Bản án 149/2024/HS-PT về tội gây rối trật tự công cộng

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI

BẢN ÁN 149/2024/HS-PT NGÀY 22/02/2024 VỀ TỘI GÂY RỐI TRẬT TỰ CÔNG CỘNG

Ngày 22 tháng 02 năm 2024, tại điểm cầu trung tâm trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội và điểm cầu thành phần Tòa án nhân dân thành phố H, Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội, mở phiên tòa xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 978/2023/TLPT-HS ngày 11 tháng 9 năm 2023 đối với các bị cáo Phạm Tùng D, Bùi Quang Đ, do có kháng cáo của các bị cáo và kháng cáo của người đại diện hợp pháp của người bị hại đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 157/2023/HS-ST ngày 31 tháng 7 năm 2023 của Tòa án nhân dân thành phố H.

Các bị cáo có kháng cáo, bị kháng cáo:

1. Phạm Tùng D, sinh ngày 25/11/2006 tại H; giới tính: Nam; nơi cư trú: số B L, phường M, quận N, thành phố H; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 5/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Phạm Văn P (đã chết) và bà Trần Thị Kim T; bị cáo chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 02/9/2022, đến ngày 09/9/2022 chuyển tạm tạm giam; có mặt.

2. Bùi Quang Đ, sinh ngày 21/7/2005 tại Bắc Giang; giới tính: Nam; nơi ĐKHKTT: số B N, phường M, quận N, thành phố H; nơi ở hiện tại: số A P, phường M, quận N, thành phố H; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 7/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Bùi Quang Đ1 (đã chết) và bà Vũ Thúy N; bị cáo chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 23/02/2023; có mặt.

- Đại diện hợp pháp của bị cáo Phạm Tùng D: Bà Trần Thị Kim T, sinh năm 1976; vắng mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo Phạm Tùng D do Tòa án chỉ định: Luật sư Vũ Anh T1 – Công ty L1 thuộc Đoàn luật sư thành phố H; có mặt.

- Người đại diện hợp pháp của người bị hại có kháng cáo: Chị Nguyễn Phương T2, sinh năm 1984; nơi cư trú: Tổ B, phường V, quận L, thành phố H; có mặt.

Ngoài ra, trong vụ án còn có người đại diện hợp pháp của người bị hại khác không kháng cáo, không bị kháng nghị, Tòa án không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 03 giờ 15 phút ngày 27/8/2022, Công an quận L nhận được tin báo về việc có 03 nam giới đi trên 01 xe môtô Vision BKS 15B2-xxxxx bị tai nạn tại khu vực trước cửa nhà số D T, phường V, quận L, thành phố H. Hậu quả, 02 người tử vong tại chỗ, được xác định là cháu: Phạm Gia Bách L, sinh ngày 08/10/2008, trú tại số B T, phường V, quận L, thành phố H (13 tuổi 10 tháng 19 ngày) và cháu Hoàng Quốc P1, sinh ngày 26/12/2007, trú tại số C T, phường H, quận H, thành phố H (14 tuổi 8 tháng 01 ngày), 01 người bị thương nặng được xác định là cháu Đào Xuân H, sinh ngày 07/01/2009, trú tại thôn T, xã N, huyện P, tỉnh Hưng Yên (13 tuổi 7 tháng 20 ngày) được mọi người đưa đi cấp cứu đến ngày 30/8/2022 thì tử vong.

Tiến hành khám nghiệm hiện trường tại đường T đoạn qua khu vực trước cửa nhà số D đến nhà số D T, phường V, quận L, thành phố Hải phòng, xác định: trên nền đường có 01 đám cày xước xen lẫn vết mài trượt vỉa hè và mặt đường không liên tục dài 22,1m, rộng 0,1m, điểm đầu nằm trên phần dốc giữa mép đường chuẩn và vỉa hè, điểm cuối nằm tại vị trí xe mô tô Vision BKS 15B2-xxxxx; trên cây cột điện bê tông ký hiệu số VN II 3.3 có 01 vết cày xước mất bê tông nằm ngang dài 0,14m, cao cách vỉa hè 0,5m; tại khu vực giữa đường, trước cửa nhà số D T là vị trí nằm của tử thi Phạm Gia Bách L, vùng đầu tử thi có đám máu chảy loang trong diện 1,6m x 01m; tại khu vực vỉa hè trước cửa nhà số D T là vị trí nằm của tử thi Hoàng Quốc P1, vùng đầu tử thi có đám máu chảy loang trong diện 1,2m x 0,4m. Kết thúc việc khám nghiệm, Cơ quan điều tra tiến hành thu giữ 01 xe mô tô Vision biển kiểm soát 15B2-xxxxx bên trong cốp có 01 chiếc điện thoại di động iPhone 6S màu bạc; 01 chiếc điện thoại di động iPhone 6S plus màu bạc và 01 chiếc điện thoại di động Samsung màu xanh, 01 đôi dép màu trắng đen nhãn hiệu Sport cỡ 44-45, một số mảnh nhựa vỡ phương tiện.

