TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THUẬN AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG
BẢN ÁN 65/2021/HS-ST NGÀY 15/03/2021 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC
Trong các ngày 09 và 15 tháng 3 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 32/2021/TLST-HS ngày 22 tháng 01 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 36/2021/QĐXXST-HS ngày 22 tháng 02 năm 2021 đối với các bị cáo:
1. Nguyễn Văn H, sinh năm 1993 tại tỉnh Phú Thọ; nơi cư trú: Khu 4, thôn H, xã P, huyện L, tỉnh Phú Thọ; tạm trú: 84-85/5A9 khu phố B, phường B, thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Đ và bà Phan Thị Lan L; bị cáo có vợ tên Trương Thị T và 02 người con; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 10/8/2020 đến ngày 19/8/2020 được áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú.
2. Lê Văn L, sinh năm 1993 tại tỉnh Thanh Hóa; nơi cư trú: Thôn 5, xã T, huyện N, tỉnh Thanh Hóa; tạm trú: 3/5 khu phố B, phường B, thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn T và bà Nguyễn Thị N; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 10/8/2020 đến ngày 19/8/2020 được áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú.
3. Huỳnh Kính H1, sinh năm 1995 tại tỉnh Khánh Hòa; nơi cư trú: Thôn T, xã C, huyện Cam Lâm, tỉnh Khánh Hòa; tạm trú: 1/CD78/31 Tổ 9, khu phố H, phường Th, thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Phật giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Huỳnh Kính H và bà Võ Thị H; bị cáo có vợ tên Nguyễn Thị Tuyết H và 01 người con; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 10/8/2020 đến ngày 19/8/2020 được áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú.
4. Huỳnh Châu A, sinh năm 1990 tại tỉnh Bến Tre; nơi cư trú: Ấp S, xã S, huyện C, tỉnh Bến Tre; tạm trú: Ô 21A DC04 khu phố 4, phường A, thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Huỳnh Văn T và bà Nguyễn Thị M; bị cáo có vợ tên Trần Thị X và 01 người con; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 10/8/2020 đến ngày 19/8/2020 được áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú.
5. Triệu Quang Đ, sinh năm 1997 tại tỉnh Tuyên Quang; nơi cư trú: Thôn 2 V, xã T, huyện H, tỉnh Tuyên Quang; tạm trú: Ô 35 TĐC 03, Khu phố 4, phường A, thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Tày; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Triệu Văn D và bà Hoàng Thị Ẻ; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 10/8/2020 đến ngày 19/8/2020 được áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú Các bị cáo có mặt tại phiên tòa.
Những người tham gia tố tụng khác:
Người làm chứng: Ông Ninh Phúc T, sinh năm 1990. Vắng mặt
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 11 giờ 40 phút ngày 10/8/2020, Công an phường Bình Hòa tuần tra đến nhà trọ tại địa chỉ 84/5A9 thuộc khu phố Bình Đáng, phường Bình Hòa, thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương thì phát hiện trong phòng trọ số 8 của Nguyễn Văn Học đang thuê ở có 5 đối tượng gồm Lê Văn L, Huỳnh Châu A, Huỳnh Kính H1, Triệu Quang Đ, Nguyễn Văn H đang đánh bạc dưới hình thức xóc đĩa chẵn lẻ thắng thua bằng tiền mặt, tỷ lệ cược từ 10.000 đồng đến 200.000 đồng, thu giữ số tiền tang trên chiếu bạc số tiền 8.350.000 đồng, thu giữ trên người các đối tượng số tiền 2.740.000 đồng. Lực lượng Công an lập biên bản bắt người phạm tội quả tang cùng tang vật như trên.
Quá trình điều tra Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thuận An xác định tổng số tiền các đối tượng sử dụng vào mục đích đánh bạc, cụ thể như sau:
- Lê Văn L là người làm cái mang theo số tiền 1.500.000 đồng để đánh bạc, trong quá trình đánh bạc thua, mượn thêm của Nguyễn Văn H số tiền 3.000.000 đồng để tiếp tục đánh bạc. Khi bị bắt quả tang thu giữ 1.200.000 đồng gộp chung vào tiền tang.
- Nguyễn Văn H mang theo số tiền 8.000.000 đồng, cho L mượn số tiền 3.000.000 đồng. Sử dụng 3.000.000 đồng để đánh bạc, trong quá trình chơi thua 600.000 đồng, khi bị bắt quả tang thu giữ 2.400.000 đồng gộp chung vào tiền tang. Thu giữ trong bóp số tiền 2.000.000 đồng là tiền cá nhân không sử dụng đánh bạc.
