Bản án về tội giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi số 08/2022/HSPT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 08/2022/HSPT NGÀY 08/06/2022 VỀ TỘI GIAO CẤU VỚI NGƯỜI TỪ ĐỦ 13 TUỔI ĐẾN DƯỚI 16 TUỔI

Ngày 08 tháng 6 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Thái Nguyên xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 05/2022/TLST-HS ngày 04 tháng 4 năm 2022, đối với các bị cáo: Trần Minh V, do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 30/2022/HSST ngày 28/02/2022 của Tòa án nhân dân Thị xã P (Nay là Thành phố P), tỉnh Thái Nguyên.

Bị cáo có kháng cáo:

TRẦN MINH V, tên gọi khác: Không; Sinh ngày 28/9/1992; Nơi đăng ký nhân khẩu thường trú và chỗ ở: Xóm 11, xã P.T, thị xã P (Nay là Thành phố P), tỉnh Thái Nguyên. Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Đảng, đoàn thể: Không; con ông: Trần Mạnh D (đã chết); con bà: Đặng Thị Th; Gia đình có 03 anh em, bị cáo là con thứ nhất; Bị cáo chung sống như vợ chồng với cháu Hà Thị Thủy T (sinh năm 2005) và có 01 con chung sinh năm 2021. Tiền án, tiền sự: Không Bị cáo không bị tạm giữ, tạm giam ngày nào. Được áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” tại xã PT, thị xã P (Nay là Thành phố P), tỉnh Thái Nguyên.

(Có mặt tại phiên tòa).

- Bị hại: Cháu Hà Thị Thủy T, sinh ngày 14 tháng 4 năm 2005; Trú tại: Xóm 11, xã P.T, thị xã P (Nay là Thành phố P), tỉnh Thái Nguyên. (Vắng mặt tại phiên tòa).

Đại diện hợp pháp cho bị hại: Ông Hà Tiến T, sinh năm 1987; Trú tại: Xóm 11, xã P.T, thị xã P (Nay là Thành phố P), tỉnh Thái Nguyên (là bố đẻ của cháu Hà Thị Thủy T).

(Vắng mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa phúc thẩm, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng tháng 7/2020, qua một thời gian quen biết, nói chuyện với nhau, Trần Minh V và cháu Hà Thị Thủy T nảy sinh tình cảm yêu đương. Vào buổi tối một ngày trong tháng 8/2020 (V và cháu T không nh ớ chính xác ngày, chỉ nhớ trong tháng 8/2020), cháu T đến nhà V chơi, sau đó V và cháu T đi vào phòng ngủ của V rồi quan hệ tình dục với nhau. Khoảng một tuần sau đó, cũng vào buổi tối, cháu T đến nhà V chơi, sau khi ngồi nói chuyện, V và cháu T tiếp tục đi vào phòng ngủ của V rồi tự nguyện quan hệ tình dục với nhau. Những ngày sau đó (V và cháu T đều không nhớ chính xác ngày, tháng cụ thể), V và cháu T tiếp tục quan hệ tình dục với nhau nhiều lần tại phòng ngủ của V. Trong các lần quan hệ tình dục giữa V và cháu T, V và cháu T quan hệ với nhau đều ở cùng một tư thế cháu T nằm ngửa, không mặc quần, V nằm trên, úp người vào cháu T rồi V đưa dương vật đã cương cứng của V vào âm đạo của cháu T khoảng 10 đến 15 phút, sau đó xuất tinh vào âm đạo của cháu T. Đến tháng 9/2020, cháu T có thai và nói cho V biết. Tháng 11/2020, V cùng gia đình đã đến gia đình cháu T đón cháu T về nhà V ở và chăm sóc, được gia đình hai bên đồng ý, cháu T về sinh sống cùng gia đình V từ đó đến nay. Ngày 09/5/2021, cháu T sinh 01 (một) con trai tại Bệnh viện A Thái Nguyên, đặt tên là Hà Minh Q.

Ngày 30/7/2021, Công an xã P.T, thị xã P (Nay là Thành phố P) tiếp nhận hồ sơ đăng ký thường trú của Hà Thị Thủy T về việc nhập sinh cho cháu Hà Minh Q. Sau khi kiểm tra thông tin trên giấy khai sinh của cháu Hà Minh Q, nhận thấy thời điểm T sinh cháu Q, T mới 16 tuổi 26 ngày, như vậy T quan hệ tình dục và mang thai ở thời điểm dưới 16 tuổi nên Công an xã P.T đã lập biên bản sự việc, tiến hành xác minh ban đầu rồi chuyển hồ sơ đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã P để giải quyết theo quy định.