Kết quả khám nghiệm tử thi Phạm Gia Bách L và Kết luận giám định pháp y về tử thi số 242/KL-KTHS(PY) ngày 15/9/2022 của Phòng K1 Công an thành phố H kết luận: Nạn nhân bị dập vỡ xương hộp sọ vùng trán - thái dương trái; không tìm thấy ethanol (cồn), các chất kích thích và trấn áp thần kinh trung ương trong mẫu máu; nguyên nhân chết là sốc do chấn thương sọ não.

Kết quả khám nghiệm tử thi Hoàng Quốc P1 và Kết luận giám định pháp y về tử thi số 243/KL-KTHS(PY) ngày 15/9/2022 của Phòng K1 Công an thành phố H kết luận: Nạn nhân bị dập vỡ xương gò má trái, xương hàm dưới trái, gẫy sập xương sống mũi, gãy răng số 1 hàm dưới bên trái, gẫy hở đầu dưới hai xương cẳng tay trái; không tìm thấy ethanol (cồn), các chất kích thích và trấn áp thần kinh trung ương trong mẫu máu; nguyên nhân chết là sốc do chấn thương sọ não.

Tại Kết luận giám định pháp y về tử thi Đào Xuân H số 143/KL-KTHS(PY) ngày 01/5/2023 của Phòng K1 Công an thành phố H kết luận: Nạn nhân bị tụ máu dưới màng cứng vùng đỉnh trái và thái dương đỉnh trái, chảy máu dưới nhện, đụng dập tụ máu nhu mô thùy thái dương trái, phù não lan tỏa trên lều; vỡ xương thái dương hai bên; vỡ cánh lớn xương bướm trái; vỡ xương chẩm hai bên lan vào lỗ lớn xương chẩm. Nguyên nhân chết là do sốc chấn thương sọ não không hồi phục.

Quá trình điều tra xác định: Khoảng 02 giờ ngày 27/8/2022, cháu Hoàng Quốc P1 điều khiển xe mô tô Vision biển kiểm soát 15B2-xxxxx chở Phạm Gia B L và Đào Xuân H cùng với 03 người bạn khác, gồm Nguyễn Huy H1, sinh ngày 19/6/2008, trú tại ngõ C T, phường V, quận L, thành phố H (14 tuổi 02 tháng 08 ngày) điều khiển xe mô tô Jupiter đeo biển kiểm soát 15F1-xxxxx chở Hoàng Gia K, sinh ngày 13/4/2008, trú tại số C T, phường V, quận L, thành phố H (14 tuổi 4 tháng 14 ngày), Nguyễn Trần Tiến N1, sinh ngày 14/11/2007, trú tại số I đường M, xã A, huyện A, thành phố H (14 tuổi 9 tháng 13 ngày) đang đi chơi cùng nhau trên đường H, quận L, thành phố H thì gặp Ngô Quang Hồng P2, sinh năm 2004, trú tại số B Đà Nẵng, phường C, quận N, thành phố H điều khiển xe mô tô Dream biển kiểm soát 16F1- xxxxx chở Phạm Tùng D (15 tuổi 9 tháng 02 ngày) và Bùi Quang Đ (17 tuổi 01 tháng 06 ngày) đi theo hướng ngược lại. Khi hai bên đi ngang qua nhau thì N1 nhầm tưởng Đ là người mâu thuẫn với mình trước đó nên đã cùng cả nhóm quay xe đuổi theo. Khi đuổi đến khu vực ngã tư Cầu Đ - T, thì H1 điều khiển xe vượt lên để N1 ngồi sau cầm mũ bảo hiểm đánh về phía Đ, nhưng do cả Đ và D đều tránh được nên nhát đánh của N1 trúng vào người P2. Ngay sau đó, N1 phát hiện đánh nhầm người nên cả nhóm bỏ chạy về phía đường Lạch Tray đến siêu thị A uống nước.

