/10/1996; Giới tính: Nam Tên gọi khác: Không Nơi cư trú: thôn Khúc Bánh, xã Thường Th, huyện HH, tỉnh Bắc Giang. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không Nghề nghiệp: Làm ruộng; Chức vụ: Không; Trình độ học vấn: 8/12 Họ và tên cha: Nguyễn Văn B - sinh năm 1976 Họ và tên mẹ: Nguyễn Thị B - sinh năm 1975 Vợ: Nguyễn Thị T - sinh năm 2000 (đã ly hôn) Con: Bị cáo có 02 con (con lớn sinh năm 2015, con nhỏ sinh năm 2017) Anh, chị em ruột: Gia đình có 02 anh em, bị cáo là con thứ nhất Tiền án, tiền sự: Không Bị cáo không bị tạm giữ, tạm giam. Hiện đang được áp dụng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú ( Có mặt).

3./ Bị hại: chị Nguyễn Thị Th- Sinh ngày 12/3/2000 (Có đơn xin vắng mặt) Cư trú: thôn Chớp, xã Lương Ph, huyện HH, tỉnh Bắc Giang

4. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan; Chị Ngô Thị H- sinh năm 2000 (Có mặt); Ông Văn Hữu L- sinh năm 1970 (Có mặt);

Nơi cư trú đều ở: thôn Dinh Đồng, xã Thường Th, huyện HH, tỉnh Bắc Giang.

5./ Người làm chứng:

Bà Nguyễn Thị B- Sinh năm 1975 (Có mặt);

Nơi cư trú: thôn Khúc Bánh, xã Thường Th, huyện HH, tỉnh Bắc Giang;

Anh Đình Văn H- Sinh năm 1990 (Vắng mặt);

Nơi cư trú: thôn Khúc Bánh, xã Thường Th, huyện HH, tỉnh Bắc Giang;

Bà Nguyễn Thị Tt- Sinh năm 1980 (Vắng mặt).

Nơi cư trú: thôn Trung Hòa, xã Mai Tr, huyện HH, tỉnh Bắc Giang;

Anh Nguyễn Văn Th- Sinh năm 1977(Vắng mặt).

Nơi cư trú: thôn Trung Hòa, xã Mai Tr, huyện HH, tỉnh Bắc Giang;

Anh Trần Văn C- Sinh năm 1997 (Vắng mặt).

Nơi cư trú: thôn Dinh Đồng, xã Thường Th, huyện HH, tỉnh Bắc Giang;

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Văn Hữu L, sinh ngày 19/10/1994;Trần Văn C, sinh ngày 25/4/1997 đều trú tại: thôn Dinh Đồng, xã Thường Th, huyện Hiệp Hoà, tỉnh Bắc Giang và Nguyễn Duy H, sinh ngày 18/10/1996 trú tại: thôn Khúc Bánh, xã Thường Th, huyện HH, tỉnh Bắc Giang có quan hệ quen biết, chơi với nhau. Mùa hè năm 2014, C xin được số điện thoại của chị Nguyễn Thị T, sinh ngày 12/3/2000 trú tại: thôn Trung Hoà, xã Mai Trung, huyện HH, tỉnh Bắc Giang – chỗ ở: thôn Chớp, xã Lương Phong, huyện HH, tỉnh Bắc Giang. C và chị T nhắn tin, gọi điện nói chuyện với nhau. Sau khi quen chị T khoảng 03 đến 04 ngày, C hẹn gặp chị T vào buổi trưa và đưa chị T về nhà ông Trần Văn Tân, sinh năm 1951 (là ông nội của C) ở cùng thôn Dinh Đồng, xã Thường Th, huyện HH (theo C khai, tại nhà ông nội của C không có ai ở nhà, C và chị T đã quan hệ tình dục với nhau. Sau đó C và chị T không liên lạc với nhau). Một thời gian sau, C gặp Văn Hữu L được L hỏi xem có ai giới thiệu cho mình, C đã cho L số điện thoại của chị T. Sau đó, L đã nhắn tin, gọi điện làm quen với chị T. Khoảng 1 tuần sau khi quen T (buổi chiều mùa hè, khoảng tháng 7 năm 2014), L rủ chị T đi chơi được T đồng ý, L đón chị T và đưa vào nhà Nghỉ Huyền Anh ở phố Mới, thôn Trung Thành, xã Hùng Sơn thuê phòng 201. Sau khi vào phòng thì L tự cởi quần áo của L, chị T tự cởi quần áo của chị T. L và chị T nằm ở trên giường của phòng nghỉ, L cho dương vật vào âm hộ của chị T và có quan hệ tình dục với chị T khoảng 30 phút thì xuất tinh vào âm hộ của chị T, sau đó L đưa chị T về nhà. Sau lần quan hệ tình dục với chị T thì L lấy lý do phải đi bộ đội nên chia tay, không liên lạc với chị T.

