TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN H, TỈNH CAO BẰNG
BẢN ÁN 30/2021/HS-ST NGÀY 23/09/2021 VỀ TỘI DỤ DỖ NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM PHÁP
Ngày 23 tháng 9 năm 2021, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Cao Bằng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 26/2021/TLST-HS ngày 13 tháng 8 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 21/2021/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 09 năm 2021 đối với bị cáo:
Hoàng Văn H; Sinh ngày 15/07/2002 tại xã B, huyện A, tỉnh Cao Bằng; Tên gọi khác: không; Giới tính: Nam; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: xóm C, xã L, huyện H, tỉnh Cao Bằng; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Nùng; Tôn giáo: không; Nghề nghiệp: trồng trọt; Trình độ văn hóa: 6/12; Con ông Hoàng Văn H1, sinh năm 1968; Con bà Trương Thị K, sinh năm 1982; Vợ, Con: Chưa có; Gia đình có 02 anh em, bị cáo là con thứ nhất; Tiền án, tiền sự: không có.
Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 29/04/2021 đến ngày 05/05/2021, tạm giam từ ngày 05/05/2021 đến nay tại nhà tạm giữ Công an huyện H, có mặt.
Người bào chữa cho bị cáo: Bà Nông Thị Thu Trang – Trợ giúp viên pháp lý thuộc trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Cao Bằng. (có mặt) Bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Vương Thái S, sinh ngày 19/05/2010. Nơi cư trú: xóm C, xã L, huyện H, tỉnh Cao Bằng. (Có mặt).
Người đại diện hợp pháp của bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan Vương Thái S: Ông Vương Văn C, sinh năm 1986 (vắng mặt) và Bà Hoàng Thị T, sinh năm 1981 (Có mặt). Cùng nơi cư trú: xóm C, xã L, huyện H, tỉnh Cao Bằng.
Nguyên đơn dân sự: Anh Hoàng Văn T, sinh năm 1996. Nơi cư trú: xóm C, xã L, huyện H, tỉnh Cao Bằng. (Có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hoàng Văn H (sinh năm 2002) và Vương Thái S (sinh ngày 19/05/2010) là người cùng xóm, cả hai đều thích chơi trò chơi chơi điện tử (game) “Garena free fire cường hóa” trên điện thoại, S thường xuyên đến nhà H chơi và được H cho mượn điện thoại chơi game. H còn cho S mượn một điện thoại iphone để S chơi game nhưng sau đó S bị mẹ thu điện thoại nên S vẫn thường sang nhà H chơi game trên điện thoại của H.
Được khoảng một thời gian, khoảng đầu tháng 04/2021 H nhiều lần xúi giục S “xem lấy tiền của bố mẹ về đưa anh để anh nạp thẻ game, không được nói với ai”, mỗi lần nghe H nói vậy S trả lời “Từ từ khi nào lấy được sẽ mang xuống cho”. Ban đầu nghe lời xúi giục của H, S thử trộm tiền của bố mẹ nhưng do tiền gia đình cất trong két sắt nên S không lấy được, trước đó S cũng nhiều lần đến nhà Hoàng Văn T (sinh năm 1996) là hàng xóm chơi nên S biết T có nhiều tiền để trong tủ quần áo, không khóa cửa, sau nhiều lần nghe lời xúi giục của H, S đã lấy tiền ở trong tủ của T 04 lần, cụ thể: Lần 1: S lấy được khoảng 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng); Lần 2: S lấy khoảng 500.000đ (Năm trăm nghìn đồng); Lần 3: S lấy khoảng hơn 10.000.000đ (Mười triệu đồng); Lần 4: S lấy khoảng 20.000.000đ (Hai mươi triệu đồng).
Sau mỗi lần lấy được tiền S đều đưa hết cho H và mỗi lần nhận tiền từ S, H đều nói “nếu có thì mang xuống tiếp”, H biết rõ số tiền do S trộm cắp có được nhưng vẫn lấy để nạp thẻ game vào tài khoản để chơi game cho cả H và S hết khoảng 17.000.000đ (Mười bảy triệu), ngoài ra H sử dụng số tiền còn lại để mua điện thoại cho S, mua quần áo, sửa xe máy, chi tiêu ăn uống, mua đồ dùng cá nhân.