Sau khi bị đánh, P2, D, Đ nảy sinh ý trả thù. P2 chở D và Đ về quán điện tử ở số C M, quận N, thành phố H, sau đó một mình P2 đi xe về nhà mình lấy 01 thanh kiếm (dạng kiếm ống) và 01 chiếc ba lô đựng khoảng 05-06 vỏ chai thủy tinh rồi quay lại đón D và Đ. Sau đó, P2 điều khiển xe chở D ngồi giữa cầm kiếm, Đ ngồi sau đeo ba lô đi qua nhiều tuyến đường khác nhau tìm nhóm người đánh mình. Đến khoảng 03 giờ cùng ngày, khi đang di chuyển trên đoạn đường thuộc khu vực ngã tư Hồ S - Chợ Hàng, cả ba phát hiện thấy nhóm đối phương đang đi trên đường H theo hướng về đường T. Ngay lập tức P2 điều khiển xe mô tô chở D và Đ đuổi theo. Khi đuổi đến đường V (khu vực trước cổng siêu thị A), thấy nhóm đối phương tách ra làm hai hướng, P2 điều khiển xe tiếp tục đuổi theo xe của cháu P1. Khi thấy xe của cháu P1 quay đầu chuyển hướng chạy, thì Đ rời khỏi xe chặn đường, ném vỏ chai thủy tinh về phía xe của cháu P1 nhưng không trúng ai. Sau đó, P2 tiếp tục điều khiển xe mô tô chở Dương cầm kiếm truy đuổi theo xe của cháu P1 chạy vào đường cạnh siêu thị A theo hướng về đường T, khi đuổi đến khu vực cửa nhà số D T thì xe của P2 áp sát phía sau xe của cháu P1, Dương giơ thanh kiếm lên và hô “dừng lại”. Cháu P1 vừa điều khiển xe vừa quay đầu nhìn về phía sau nên xe mô tô bị mất lái, lao lên vỉa hè đâm vào cây cột điện, cả ba cháu P1, L, H đều bị ngã văng xuống đường. Còn P2 tiếp tục chở D quay lại khu vực siêu thị A đón Đ, sau đó bỏ trốn. Nhóm của ba cháu Nguyễn Huy H1, Hoàng Gia K, Nguyễn Trần Tiến N1 sau khi chạy thoát đã cùng nhau đến khu vực quán G ở số A Quán N, phường K, quận L, thành phố H lấy 04 vỏ chai thủy tinh nhằm mục đích quay lại tìm nhóm của P2 đánh nhau. H1 điều khiển xe mô tô Jupiter chở N1, K đi trên đường T đến khu vực trước cửa nhà số D T thì phát hiện thấy P1, L, H bị tai nạn, nằm bất động trên nền đường nên cả ba đã vứt vỏ chai thủy tinh ở đường Đ rồi đi về.

Ngày 27/8/2022, chị Nguyễn Thanh T3, sinh năm 1981, trú tại ngõ C T, phường V, quận L, thành phố H, là mẹ của cháu Nguyễn Huy H1, giao nộp tại Công an quận L 01 xe mô tô Jupiter biển kiểm soát 15B1-xxxxx và 01 chiếc biển kiểm soát 15F1-xxxxx. Theo lời trình bày của chị T3 và kết quả xác minh về phương tiện, xác định được chị T3 là chủ sở hữu hợp pháp chiếc xe mô tô Jupiter biển kiểm soát 15B1-xxxxx. Ngày 26/8/2022, chị T3 không biết việc cháu H1 tự ý lấy xe đi chơi. Sau khi biết việc cháu H1 có liên quan đến việc đánh nhau, gây rối vào rạng sáng ngày 27/8/2022, đồng thời phát hiện thấy trong nhà còn có 01 biển số xe 15F1-xxxxx nên chị T3 đã tự nguyện giao nộp chiếc xe mô tô và chiếc biển số trên. Hiện tại chị T3 đã được nhận lại tài sản của mình.

Kết quả xác minh về nguồn gốc chiếc xe mô tô Vision biển kiểm soát 15B2- xxxxx và 03 chiếc điện thoại di động bên trong cốp xe, xác định được chị Nguyễn Phương T2, sinh năm 1984, trú tại tổ B phường V, quận L, thành phố H, là mẹ của Hoàng Quốc P1, là chủ sở hữu hợp pháp tài sản là chiếc xe mô tô Vision biển kiểm soát 15B2-xxxxx. Theo lời trình bày của chị T2, thì chị không biết việc đêm ngày 26 rạng sáng ngày 27/8/2022, cháu P1 tự ý sử dụng xe mô tô để đi đánh nhau, gây rối. Hiện bà T2 đã được nhận lại tài sản của mình. Đối với chiếc điện thoại di động nhãn hiệu iPhone 6S đã xác định được là của cháu Phạm Gia Bách L; chiếc điện thoại di động nhãn hiệu iPhone 6S plus là của cháu Hoàng Quốc P1 và chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu xanh là của cháu Đào Xuân H. Đại diện gia đình các cháu đã nhận lại tài sản.