Trần Văn C tiếp tục cho Nguyễn Duy H số điện thoại của chị T, H nhắn tin, gọi điện làm quen. Sau khi làm quen với chị T khoảng 1 tuần thì H hẹn gặp chị T được T đồng ý (vào buổi trưa khoảng tháng 7 năm 2014), H từ Bắc Ninh về gặp chị T và rủ chị T vào nhà nghỉ Huyền Anh thuê phòng 203. Tại đây H và T có quan hệ tình dục với nhau. Sau khi quan hệ tình dục với chị T, H đi làm thỉnh thoảng mới nhắn tin, gọi điện trò chuyện với T. Đến ngày 12/11/2014 âm lịch (tức ngày 02/01/2015 dương lịch), gia đình chị T phát hiện chị T có thai, chị T nói là con của H, lúc này bà Nguyễn Thị T2, sinh năm 1980 (là mẹ của chị T) gọi điện thoại hỏi H và thông báo cho H về việc T có thai, H gọi điện về cho mẹ đẻ là bà Nguyễn Thị B1 và H xin mẹ cho cưới T. Buổi trưa cùng ngày H về nhà và được bà B1 và anh Đinh Văn H3, sinh năm 1990 là chú họ của H cùng H lên nói chuyện với gia đình chị T. Đến tối cùng ngày, chị T cùng gia đình đến nhà H thăm nhà và nói chuyện. Hai gia đình thống nhất đến ngày 26/11/2014 âm lịch (tức ngày 16/01/2015 dương lịch) sẽ đón dâu lấy ngày, đến ngày 04/12/2014 âm lịch (tức ngày 23/01/2015 dương lịch) sẽ tổ chức đám cưới cho H và T. Sau khi thống nhất giữa hai gia đình, ngày 16/01/2015 gia đình H tổ chức đón chị T về làm dâu, sau đó chị T lại về nhà mẹ đẻ. Trong quá trình chuẩn bị để cưới gia đình H phát hiện T chưa đủ tuổi để kết hôn nên đã không tổ chức cưới. Đến ngày 23/01/2015, gia đình nhà chị T tổ chức cưới. Khoảng 20 giờ cùng ngày, H đưa chị T về nhà H, khoảng 21 giờ H và chị T vào ngủ tại phòng ngủ của gia đình H, khi vào phòng ngủ thì H tự cởi quần áo của H, chị T tự cởi quần áo của chị T, sau đó H và chị T nằm ôm, hôn nhau khoảng 10 phút, lúc này chị T nằm ngửa, H nằm lên trên chị T, H cho dương vật của mình vào âm hộ của chị T và quan hệ tình dục khoảng 15 phút thì H xuất tinh vào âm hộ của chị T. Sau đó H và chị T nằm ngủ.

Đến ngày 19/4/2015, chị T sinh con và đặt tên là Nguyễn Thị Phương A. Sau khi chị T đủ 16 tuổi H lại tiếp tục quan hệ tình dục với chị T và đến ngày 06/01/2017, chị T sinh con thứ hai đặt tên là Nguyễn Thị Trà M. Ngày 06/4/2018, chị T và H đến UBND xã Thường Th đăng ký kết hôn cùng nhau chung sống đến ngày 13/02/2023, chị T có đơn gửi Toà án nhân dân huyện Hiệp Hoà xin ly hôn với H. Quá trình giải quyết vụ ly hôn, ngày 10/5/2023, Toà án nhân dân huyện Hiệp Hoà chuyển tin báo đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hiệp Hoà để điều tra, xác minh.

Cơ quan Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện HH ra Quyết định trưng cầu Viện pháp y Quốc gia giám định ADN xác định mối quan hệ huyết thống giữa Nguyễn Duy H, Nguyễn Thị T đối với hai cháu Nguyễn Thị Phương A và Nguyễn Thị Trà M.