Tại cơ quan điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo Hoàng Văn H khai nhận được thực hiện các hành vi như trên. Tuy nhiên, H không nhớ chính xác đã nhận từ S bao nhiêu tiền. Quá trình điều tra Cơ quan điều tra xác minh đúng sự việc như trên và thu giữ số tiền còn lại S trộm được chưa kịp sử dụng là 11.000.000đ (Mười một triệu đồng) từ bị cáo H.
Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa nguyên đơn dân sự Hoàng Văn T trình bày bị mất số tiền 31.750.000đ (Ba mươi mốt triệu bảy trăm năm mươi nghìn đồng). Về bồi thường trách nhiệm dân sự, anh Hoàng Văn T trình bày đã được được nhận lại từ Cơ quan điều tra số tiền 11.000.000đ (Mười một triệu đồng), ngày 03/7/2021 ông Hoàng Văn H1 là bố của bị cáo đã khắc phục hậu quả bồi thường cho anh T số tiền 20.000.000đ (Hai mươi triệu đồng), còn lại số tiền 750.000đ (Bảy trăm năm mươi nghìn đồng) anh T không yêu cầu bị cáo bồi thường, hoàn trả. Ngoài ra T đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX) xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo và không có yêu cầu gì thêm. Bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, người đại diện hợp pháp của bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan không ai có ý kiến, yêu cầu về bồi thường thiệt hại. Người đại diện hợp pháp của bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan (Hoàng Thị T) đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Bản Cáo trạng số 25/CT-VKSHQ ngày 12/08/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện H truy tố bị cáo về tội “Dụ dỗ người dưới 18 tuổi phạm pháp” theo điểm c khoản 2 Điều 325 Bộ luật hình sự. Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hà Quảng vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh và điều luật áp dụng. Sau khi xem xét đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo. Đề nghị HĐXX:
Về trách nhiệm hình sự: đề nghị tuyên bố bị cáo Hoàng Văn H phạm tội “Dụ dỗ người dưới 18 tuổi phạm pháp” theo điểm c khoản 2 Điều 325 Bộ luật hình sự; áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Hoàng Văn H từ 03 (ba) năm đến 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù. Không đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.
Về trách nhiệm dân sự: không ai có yêu cầu bồi thường về trách nhiệm dân sự nên không đề nghị HĐXX xem xét.
Về xử lý vật chứng: đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điều 47 BLHS; Điều 106 BLTTHS. Tịch thu phát mại sung công quỹ nhà nước đối với 01 điện thoại di động cảm ứng nhãn hiệu VIVO màu đen bạc đã qua sử dụng, số IMEI1: 866243059804731, số IMEI2: 866243105984723, trên máy gắn 01 sim số 0347215730; 01 điện thoại di động cảm ứng nhãn hiệu OPPO màu xanh ngọc, đã qua sử dụng, số IMEI1: 869540051995855; IEMI2: 869540051995848, trên máy gắn một sim số 0369571833 là các phương tiện liên quan đến hành vi phạm tội;
Trả lại cho bị cáo 01 túi đeo màu đen có ghi chữ “JIN GPLN” đã qua sử dụng;
01 ví da màu nâu, mặt ngoài ghi chữ VERSACE; 01 giấy đăng ký xe mô tô, xe máy số 008149 mang tên Lý Tòn C; 01 giấy bán xe mang tên Nguyễn Hải T; 01 thẻ khách hàng của Công ty điện lực Cao Bằng mang tên Hoàng Văn H1; 01 sạc dự phòng màu đen nhãn hiệu MAIMI đã qua sử dụng là các đồ vật không liên quan đến hành vi phạm tội;
Tịch thu tiêu hủy đối với 01 hộp nhựa trong suốt bên trong có chứa thẻ cào VIETTEL, gồm 03 thẻ cào 20.000đ (Hai mươi nghìn đồng), 04 thẻ cào 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng), 93 thẻ cào 50.000đ (năm mươi nghìn đồng), 135 thẻ cào 100.000đ (Một trăm nghìn đồng), tất cả các thẻ cào đều đã qua sử dụng;