Sau khi gây án, Ngô Quang Hồng P2 bỏ trốn đến nay chưa bắt được. Ngày 01/9/2022, Phạm Tùng D đến Công an quận L đầu thú. Tại Cơ quan điều tra Phạm Tùng D, Bùi Quang Đ khai nhận hành vi phạm tội như nội dung trên. Lời khai của các bị cáo phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, phù hợp với kết quả khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, kết quả giám định pháp y về tử thi, xác định về nguyên nhân chết, về đặc điểm, cơ chế hình thành dấu vết thương tích trên thi thể các nạn nhân và phù hợp với tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Vật chứng vụ án: chuyển Cục thi hành án dân sự thành phố H: 01 đôi dép màu trắng đen, nhãn hiệu Sport cỡ 44 - 45.

Vấn đề dân sự: Đại diện hợp pháp của cháu Phạm Gia B L yêu cầu bồi thường chi phí mai táng 180.000.000 đồng; Đại diện hợp pháp của cháu Hoàng Quốc P1 yêu cầu bồi thường chi phí mai táng 217.000.000 đồng, bồi thường tiền sửa chữa xe mô tô Vision 8.000.000 đồng; Đại diện hợp pháp của Đào Xuân H yêu cầu bồi thường chi phí mai táng là 130.000.000 đồng. Đối với khoản tiền bồi thường tổn thất tinh thần, đại diện hợp pháp của cháu L và P1 đề nghị bồi thường theo quy định của pháp luật, đại diện hợp pháp của cháu H yêu cầu bồi thường 600.000.000 đồng. Hiện tại, cả 03 gia đình chưa nhận được khoản tiền bồi thường nào.

Tại Cáo trạng số 103/CT-VKS-P2 ngày 15/5/2023, Viện kiểm sát nhân dân thành phố H truy tố Phạm Tùng Dương về tội “Giết người” theo quy định tại điểm a, b n khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự, bị cáo Bùi Quang Đ bị truy tố về tội “Gây rối trật tự công cộng” theo điểm b khoản 2 Điều 318 Bộ luật Hình sự.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 157/2023/HS-ST ngày 31/7/2023 của Toà án nhân dân thành phố H đã quyết định:

- Căn cứ điểm a, b, n khoản 1 Điều 123; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38, Điều 90, 91, 101 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Phạm Tùng D 12 (mười hai) năm tù về tội “Giết người”. Thời hạn tù tính từ ngày bị tạm giữ 02/9/2022.

- Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 318; điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51; Điều 38, Điều 90, 91, 101 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Bùi Quang Đ 36 (ba mươi sáu) tháng tù về tội “Gây rối trật tự công cộng”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

Về dân sự: Căn cứ Điều 591, Nghị quyết số 02/2022/NQ- HĐTP ngày 06/9/2022 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; Buộc bị cáo Phạm Tùng D phải bồi thường cho người đại diện hợp pháp của bị hại Phạm Gia B L tổng số tiền là 242.000.000đ (hai trăm bốn mươi hai triệu đồng), bao gồm: 80.000.000 (tám mươi triệu) đồng tiền mai táng phí, 162.000.000đ (một trăm sáu mươi hai triệu đồng) tiền bồi thường tổn thất tinh thần.

Buộc bị cáo Phạm Tùng D phải bồi thường cho người đại diện hợp pháp của bị hại Hoàng Quốc P1 tổng số tiền là 242.000.000đ (hai trăm bốn mươi hai triệu đồng), bao gồm: 80.000.000đ (tám mươi triệu đồng) tiền mai táng phí, 162.000.000đ (một trăm sáu mươi hai triệu đồng) tiền bồi thường tổn thất tinh thần.

Buộc bị cáo Phạm Tùng D phải bồi thường cho người đại diện hợp pháp của bị hại Đào Xuân H tổng số tiền là 272.000.000đ (hai trăm bảy mươi hai triệu đồng), bao gồm 80.000.000đ (tám mươi triệu đồng) tiền mai táng phí, 162.000.000đ (một trăm sáu mươi hai triệu đồng) tiền bồi thường tổn thất tinh thần và 30.000.000đ (ba mươi triệu đồng) chi phí cấp cứu bị hại Đào Xuân H.