Tại bản kết luận giám định số: 319/23/KLGĐADN-PYQG ngày 01/6/2023 của Viện pháp y quốc gia, kết luận: Chị Nguyễn Thị T có quan hệ huyết thống mẹ - con với cháu Nguyễn Thị Phương A, độ tin cậy 99,9999%; Chị Nguyễn Thị T có quan hệ huyết thống mẹ - con với cháu Nguyễn Thị Trà M, độ tin cậy 99,9999%; Anh Nguyễn Duy H không có quan hệ huyết thống cha - con với cháu Nguyễn Thị Phương A; Anh Nguyễn Duy H có quan hệ huyết thống cha - con với cháu Nguyễn Thị Trà M, độ tin cậy 99,9999% (BL 38-45).

Ngày 16/8/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện HH ra Quyết định trưng cầu Viện pháp y Quốc gia giám định ADN xác định mối quan hệ huyết thống cha- con giữa Văn Hữu L với cháu Nguyễn Thị Phương A.

Tại bản kết luận giám định số: 471/23/KLGĐADN-PYQG ngày 18/8/2023 của Viện pháp y quốc gia, kết luận: Văn Hữu L có quan hệ huyết thống cha - con với Nguyễn Thị Phương A, độ tin cậy 99,9999%.(BL 49-54).

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện HH đã cho H thực nghiệm hành vi quan hệ tình dục với chị T tối ngày 23/01/2015 tại phòng ngủ của H. Kết quả H thực nghiệm lại hành vi phù hợp với lời khai của H, lời khai chị T và các chứng cứ khác (BL 212-218).

Tại Bản cáo trạng số 116/CT-VKS ngày 30 tháng 11 năm 2023, Viện kiểm sát nhân dân huyện HH, tỉnh Bắc Giang đã truy tố đối với bị cáo truy tố Văn Hữu L phạm tội “ Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi”.Theo điểm d khoản 2 Điều 145 BLHS và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Duy H phạm tội “ Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi”.Theo khoản 1 Điều 145 Bộ luật hình sự Tại phiên Toà hôm nay, bị cáo L; Bị cáo H thừa nhận toàn bộ nội dung và diễn biến hành vi phạm tội của các bị cáo như bản cáo trạng mà Viện kiểm sát nhân dân huyện Hiệp Hoà đã truy tố.

Đại diện Viện kiểm sát huyện Hiệp Hoà trước phiên toà hôm nay vẫn giữ nguyên quan điểm như bản cáo trạng đã truy tố. Sau khi đánh giá nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Văn Hữu L phạm tội “ Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi”.Theo điểm d khoản 2 Điều 145 BLHS.

Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Duy H phạm tội “ Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi”.Theo khoản 1 Điều 145 BLHS.

* Về trách nhiệm hình sự:

Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 145; điểm b,s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật Hình sự:

Căn cứ Điều 328 BLTTHS.

Xử phạt: bị cáo Văn Hữu L 03 năm tù về tội “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi”. Nhưng cho hưởng án treo thời gian thử thách là 05 năm tính từ ngày tuyên án sơ thẩm; Trả tự do cho bị cáo tại phiên tòa.

Áp dụng khoản 1 Điều 145; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật Hình sự:

Xử phạt: bị cáo Nguyễn Duy H 12 tháng tù về tội “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi”. Nhưng cho hưởng án treo; thời gian thử thách là 24 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo L; bị cáo H cho UBND xã Thường Th giám sát trong thời gian thử thách.

Đề nghị tuyên về án phí; Quyền kháng cáo Bị cáo Văn Hữu L không tranh luận và không kêu oan.

Bị cáo Nguyễn Duy H không tranh luận và không kêu oan.

Các bị cáo nói lời nói sau cùng:

Bị cáo L qua sự việc vi phạm cảm thấy rất ăn năn, hối cải xin hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng án treo để bị cáo được về nhà đón con Nguyễn Thị Phương A về nuôi dưỡng, hiện nay cháu không được bố mẹ, chăm sóc, nuôi dưỡng.

Bị cáo H: Qua sự việc vi phạm cảm thấy rất ăn năn, hối cải xin hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng án treo để bị cáo được ở nhà chăm sóc con nhỏ, bố bị tàn tật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà. Căn cứ vào kết quả tranh tụng, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác, nhận thấy:

[1] Về tố tụng:

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện HH, Viện kiểm sát nhân dân huyện HH, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không ai có ý kiến hoặc khiếu nại gì. Do vậy, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng là hợp pháp.