Đề nghị HĐXX xem xét truy thu số tiền 750.000đ sung công quỹ nhà nước; Về án phí, đề nghị HĐXX áp dụng Điều 135, 136 BLTTHS; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa, người bào chữa trình bày lời bào chữa cho bị cáo: Nhất trí với bản luận tội của đại diện viện kiểm sát về tội danh và khung hình phạt. Tuy nhiên đề nghị HĐXX xem xét về nhân thân của bị cáo, do bị cáo sinh ra và lớn lên ở vùng kinh tế đặc biệt khó khăn, gia đình thuộc hộ nghèo, bố mẹ ly hôn, bố bị mù nên bị cáo thiếu sự quan tâm, giáo dục của gia đình mới dẫn đến vi phạm pháp luật. Tại phiên tòa bị cáo khai báo thành khẩn, bố của bị cáo là ông Hoàng Văn H1 đã khắc phục hậu quả bồi thường cho nguyên đơn dân sự và tại phiên tòa người đại diện hợp pháp của bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan và nguyên đơn dân sự đều có yêu cầu giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo nên đề nghị HĐXX xem xét áp dụng các tình tiết trách nhiệm hình sự tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 điều 51 Bộ luật hình sự; đề nghị HĐXX xem xét cho bị cáo chịu mức án thấp nhất là 03 (Ba) năm tù; không nhất trí với đề nghị truy thu số tiền 750.000đ sung công quỹ nhà nước; Về xử lý vật chứng và án phí đều nhất trí với các đề nghị của đại diện Viện kiểm sát. Bị cáo không có ý kiến bổ sung lời bào chữa cho bị cáo.
Tại phiên tòa, bị cáo, bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, người đại diện hợp pháp của bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, người bào chữa không ai có ý kiến tranh luận với bản luận tội đại diện Viện kiểm sát.
Trong lời nói sau cùng bị cáo ăn năn hối lỗi, mong HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng: Điều tra viên Công an huyện H; Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện H, người bào chữa cho bị cáo trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng theo thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo, bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, người đại diện hợp pháp của bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan và những người tham gia tố tụng khác không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, những người tiến hành tố tụng.
[2] Về tội danh và tình tiết định khung hình phạt: Căn cứ lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, nguyên đơn dân sự, người đại diện hợp pháp của bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thu thập và đánh giá.
Do đó, đủ cơ sở kết luận: Khoảng tháng 04/2021 bị cáo Hoàng Văn H đã nhiều lần xúi giục Vương Thái S, sinh ngày 19/05/2010 trộm cắp tài sản của người khác, S đã 04 lần trộm cắp tiền của Hoàng Văn T cho bị cáo mua thẻ nạp vào tài khoản chơi game của cả hai trên điện thoại và chi tiêu cho cá nhân bị cáo.
Hành vi của bị cáo đã đủ các yếu tố cấu thành tội "dụ dỗ người dưới 18 tuổi phạm pháp" quy định tại điểm c khoản 2 Điều 325 Bộ luật hình sự. Do vậy, bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện H truy tố bị cáo ra trước Tòa án là đúng người, đúng tội, đúng quy định pháp luật.
[3] Về tính chất mức độ hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, được thực hiện với lỗi cố ý gây nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chế độ giáo dục và bảo vệ những người chưa thành niên, xâm phạm trật tự an an toàn xã hội, bị cáo biết hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện.
