Bản án về tội gây rối trật tự công cộng số 500/2024/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 500/2024/HS-PT NGÀY 30/09/2024 VỀ TỘI GÂY RỐI TRẬT TỰ CÔNG CỘNG

Ngày 30 tháng 9 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng, xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 282/2024/TLPT-HS ngày 04 tháng 6 năm 2024 đối với bị cáo Lê Thái D về tội “Gây rối trật tự công cộng”. Do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 21/2024/HS-ST ngày 09/4/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên.

Bị cáo có kháng cáo:

Lê Thái D (Tên gọi khác: Ty, T lùn), sinh ngày 08 tháng 10 năm 1988; tại tỉnh Phú Yên. Nơi cư trú: Khu phố N, thị trấn C, huyện T, tỉnh Phú Yên; giới tính: Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; nghề nghiệp: Kinh doanh dịch vụ cầm đồ; trình độ văn hóa (học vấn): 9/12; con ông Lê Văn Đ (chết) và bà Lê Thị Kim T1, sinh năm 1948; có vợ tên Lê Thị Lan V, sinh năm 2002 (đã ly hôn năm 2021) và 01 con, sinh năm 2020; tiền án, tiền sự: Không; bắt tạm giam từ ngày 19/10/2023 đến ngày 14/12/2023 cho bảo lĩnh; bị cáo tại ngoại, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 15 giờ ngày 19/01/2023 Lê Thái D rủ Phạm Đức K đến nhà anh Lê Đào Hồng Đ1 để đòi nợ. Kháng đồng ý, điều khiển xe mô tô 78H1-411.xx chở D. Nguyễn Văn T2 không biết Lê Thái D và Phạm Đức K đi đòi nợ, nhưng thấy K chở D đi, nên điều khiển xe mô tô 78B1-004.xx đi theo, trên đường đi T2 chở thêm một thanh niên tên T3 (không rõ lai lịch). Khi đến trước nhà anh Đ1 ở khu phố C, thị trấn C, huyện T, tỉnh Phú Yên, giữa D và anh Đ1 cãi nhau qua lại, T2 bước đến nói với anh Đ1 “Tết đến nơi rồi, nợ tiền thì trả cho người ta" nên giữa anh Đ1 và T2 xảy ra cãi vã, T2 rút 01 khẩu súng ngắn trong túi xách đeo trước ngực đánh 01 cái vào đầu anh Đ1. Anh Đ1 xông vào giằng co, đánh nhau với T2. T2 dùng súng bắn 01 phát trúng vùng ngực trái của anh Đ1. Một số người thấy sự việc nên xông đến can ngăn, giữ T2 và K lại, D và T3 bỏ chạy.

Kết luận giám định số 58/2023/TgT ngày 28/02/2023 của Trung tâm pháp y tỉnh P kết luận: Lê Đào Hồng Đ1 bị thương tích vùng đầu, vùng ngực, chân xây xát da; tỷ lệ thương tích 06% do vật có cạnh và vật tày gây nên.

Kết luận giám định số 1733 ngày 08/9/2023 của Phân viện KHHS tại Thành phố Đà Nẵng kết luận: Khẩu súng gửi giám định là súng ZORAKI, sử dụng bắn đạn cao su, đạn hơi cay, đạn nổ cỡ (9x22)mm; hiện tại khẩu súng sử dụng bắn được và thuộc công cụ hỗ trợ (không thuộc vũ khí). Vỏ đạn là vỏ đạn của loại đạn cao su và do khẩu súng trên bắn ra, đạn cao su cỡ (9x22) mm là công cụ hỗ trợ.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 21/2024/HSST ngày 09/4/2024 Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên quyết định:

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn T2 phạm tội “Giết người”; các bị cáo Lê Thái D, Phạm Đức K phạm tội “Gây rối trật tự công cộng”.

- Áp dụng Điểm n, Khoản 1 Điều 123; Điểm b, s Khoản 1 Điều 51; Điều 54; Điều 15; Khoản 3 Điều 57 Bộ luật Hình sự; xử phạt:

Bị cáo Nguyễn Văn T2 – 08 (T4) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam (ngày 03/02/2023).

- Áp dụng Điểm b, Khoản 2 Điều 318; Điểm b, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự đối với các bị cáo Lê Thái D, Phạm Đức K; áp dụng thêm Khoản 1 Điều 54 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Phạm Đức K; xử phạt:

Bị cáo Lê Thái D – 02 (Hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án, nhưng được trừ thời gian đã tạm giam trước từ ngày 19/10/2023 đến ngày 14/12/2023.