Do bị cáo là người chưa thành niên nên khoản tiền bồi thường trên do người đại diện hợp pháp của bị cáo bồi thường thay.

Ngoài ra Tòa án cấp sơ thẩm quyết định về tội danh và hình phạt đối với các bị cáo Nguyễn Bá M, Bùi Quốc D1; hình phạt bổ sung; xử lý vật chứng, án phí và thông báo quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Ngày 02/8/2023, bị cáo Phạm Tùng D kháng cáo xin giảm hình phạt.

Ngày 09/8/2023, bị cáo Bùi Quang Đ kháng cáo xin giảm hình phạt và hưởng án treo.

Ngày 10/8/2023, người đại diện hợp pháp của người bị hại là chị Nguyễn Phương T2 kháng cáo đề nghị tăng hình phạt đối với các bị cáo, buộc bị cáo phải bồi thường tiền mai táng phí và tổn thất tinh thần.

Ngày 14/8/2023, người đại diện hợp pháp của người bị hại là chị Nguyễn Thị N2 kháng cáo đề nghị tăng hình phạt đối với các bị cáo, buộc bị cáo phải bồi thường tiền mai táng phí và tổn thất tinh thần.

Ngày 23/8/2023, đại diện hợp pháp của người bị hại là chị Nguyễn Thị N2 có đơn xin rút toàn bộ nội dung kháng cáo.

Ngày 28/9/2023, bị cáo Phạm Tùng D có đơn xin rút toàn bộ nội dung kháng cáo.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Bị cáo Phạm Tùng D giữ nguyên đơn xin rút kháng cáo ngày 28/9/2023 và đề nghị Hội đồng xét xử quyết định theo quy định pháp luật.

Người bào chữa cho bị cáo D, đề nghị Hội đồng xét xử đình chỉ xét xử đối với kháng cáo của bị cáo D.

Bị cáo Bùi Quang Đ giữ nguyên nội dung kháng cáo đề nghị Hội đồng xét xử giảm hình phạt và xin hưởng án treo.

Đại diện hợp pháp của người bị hại - chị Nguyễn Phương T2 rút một phần kháng cáo đối với bị cáo D và giữ nguyên kháng cáo về tội danh và hình phạt đối với bị cáo Bùi Quang Đ.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội tham gia phiên tòa đề nghị Hội đồng xét xử đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của bị cáo Phạm Tùng D và chị Nguyễn Thị N2, đình chỉ xét xử phúc thẩm một phần đối với kháng cáo của chị Nguyễn Phương T2 và chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo Bùi Quang Đ, giảm cho bị cáo Đ một phần hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của Kiểm sát viên; Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định như sau:

[1] Trong quá trình chuẩn bị xét xử phúc thẩm, bị cáo Phạm Tùng D và người đại diện hợp pháp của người bị hại là chị Nguyễn Thị N2 rút toàn bộ nội dung kháng cáo. Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện hợp pháp của người bị hại là chị Nguyễn Phương T2 rút một phần nội dung kháng cáo đối với bị cáo D. Căn cứ vào Điều 348 Bộ luật tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của bị cáo Phạm Tùng D và chị Nguyễn Thị N2; đình chỉ xét xử một phần kháng cáo của chị Nguyễn Phương T2 liên quan đến bị cáo Phạm Tùng D.