- Huỳnh Kính H1 mang theo số tiền 180.000 đồng để đánh bạc, trong quá trình chơi thắng 2.870.000 đồng, khi bị bắt quả tang thu giữ 3.050.000 đồng gộp chung vào tiền tang.
- Huỳnh Châu A mang theo số tiền 1.740.000 đồng để đánh bạc, trong quá trình chơi thắng 400.000 đồng, khi bị bắt quả tang thu giữ 1.400.000 đồng gộp chung vào tiền tang. Thu giữ trên người 740.000 đồng sử dụng vào mục đích đánh bạc.
- Triệu Quang Đ mang theo số tiền 300.000 đồng để đánh bạc, trong quá trình chơi không thắng, không thua, khi bị bắt quả tang thu giữ 300.000 đồng gộp chung vào tiền tang.
Tổng số tiền các đối tượng sử dụng để đánh bạc là 9.090.000 đồng. Số tiền 2.000.000 đồng của Nguyễn Văn Học không sử dụng vào mục đích đánh bạc.
Cáo trạng số 50/CT-VKS-TA ngày 20/01/2021 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương đã truy tố các bị cáo Lê Văn L, Huỳnh Châu A, Huỳnh Kính H1, Triệu Quang Đ, Nguyễn Văn H về tội Đánh bạc theo quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, Kiểm sát viên giữ quyền công tố vẫn giữ nguyên quyết định như bản cáo trạng đã truy tố và xác định: Trong vụ án có đồng phạm nhưng mang tính giản đơn, các bị cáo đều trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội, trong đó bị cáo Lâm sử dụng số tiền lớn nhất vào việc đánh bạc, bị cáo Học sử dụng nơi ở của mình cho các bị cáo khác đánh bạc và sử dụng số tiền lớn vào việc đánh bạc nên tính chất nguy hiểm cho xã hội của bị cáo Lâm, bị cáo Học cao hơn các bị cáo khác. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; sau khi phạm tội các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại các điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, bị cáo Triệu Quang Đ có ông nội là Triệu Văn C là người có công với Nhà nước nên đề nghị áp dụng cho bị cáo Đ hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ theo khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Kiểm sát viên đề nghị: Xử phạt tiền bị cáo Nguyễn Văn H từ 25.000.000 đồng đến 35.000.000 đồng; xử phạt tiền bị cáo Lê Văn L mức án từ 25.000.000 đồng đến 35.000.000 đồng; xử phạt tiền bị cáo Huỳnh Châu A từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng; xử phạt tiền bị cáo Huỳnh Kính H1 từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng; xử phạt tiền bị cáo Triệu Quang Đ từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng.
Về xử lý vật chứng: Đề nghị tịch thu tiêu hủy 01 bộ dụng cụ xóc đĩa; đề nghị tịch thu sung ngân sách Nhà nước số tiền 9.090.000 đồng; đề nghị trả lại cho bị cáo Nguyễn Văn H 2.000.000 đồng do bị cáo H không sử dụng số tiền này vào việc đánh bạc.
Tại phiên tòa các bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như nội dung cáo trạng truy tố. Lời nói sau cùng của các bị cáo trước khi Hội đồng xét xử nghị án: Các bị cáo đã nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo để các bị cáo có cơ hội làm lại cuộc đời.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp, đúng quy định.
[2] Tại phiên tòa các bị cáo đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, lời khai của các bị cáo thống nhất với nhau, phù hợp với các tình tiết như nội dung bản cáo trạng đã truy tố, phù hợp với các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án về thời gian, địa điểm, quá trình thực hiện hành vi phạm tội và vật chứng thu giữ.
Hội đồng xét xử có đủ cơ sở nhận định: Vào khoảng 11 giờ 40 phút ngày 10/8/2020, tại phòng số 8 nhà trọ địa chỉ 84/5A9 thuộc khu phố Bình Đáng, phường Bình Hòa, thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương, các bị cáo Lê Văn L, Huỳnh Châu A, Huỳnh Kính H1, Triệu Quang Đ, Nguyễn Văn H thực hiện hành vi đánh bạc dưới hình thức xóc đĩa chẵn lẻ thắng, thua bằng tiền với tổng số tiền dùng để đánh bạc là 9.090.000 đồng thì bị bắt phạm tội quả tang. Hành vi của các bị cáo đã thực hiện đủ yếu tố cấu thành tội Đánh bạc, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự.
Do đó, Cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Thuận An truy tố các bị cáo về tội Đánh bạc là có căn cứ và đúng pháp luật. Mức đề nghị hình phạt của đại diện Viện kiểm sát đối với các bị cáo là phù hợp với hành vi các bị cáo đã thực hiện.
Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm quản lý trật tự công cộng của Nhà nước làm ảnh hưởng đến an ninh trật tự xã hội tại địa phương, các bị cáo nhận thức rõ hành vi đánh bạc thắng thua bằng tiền là vi phạm pháp luật hình sự và sẽ bị trừng trị nhưng vì động cơ tham lam, tư lợi, muốn chiếm đoạt tài sản của nhau nên đã cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Do vậy, cần áp dụng mức hình phạt tương xứng với tính chất, hậu quả tội phạm đã thực hiện, căn cứ vào tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của từng bị cáo và số tiền từng bị cáo đã sử dụng vào việc đánh bạc để có quyết định riêng cho từng bị cáo nhằm giáo dục các bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.
Trong vụ án có đồng phạm nhưng mang tính giản đơn, các bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với vai trò là người thực hành, trong đó các bị cáo Lê Văn L, Nguyễn Văn H sử dụng số tiền lớn nhất vào việc đánh bạc nên tính chất nguy hiểm cho xã hội của bị cáo L, bị cáo H cao hơn các bị cáo khác.
[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo phạm tội không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, sau khi phạm tội đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự; bị cáo Triệu Quang Đ có ông nội là Triệu Văn C là người có công với Nhà được tặng thưởng Huân Chương kháng chiến hạnh nhì nên được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ theo khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
[5] Xét các bị cáo có nhân thân tốt, phạm tội lần đầu, việc phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ, việc không cách ly các bị cáo ra ngoài xã hội không gây nguy hiểm nên không cần cách ly bị cáo mà áp dụng hình phạt tiền cũng đảm bảo giáo dục các bị cáo.
[6] Về xử lý vật chứng:
Số tiền 9.090.000 đồng là tiền do các bị cáo sử dụng vào việc phạm tội nên Hội đồng xét xử tịch thu nộp ngân sách Nhà nước.
Đối với số tiền 2.000.000 đồng thu giữ của bị cáo Nguyễn Văn H, xét bị cáo không sử dụng số tiền này vào việc đánh bạc nên trả lại cho bị cáo H.
Đối với 01 bộ dụng cụ xóc đĩa gồm: 01 chén sứ màu trắng, 01 đĩa sứ màu trắng và 04 miếng nhựa hình tròn là công cụ các bị cáo sử dụng vào việc phạm tội, không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.
[9] Về án phí: Bị cáo Triệu Quang Đ là cá nhân thuộc hộ nghèo, cận nghèo nên được miễn tiền án phí; các bị cáo khác phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào:
- Khoản 1 Điều 321; Điều 35; Điều 46; Điều 47; các điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 58 Bộ luật Hình sự (áp dụng đối với bị cáo Triệu Quang Đ).
- Khoản 1 Điều 321; Điều 35; Điều 46; Điều 47; các điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 58 Bộ luật Hình sự (áp dụng đối với các bị cáo Lê Văn L, Huỳnh Châu A, Huỳnh Kính H1, Nguyễn Văn H).
- Điều 106; Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự;
- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.
1. Về trách nhiệm hình sự:
Tuyên bố các bị cáo Lê Văn L, Huỳnh Châu A, Huỳnh Kính H1, Triệu Quang Đ, Nguyễn Văn H phạm tội Đánh bạc.
Xử phạt bị cáo Lê Văn L 25.000.000 đồng (hai mươi lăm triệu đồng).
Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H 25.000.000 đồng (hai mươi lăm triệu đồng). Xử phạt bị cáo Huỳnh Châu A 20.000.000 đồng (hai mươi triệu đồng).
Xử phạt bị cáo Huỳnh Kính H1 20.000.000 đồng (hai mươi triệu đồng).
Xử phạt bị cáo Triệu Quang Đ 20.000.000 đồng (hai mươi triệu đồng).
2. Về xử lý vật chứng:
Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước số tiền 9.090.000 đồng (chín triệu không tram chín mươi ngàn đồng).
Tịch thu tiêu hủy 01 bộ dụng cụ xóc đĩa gồm: 01 chén sứ màu trắng, 01 đĩa sứ màu trắng và 04 miếng nhựa hình tròn .
Trả cho bị cáo Nguyễn Văn H số tiền 2.000.000 đồng (hai triệu đồng).
(Theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 21/01/2021 và Ủy nhiệm chi ngày 22/01/2021).
3. Về án phí:
Bị cáo Triệu Quang Đ được miễn án phí hình sự sơ thẩm;
Các bị cáo Lê Văn L, Huỳnh Châu A, Huỳnh Kính H1, Nguyễn Văn H mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.
Bản án 65/2021/HS-ST về tội đánh bạc
Số hiệu: | 65/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Thuận An - Bình Dương |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 15/03/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về