Ngày 24, 25/8/2021, Cơ quan điều tra đã tiến hành thu mẫu máu của Trần Minh V, thu mẫu tóc của Hà Thị Thủy T, thu mẫu móng tay và niêm mạc của cháu Hà Minh Q, niêm phong theo quy đ ịnh. Ngày 01/9/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã P ra Quyết định trưng cầu giám định số 260 so sánh ADN với các mẫu máu, mẫu tóc, mẫu móng tay, niêm mạc của V, T và cháu Q. Tại bản Kết luận giám định số 360/21/TC-ADN ngày 06/9/2021 của Viện pháp y Quốc gia - Bộ y tế kết luận: Trần Minh V có quan hệ huyết thống bố - con với Hà Minh Q, độ tin cậy 99,9999%. Hà Thị Thủy T có quan hệ huyết thống mẹ - con với Hà Minh Q, độ tin cậy 99,9999%.

Tại bản Kết luận giám định pháp y về tình dục số 54/TD ngày 17/9/2021 của Trung tâm pháp y - Sở y tế Thái Nguyên kết luận: Màng trinh đã rách, vết rách cũ tại vị trí 1h, 6h, 7h, 11h. Hà Thị Thủy T đã mang thai trong buồng tử cung và đẻ thường bằng đường âm đạo. Tại bản Kết luận giám định pháp y về thương tích số 677/TgT ngày 17/9/2021 của Trung tâm pháp y - Sở y tế Thái Nguyên kết luận: Hiện tại không có dấu hiệu của thương tích. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là: 0% (Không phần trăm).

Quá trình điều tra, Trần Minh V đã khai nhận toàn bộ hành vi của mình, lời khai nhận của V phù hợp với lời khai của Hà Thị Thủy T, kết luận giám định cùng các tài liệu, chứng cứ mà Cơ quan điều tra đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án. Hà Thị Thủy T khai khoảng tháng 8/2020, sau một thời gian nảy sinh tình cảm yêu đương, T và V bắt đầu quan hệ tình dục với nhau. Sau đó, T và V còn quan hệ tình dục với nhau nhiều lần, địa điểm quan hệ đều tại phòng ngủ nhà của V. Đến tháng 9/2020, T có thai với V, đến ngày 09/5/2021, T sinh con trai. Vi ệc T quan hệ tình dục với V là tự nguyện và không bị ai đe dọa, ép buộc.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số: 30/2022/HSST ngày 28/02/2022 của Tòa án nhân dân Thị xã P (Nay là thành phố P), tỉnh Thái Nguyên đã tuyên bố bị cáo: Trần Minh V phạm tội “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi”.

Áp dụng: Điểm a, d khoản 2 Điều 145; Điểm s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt: Bị cáo Trần Minh V 36 (Ba mươi sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về án phí và thông báo quyền kháng cáo của những người tham gia tố tụng trong vụ án.

Ngày 08/3/2022, bị cáo cáo Trần Minh V kháng cáo xin được hưởng án treo, cải tạo tại địa phương.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình đúng như bản án sơ thẩm đã xét xử, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét hoàn cảnh, điều kiện của bị cáo, để cho bị cáo được hưởng án treo, cải tạo tại địa phương.

Quan điểm giải quyết vụ án của Kiểm sát viên tại phiên tòa phúc thẩm:

- Việc xét xử của cấp sơ thẩm là đúng quy định của pháp luật, mức hình phạt khởi điểm là đã xem xét giảm nhẹ đối với bị cáo, việc bị cáo phạm tội nhiều lần không thuộc trường hợp được hưởng án treo theo hướng dẫn tại Nghị quyết 01 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao.

Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trần Minh V. Giữ nguyên Bản án sơ thẩm.

Trong phần tranh luận, bị cáo không đồng ý với kết luận của Viện kiểm sát vì hoàn cảnh của bị cáo rất khó khăn, phải nuôi con, trả nợ thay bố, người bị hại xin cho bị cáo, và bị cáo cũng đã có trách nhiệm với hành vi của mình.

Đại diện Viện kiểm sát đối đáp với tranh luận của bị cáo: Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo không xuất trình thêm chứng cứ gì mới, những ý kiến của bị cáo đã được cấp sơ thẩm xem xét đầy đủ và xử bị cáo mức đầu khung hình phạt đã là xem xét giảm nhẹ cho bị cáo. Do đó, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm kết luận.

Bị cáo nói lời sau cùng, đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm mở lượng khoan hồng, cho bị cáo được hưởng án treo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định như sau:

[1]. Xét đơn kháng cáo của bị cáo Trần Minh V gửi trong thời hạn và đúng theo thủ tục quy định, nên được chấp nhận xem xét theo trình tự phúc thẩm.