[4] Về nhân thân: Bị cáo không có tiền án, tiền sự tuy nhiên qua xác nhận của Công an xã L, quá trình sinh sống tại địa phương bị cáo thường xuyên ăn cắp vặt, hay ra khỏi địa phương. Do vậy, cần cách ly bị cáo một thời gian để bị cáo sửa đổi, giáo dục bị cáo sau này trở thành công dân có ích cho xã hội và phòng ngừa chung.
[5] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải; bị cáo đã tích cực tác động, đề nghị bố bị cáo bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa người đại diện hợp pháp của bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan (Hoàng Thị T) đề nghị HĐXX giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại khoản 2 điều 51 Bộ luật hình sự.
Tình tiết tăng nặng: Bị cáo nhiều lần xúi giục S thực hiện hành vi phạm pháp nên phải chịu tình tiết tăng nặng quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.
[6] Hình phạt bổ sung: Do bị cáo làm nghề trồng trọt, không có thu nhập ổn định, hoàn cảnh gia đình khó khăn (bố mẹ ly hôn, bố bị mù) nên HĐXX không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.
[7] Về bồi thường trách nhiệm dân sự: Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa nguyên đơn dân sự Hoàng Văn T trình bày đã được được nhận lại từ Cơ quan điều tra số tiền 11.000.000đ (Mười một triệu đồng). Ngày 03/7/2021 bố đẻ của bị cáo là ông Hoàng Văn H1 đã bồi thường cho anh T số tiền 20.000.000đ (Hai mươi triệu đồng), còn lại số tiền 750.000đ (Bảy trăm năm mươi nghìn đồng) anh T không yêu cầu bị cáo bồi thường, hoàn trả vì T và bị cáo là anh em họ, ông H1 là chú ruột của T.
Xét thấy, tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa anh T trình bày bị mất số tiền 31.750.000đ (Ba mươi mốt triệu bảy trăm năm mươi nghìn đồng). Nhưng Vương Thái S lại không biết lần 3 và lần 4 đã trộm được của T bao nhiêu vì lấy được tiền S không đếm và đều đưa lại hết cho H; bị cáo H cũng không nhớ chính xác đã nhận từ S số tiền bao nhiêu, tại phiên tòa bị cáo khai nhận tổng số tiền nhận từ S là khoảng 30.700.000đ (Ba mươi triệu bảy trăm nghìn đồng), do đó HĐXX không đủ căn cứ để áp dụng biện pháp truy thu số tiền 750.000đ (Bảy trăm năm mươi nghìn đồng) sung công quỹ nhà nước. Mặt khác, tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa nguyên đơn dân sự Hoàng Văn T không yêu cầu bị cáo bồi thường, hoàn trả số tiền 750.000đ (Bảy trăm năm mươi nghìn đồng) và không ai có ý kiến, yêu cầu về bồi thường thiệt hại. Đây là nghĩa vụ, trách nhiệm dân sự, việc anh T không yêu cầu bị cáo hoàn trả, bồi thường tiền; bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, người đại diện hợp pháp bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu về trách nhiệm dân sự là hoàn toàn tự nguyện, không trái quy định của pháp luật nên HĐXX ghi nhận ý kiến và không xem xét.
[8] Đối với Vương Thái S, sinh ngày 19/05/2010 là người đã thực hiện hành vi trộm cắp tài sản của Hoàng Văn T, tại thời điểm thực hiện hành vi phạm tội S được 10 tuổi 11 tháng, chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo quy định pháp luật, do đó S không phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm pháp của mình gây ra.