[2] Tại phiên toà phúc thẩm các bị cáo D và Đ đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội; lời khai của các bị cáo phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm; phù hợp với lời khai của những người làm chứng, kết quả khám nghiện hiện trường, kết luận giám định pháp y và phù hợp với các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 03 giờ ngày 27/8/2022, Ngô Quang Hồng P2, Phạm Tùng D và Bùi Quang Đ sau khi xảy ra mâu thuẫn với nhóm của Hoàng Quốc P1, Phạm Gia Bách L, Đào Xuân H, Nguyễn Huy H1, Hoàng Gia K, Nguyễn Trần Tiến N1, đã chuẩn bị hung khí (kiếm, vỏ chai thủy tinh) đi tìm nhóm của P1 đánh trả thù. P2 điều khiển xe mô tô chở Dương cầm kiếm ngồi giữa, Đ ngồi sau đeo ba lô đựng vỏ chai thủy tinh rượt đuổi theo xe mô tô của nhóm P1 trên nhiều tuyến đường khác nhau thuộc địa bàn quận L, thành phố H. Khi đuổi đến đường V (khu vực trước cổng siêu thị A), thấy xe của cháu P1 quay đầu chuyển hướng chạy thì Đ xuống xe chặn đường, ném vỏ chai thủy tinh về phía xe của P1 nhưng không trúng ai. Sau đó, P2 tiếp tục điều khiển xe mô tô chở Dương cầm kiếm truy đuổi theo xe của cháu P1 chạy vào đường cạnh siêu thị A theo hướng về đường T, khi đuổi đến khu vực cửa nhà số D T thì xe của P2 áp sát phía sau xe của cháu P1, Dương giơ thanh kiếm lên và hô “dừng lại”. Do xe mô tô của P2 điều khiển chở theo Dương cầm kiếm rượt đuổi theo xe của P1 chở theo L và H với tốc độ cao, luôn trong tình trạng áp sát, làm cho P1 không làm chủ được tay lái, lao lên vỉa hè và đâm vào cây cột điện trước cửa khu vực nhà số D đường T, L, H. Hậu quả, P1, L, H đều bị tử vong. Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Phạm Tùng D về tội “Giết người” theo quy định tại điểm a, b, n Điều 123 Bộ luật Hình sự và bị cáo Bùi Quang Đ về tội “Gây rối trật tự công cộng” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 318 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng quy định pháp luật.

[3] Xét kháng cáo của bị cáo Bùi Quang Đ đề nghị giảm nhẹ hình phạt và được hưởng án treo: Hội đồng xét xử thấy hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, gây mất trật tự trị an tại địa phương cần phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung. Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét đầy đủ về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để tuyên phạt bị cáo mức hình phạt 36 tháng tù giam là tương xứng với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội. Tại cấp phúc thẩm, bị cáo Đ không xuất trình được tình tiết giảm nhẹ nào mới. Do đó, không có cơ sở chấp nhận kháng cáo của bị cáo Bùi Quang Đ.

[4] Xét kháng cáo của chị Nguyễn Phương T2 đối với bị cáo Bùi Quang Đ: Tại phiên tòa, chị T2 đề nghị Hội đồng xét xử xem xét về tội danh và hình phạt đối với bị cáo Bùi Quang Đ. Hội đồng xét xử thấy, trong quá trình nhóm của P2, D, Đức rượt đổi nhóm của P1 thì tại đường V (khu vực trước cổng siêu thị A) Bùi Quang Đ đã xuống xe để chặn đường nhóm của P1 và đáp vỏ chai thủy tinh, nhưng không trúng ai trong nhóm của P1. Sau đó, Đ không tham gia rượt đuổi nhóm của P1 cùng D, không biết và không chứng kiến việc P2, Dương rượt đuổi nhóm của P1, nên không có căn cứ xác định Đ đồng phạm với P2 và D về tội “Giết người”. Do đó, không có cơ sở chấp nhận kháng cáo của chị Nguyễn Phương T2.

[5] Về án phí: Bị cáo Bùi Quang Đ phải nộp án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật. Bị cáo Phạm Tùng D, chị Nguyễn Phương T2 và chị Nguyễn Thị N2 không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.

[6] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 348, điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí tòa án.

1. Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của bị cáo Phạm Tùng D, chị Nguyễn Thị N2 và một phần kháng cáo của chị Nguyễn Phương T2 đối với bị cáo Phạm Tùng D; phần quyết định của Bản án hình sự sơ thẩm số 157/2023/HS- ST ngày 31/7/2023 của Tòa án nhân dân thành phố H đối với bị cáo Phạm Tùng D có hiệu lực pháp luật kể từ ngày 22/02/2024.

2. Không chấp nhận kháng cáo của chị Nguyễn Phương T2 đối với bị cáo Đ và kháng cáo của bị cáo Bùi Quang Đ. Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 157/2023/HS-ST ngày 31/7/2023 của Tòa án nhân dân thành phố H, cụ thể:

Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 318; điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51; Điều 38, Điều 90, 91, 101 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Bùi Quang Đ 36 (ba mươi sáu) tháng tù về tội “Gây rối trật tự công cộng”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

3. Về án phí: Bị cáo Phạm Tùng D, chị Nguyễn Phương T2, chị Nguyễn Thị N2 không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm. Bị cáo Bùi Quang Đ phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

4. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

174
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 149/2024/HS-PT về tội gây rối trật tự công cộng

Số hiệu:149/2024/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/02/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;