[2]. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Trần Minh V đã khai nhận hành vi phạm tội của mình, lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của chính bị cáo trong quá trình điều tra và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận:

Vào buổi tối một ngày trong tháng 8/2020, tại phòng ngủ của gia đình bị cáo Trần Minh V có địa chỉ tại xóm 11, xã P.T, thị xã P, tỉnh Thái Nguyên, Trần Minh V đã có hành vi giao cấu (quan hệ tình dục) với cháu Hà Thị Thủy T. Khoảng một tuần sau, V tiếp tục có hành vi quan hệ tình dục với cháu T cũng tại phòng ngủ của gia đình. Sau đó, V tiếp tục có hành vi quan hệ tình dục với cháu T nhiều lần khác. Những lần V quan hệ tình dục với cháu T, cháu T mới được khoảng 15 tuổi 04 tháng. Hậu quả những lần V quan hệ tình dục với cháu T đã làm cho cháu T có thai và sinh 01 con trai vào ngày 09/5/2021 và khai sinh cháu là Hà Minh Q.

Tại bản Kết luận giám định số: 360/21/TC-ADN ngày 06/9/2021 của Viện pháp y quốc gia - Bộ y tế kết luận: Trần Minh V có quan hệ huyết thống bố - con với cháu Hà Minh Q.

Tại bản Kết luận giám định pháp y về tình dục số: 54/TD ngày 17/9/2021 của Trung tâm pháp y - Sở y tế Thái Nguyên kết luận: Màng trinh đã rách, vết rách cũ tại vị trí 1h, 6h, 7h, 11h. Hà Thị Thủy T đã mang thai trong buồng tử cung và đẻ thường bằng đường âm đạo. Tại bản Kết luận giám định pháp y về thương tích số 677/TgT ngày 17/9/2021 của Trung tâm pháp y - Sở y tế Thái Nguyên kết luận: Hiện tại không có dấu hiệu của thương tích. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là: 0% (Không phần trăm).

Hành vi nêu trên của bị cáo Trần Minh V đã đủ yếu tố cấu thành tội phạm, việc Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo về tội “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi” quy định tại điểm a, d khoản 2 Điều 145 của Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.

[4]. Xét đơn kháng cáo của bị cáo Trần Minh V về việc xin được hưởng án treo, Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy: Trong quá trình xét xử, cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất mức độ hành vi phạm tội do bị cáo gây ra, cũng như xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1, 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo V không xuất trình được tình tiết, chứng cứ mới. Xét hành vi phạm tội của bị cáo trước tình hình tội phạm xâm hại tình dục trẻ em hiện nay diễn ra phức tạp, tính chất mức độ ngày càng nghiêm trọng và có chiều hướng gia tăng, gây bức xúc trong dư luận và để lại nhiều hậu quả nghiêm trọng trong đời sống xã hội. Đồng thời, hành vi phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp phạm hai lần trở lên, không đủ điều kiện để được hưởng án treo theo quy định tại Điều 65 của Bộ luật hình sự và hướng dẫn tại Nghị quyết số 01/2022/NQ-HĐTP ngày 15 tháng 4 năm 2022 Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị quyết số 02/2018/NQ- HĐTP ngày 15 tháng 5 năm 2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 65 của Bộ luật hình sự về án treo. Do vậy, Hội đồng xét xử phúc thẩm không có căn cứ cho bị cáo được hưởng án treo, không chấp nhận kháng cáo và cần giữ nguyên bản án sơ thẩm đã tuyên đối với bị cáo cải tạo, nhằm răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung cho toàn xã hội.

[5]. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị, Hội đồng xét xử không xem xét và đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trần Minh V. Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số: 30/2022/HSST ngày 28/02/2022 của Tòa án nhân dân Thị xã P (Nay là Thành phố P), tỉnh Thái Nguyên.

1. Tuyên bố bị cáo: Trần Minh V phạm tội “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi”.

2. Căn cứ điểm a, d khoản 2 Điều 145; Điểm s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt: Bị cáo Trần Minh V 36 (Ba mươi sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án.

3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng Điều 135, 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Buộc bị cáo Trần Minh V phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm nộp sung quỹ Nhà nước.

4. Về án phí hình sự phúc thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Trần Minh V phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự phúc thẩm, nộp sung quỹ Nhà nước.

5. Các quyết định khác của Bản án hình sự sơ thẩm số: 30/2022/HSST ngày 28/02/2022 của Tòa án nhân dân Thị xã P (Nay là Thành phố P), tỉnh Thái Nguyên có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án hình sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

2613
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi số 08/2022/HSPT

Số hiệu:08/2022/HSPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;