[9] Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Đối với 01 điện thoại di động cảm ứng nhãn hiệu VIVO màu đen bạc đã qua sử dụng, số IMEI1: 866243059804731, số IMEI2: 866243105984723, trên máy gắn 01 sim số 0347215730 và 01 điện thoại di động cảm ứng nhãn hiệu OPPO màu xanh ngọc, đã qua sử dụng, số IMEI1: 869540051995855; IEMI2: 869540051995848, trên máy gắn một sim số 0369571833 là phương tiện liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo cần tịch thu phát mại sung công quỹ nhà nước;
Đối với 01 túi đeo màu đen có ghi chữ “JIN GPLN” đã qua sử dụng; 01 ví da màu nâu, mặt ngoài ghi chữ VERSACE; 01 giấy đăng ký xe mô tô, xe máy số 008149 mang tên Lý Tòn C; 01 giấy bán xe mang tên Nguyễn Hải T; 01 thẻ khách hàng của Công ty điện lực Cao Bằng mang tên Hoàng Văn H1; 01 sạc dự phòng màu đen nhãn hiệu MAIMI đã qua sử dụng là các đồ vật không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo nên cần trả lại cho bị cáo;
Đối với 01 hộp nhựa trong suốt bên trong có chứa thẻ cào VIETTEL, gồm 03 thẻ cào 20.000 đồng, 04 thẻ cào 200.000 đồng, 93 thẻ cào 50.000 đồng, 135 thẻ cào 100.000 đồng, tất cả các thẻ cào đều đã qua sử dụng không còn giá trị nên cần tịch thu tiêu hủy.
[10] Về án phí: Căn cứ Điều 135, Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23, 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
[11] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, người đại diện hợp pháp của bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, nguyên đơn dân sự có quyền kháng cáo Bản án theo quy định của pháp luật.
[12] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát và người bào chữa cho bị cáo cơ bản phù hợp với nhận định của HĐXX nên được chấp nhận một phần.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 2 Điều 260 Bộ luật tố tụng hình sự;
1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Hoàng Văn H phạm tội “Dụ dỗ người dưới 18 tuổi phạm pháp”.
2. Về hình phạt: Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 325; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Hoàng Văn H 03 (Ba) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày 29/04/2021.
Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
3. Về bồi thường trách nhiệm dân sự: Không ai có yêu cầu bồi thường, Hội đồng xét xử không xem xét.
4. Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch thu phát mại sung công quỹ nhà nước 01 điện thoại di động cảm ứng nhãn hiệu VIVO màu đen bạc đã qua sử dụng, số IMEI1: 866243059804731, số IMEI2: 866243105984723, trên máy gắn 01 sim số 0347215730 và 01 điện thoại di động cảm ứng nhãn hiệu OPPO màu xanh ngọc, đã qua sử dụng, số IMEI1: 869540051995855; IEMI2: 869540051995848, trên máy gắn một sim số 0369571833; Trả lại cho bị cáo 01 túi đeo màu đen có ghi chữ “JIN GPLN” đã qua sử dụng; 01 ví da màu nâu, mặt ngoài ghi chữ VERSACE; 01 giấy đăng ký xe mô tô, xe máy số 008149 mang tên Lý Tòn C; 01 giấy bán xe mang tên Nguyễn Hải T; 01 thẻ khách hàng của Công ty điện lực Cao Bằng mang tên Hoàng Văn H1; 01 sạc dự phòng màu đen nhãn hiệu MAIMI đã qua sử dụng; Tịch thu tiêu hủy 01 hộp nhựa trong suốt bên trong có chứa thẻ cào VIETTEL, gồm 03 thẻ cào 20.000 đồng, 04 thẻ cào 200.000 đồng, 93 thẻ cào 50.000 đồng, 135 thẻ cào 100.000 đồng không còn giá trị sử dụng.
Xác nhận toàn bộ vật chứng đã được chuyển đến Chi cục Thi hành án dân sự huyện H theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 29 ngày 29/4/2021.
5. Về án phí: Căn cứ Điều 135, Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo Hoàng Văn H phải chịu án phí hình sự sơ thẩm 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng).
6. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, người đại diện hợp pháp của bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan (Hoàng Thị T) có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Nguyên đơn dân sự có quyền kháng cáo phần Bản án liên quan đến bồi thường trách nhiệm dân sự trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Người đại diện hợp pháp của bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan (Vương Văn C) vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Bản án về tội dụ dỗ người dưới 18 tuổi phạm pháp số 30/2021/HS-ST
Số hiệu: | 30/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Hà Quảng - Cao Bằng |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 23/09/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về