Bị cáo Phạm Đức K – 09 (Chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án, nhưng được trừ thời gian đã tạm giam trước từ ngày 19/10/2023 đến ngày 14/12/2023.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định phần xử lý vật chứng, trách nhiệm dân sự, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

- Ngày 22/4/2024, bị cáo Lê Thái D có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và được hưởng án treo, lý do: bị cáo đến đòi nợ, không có ý gây rối, sự việc xảy ra ngoài ý muốn của bị cáo hoàn cảnh gia đình bị cáo vợ ly hôn, bản thân bị cáo nuôi con nhỏ, tiền nợ thì Lê Đào Hồng Đ1 đến nay vẫn chưa trả, kính đề nghị HĐXX phúc thẩm xem xét cho bị cáo được hưởng án treo.

*Tại phiên toà phúc thẩm:

Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng: đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Lê Thái D, giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm.

Bị cáo Dương giữ nguyên đơn kháng cáo, không có ý kiến khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Kháng cáo của bị cáo Lê Thái D đúng hình thức, trong hạn luật định và đủ điều kiện giải quyết theo thủ tục phúc thẩm.

[2] Về nội dung:

[2.1] Về trách nhiệm hình sự và dân sự của Nguyễn Văn T2: tại giai đoạn sơ thẩm và phiên tòa sơ thẩm T2 thừa nhận hành vi phạm tội của mình và khắc phục, bồi thường cho bị hại. Sau khi xét xử sơ thẩm, Nguyễn Văn T2 không kháng cáo, Viện kiểm sát không kháng nghị, nên quyết định về trách nhiệm hình sự đối với Nguyễn Văn T2 và trách nhiệm bồi thường dân sự của Bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật.

[2.2] Xét kháng cáo: Bị cáo D vì muốn đến nhà Lê Đào Hồng Đ1 để đòi tiền nợ, nên rủ Phạm Đức K cùng đi. Khi bị cáo gặp Đ1, giữa hai bên cãi nhau qua lại, cùng lúc đó Nguyễn Văn T2 đi theo D và K, vừa đến, liền nói với anh Đ1 “Tết đến nơi rồi, nợ tiền thì trả cho người ta”, T2 và Đ1 lớn tiếng cãi nhau, bất ngờ T2 rút súng ngắn đánh vào đầu và bắn vào ngực trái của Đ1, hai bên ẩu đả nhau, gây ồn ào, ảnh hưởng sinh hoạt của người dân xung quanh. Bị cáo D thừa nhận hành vi của mình và tự nguyện khắc phục 5 triệu đồng cùng với T2 bồi thường cho bị hại. Nên Tòa án cấp sơ thẩm kết bị cáo Lê Thái D tội “Gây rối trật tự công cộng” quy định tại điểm b khoản 2 Điều 318 Bộ luật Hình sự. Phạm Đức K đã chấp hành án. Riêng bị cáo D kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt tù và xin được hưởng án treo vì nuôi con nhỏ. Xét, bị cáo Dương h nhiều tình tiết giảm nhẹ: thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tự nguyện khắc phục bồi thường cho anh Đ1, hơn nữa bị hại là người nợ tiền mà không có thái độ nhẹ nhàng, thiện chí; đồng thời bị cáo D có hoàn cảnh gia đình khó khăn, vợ ly hôn, bản thân bị cáo nuôi con nhỏ nhưng Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo 2 năm tù là quá nghiêm khắc, chưa đúng với tính chất, mức độ và hậu quả của hành vi phạm tội của bị cáo. Nên HĐXX phúc thẩm áp dụng khoản 1 Điều 54 Bộ luật Hình sự xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt tù là phù hợp.

[3] Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực thi hành từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[4] Về án phí: Kháng cáo của bị cáo được chấp nhận nên không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng Hình sự; chấp nhận kháng cáo của bị cáo Lê Thái D, sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 21/2024/HSST ngày 09/4/2024 Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên.

1. Áp dụng Điểm b, Khoản 2 Điều 318; Điểm b, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51, Khoản 1 Điều 54 Bộ luật Hình sự;

Xử phạt: bị cáo Lê Thái D 01 (một) năm tù về tội “Gây rối trật tự công cộng”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án nhưng được trừ thời gian đã tạm giam trước từ ngày 19/10/2023 đến ngày 14/12/2023.

2. Các quyết định khác của Bản án hình sự sơ thẩm 21/2024/HSST ngày 09/4/2024 Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

3. Về án phí hình sự phúc thẩm: Áp dụng điểm b Khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo không phải chịu.

4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

43
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội gây rối trật tự công cộng số 500/2024/HS-PT

Số hiệu:500/2024/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/09/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: [email protected]
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;