[2]. Về sự vắng mặt của bị hại đã được Tòa án triệu tập hợp lệ, có đơn xin được xét xử vắng mặt; Vắng mặt người làm chứng, tuy nhiên đã có đầy đủ lời khai của họ trong hồ sơ nên Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt là phù hợp theo quy định tại Điều 292; Điều 293 Bộ luật tố tụng hình sự 2015.

[3]: Tại phiên toà hôm nay bị cáo Văn Hữu L; Bị cáo Nguyễn Duy H có mặt tại phiên tòa đã hoàn toàn khai nhận rõ hành vi phạm tội của mình như Cáo trạng đã nêu. Lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp với hành vi phạm tội, kết luận giám định, lời khai của bị hại, người làm chứng và các tài liệu khác do Cơ quan điều tra thu thập, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận:

Khoảng giữa tháng 7 năm 2014, tại phòng 201 nhà nghỉ Huyền Anh ở phố Mới, thôn Trung Thành, xã Hùng Sơn, huyện HH; Văn Hữu L đã thực hiện hành hành vi giao cấu với cháu Nguyễn Thị T, sinh ngày 12/3/2000. Hậu quả làm cháu T có thai đến ngày 19/4/2015 cháu T sinh con đặt tên là Nguyễn Thị Phương A.

Ngày 23/01/2015, tại phòng ngủ của gia đình mình, Nguyễn Duy H, đã thực hiện hành vi giao cấu với cháu Nguyễn Thị T, sinh ngày 12/3/2000.

[4]: Về động cơ, mục đích phạm tội của các bị cáo:

Xuất phát từ tình cảm yêu đương nam nữ và nhằm thỏa mãn tình cảm và sự ham muốn về tình dục của bản thân mà các bị cáo nhất thời đã vi phạm pháp luật. Do vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện HH đề nghị truy tố Văn Hữu L phạm tội “ Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi”.Theo điểm d khoản 2 Điều 145 BLHS và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Duy H phạm tội “ Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi”.Theo khoản 1 Điều 145 Bộ luật hình sự là hoàn toàn có căn cứ đúng người, đúng tội.

[5]: Xét về tính chất; hành vi phạm tội của các bị cáo:

Hành vi phạm tội của các bị cáo đều là nhất thời vi phạm pháp luật, xuất phát từ tình cảm yêu đương nam nữ, các bị cáo đều còn trẻ tuổi, sự việc sảy ra từ năm 2014, bản thân các bị cáo thông qua nhắn tin, tìm hiểu đối với bị hại cũng không biết bị hại dưới 16 tuổi.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền được bảo vệ nhân phẩm, danh dự của trẻ em, ảnh hưởng đến sức khỏe và sự phát triển B1 thường của trẻ em.

[6]. Xét về nhân thân; Các tình tiết tăng nặng; giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Đối với bị cáo L: Bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự. Bản thân bị cáo đã tham gia nghĩa vụ quân sự và đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, sau khi phạm tội bị cáo tác động với gia đình bồi thường khắc phục hậu quả cho bị hại số tiền 25.000.000đ. Bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, đó là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b,s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Bản thân bị cáo sau khi đi nghĩa vụ quan sự về địa phương, tích cực tham gia lao động sản suất kinh doanh ở tại địa phương được hội nông dân tỉnh Bắc Giang chứng nhận đạt danh hiệu sản suất kinh doanh giỏi cấp tỉnh giải đoạn 2015- 2016. Do bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân tốt, gia đình bị hại đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo đó là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự bị cáo được hưởng, nên cần thiết giảm nhẹ cho bị cáo khi lượng hình.

Đối với bị cáo H: Bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, đó là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Bố đẻ bị cáo bị tật nguyền, không có khả năng lao động; Bị cáo một mình đang nuôi con nhỏ (do vợ đã ly hôn) điệu kiện gia đình khó khăn.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Từ những nhận định phân tích nếu trên HĐXX nhận thấy:

Đối với bị cáo L: Nhất thời phạm tội, do xuất phát từ tình cảm yêu đương nam nữ, bản thân bị cáo khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo không biết bị hại dưới 16 thuổi, sự việc đã xảy ra từ năm 2014, sau khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo đi nghĩa vụ quân sự, đã cắt đứt liên hệ với bị hại, bị cáo không biết, việc bị cáo quan hệ tình dục với bị hại làm chị T mang thai, bản thân bị hại và gia đình bị hại cũng chưa bao giờ liên hệ hay ý kiến gì đối với bị cáo và gia đình.

Bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, có hai tình tiết giảm nhẹ theo quy đình tại khoản 1 Điều 51 bộ luật hình sự; có ba tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị hại có đơn xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo.

Bị cáo có nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng, là công dân gương mẫu trong hoạt động kinh doanh, sản suất tại địa phương, bị cáo xin được hưởng án treo để bị cáo được về gia đình tiếp tục lao động, sản xuất kinh doanh và để đón con là cháu Nguyễn Thị Phương A về gia đình nuôi dưỡng, do cháu hiện nay không có người chăm sóc nuôi dưỡng, đang phải gửi nhờ người chăm sóc. Do vậy cần cho cho bị cáo được hưởng án treo dưới sự giám sát của chính quyền địa phương và gia đình cũng đủ tác dụng giáo dục đối với bị cáo thành người có ích cho xã hội, thể hiện sự nhân đạo và khoan hồng của pháp luật, phù hợp hướng dẫn tại Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15-5-2018 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao và Điều 65 Bộ luật hình sự. Cần trả tự do cho bị cáo ngay tại phiên tòa.

Đối với bị cáo H: Bị cáo nhất thời phạm tội, do xuất phát từ tình cảm yêu đương nam nữ, bản thân bị cáo khi thực hiện hành vi phạm tội, sự việc đã xảy ra từ năm 2014, sau khi quan hệ với chị T, bị cáo và gia đình đã đón chị T về chung sống, năm 2018 khi bị hại đủ tuổi kết hôn, thì bị cáo và chị T đã kết hôn theo quy định của pháp luật.

Bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, có một tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; có hai tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị hại có đơn xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo.

Bị cáo có điều kiện kinh tế gia đình khó khăn, bố bị cáo khuyết tật nặng, không có khả năng lao động, được hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng, bị cáo có nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng. Do vậy cho bị cáo được hưởng án treo dưới sự giám sát của chính quyền địa phương và gia đình cũng đủ tác dụng giáo dục đối với bị cáo thành người có ích cho xã hội, thể hiện sự nhân đạo và khoan hồng của pháp luật, phù hợp hướng dẫn tại Nghị quyết số 02/NQ-HĐTP ngày 15-5- 2018 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao và Điều 65 Bộ luật hình sự.

Đối với hành vi quan hệ tình dục của Nguyễn Duy H với chị Nguyễn Thị T tháng 7 năm 2014, H chưa đủ 18 tuổi nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để xem xét xử lý.

Đối với Nguyễn Mạnh C khai có quan hệ tình dục với chị T khoảng tháng 7 năm 2014, C chưa đủ 18 tuổi nên hành vi của C không phải chịu trách nhiệm hình sự.

Về trách nhiệm dân sự: Trong quá trình điều tra, chị Nguyễn Thị T không yêu cầu bồi thường về dân sự và xin giảm nhẹ hình phạt cho cả 2 bị cáo.

Đối với ông Văn Hữu Lbố đẻ của bị cáo L; chị Ngô Thị H(vợ bị cáo L) bồi thường thiệt hại cho bị hại chị T, tại phiên tòa ông Lưu và chị H không yêu cầu; đề nghị gì nên không xem xét.

[8]. Về vật chứng của vụ án: không có, không đặt ta xem xét.

[9]. Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1.Về Điều luật áp dụng:

Căn cứ điểm d khoản 2 Điều 145, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017: Căn cứ Điều 328 Bộ luật tố tụng hình sự Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Văn Hữu L 03 (ba) năm tù, về tội “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi” nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 05 (năm) năm tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Quyết định trả tự do cho bị cáo tại phiên tòa.

2.Về Điều luật áp dụng:

Căn cứ khoản 1 Điều 145, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017: Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Nguyễn Duy H 12 (mười hai) tháng tù về tội “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi” nhưng cho hưởng án treo, Thời gian thử thách là 24 (Hai mươi bốn) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo L; Bị cáo H cho UBND xã Thường Th, huyện HH giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì việc thi hành án được thực hiện theo quy định tại khoản 3 Điều 92- Luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

3. Về án phí: Căn cứ Khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án:

Bị cáo L phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo H phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án Dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án Dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

4.Về quyền kháng cáo: Áp dụng điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự, báo cho các bị cáo; Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt, hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

49
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 115/2023/HS-ST về tội giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi

Số hiệu:115/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bắc Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/12/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;