Bản án về tội đánh bạc và gá bạc số 133/2021/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN PHONG, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 133/2021/HS-ST NGÀY 27/09/2021 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC VÀ GÁ BẠC

Trong ngày 27 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 121/2021/TLST-HS ngày 27/8/2021 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 114 /2021/QĐXXST-HS ngày 13/9/2021 đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Bá H, sinh năm 1977 tại huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh. Nơi cư trú: thôn Bằng Lục, xã  T, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh.

Nghề nghiệp: Lao động tự do – Trình độ văn hoá: lớp 6/12.

Dân tộc: Kinh ; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam Con ông: Nguyễn Bá H, sinh năm 1952 (chết) Con bà: Nguyễn Thị B, sinh năm 1955 Vợ: Đoàn Thị H, sinh năm 1981 Con: có 03 con, lớn sinh năm 2002, nhỏ sinh năm 2010.

Tiền án: Tại bản án số 17/2021 ngày 08/02/2021 bị Tòa án nhân dân huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh phạt 07 tháng tù nhưng cho hưởng án treo thời gian thử thách là 14 tháng về tội “Đánh Bạc” Tiền sự: không.

Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 02/6/2021 đến nay tại nhà tạm giữ Công an huyện Yên Phong (có mặt tại phiên tòa).

2. Nguyễn Đắc A, sinh năm 1973 tại huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh. Nơi cư trú: thôn Bằng Lục, xã  T, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh.

Nghề nghiệp: Lao động tự do – Trình độ văn hoá: lớp 3/12 Dân tộc: kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam. Con ông: Nguyễn Đắc O, sinh năm 1947 Con bà: Nguyễn Thị P, sinh năm 1949 Vợ: Nguyễn Thị H, sinh năm 1973 Con: có 02 lớn sinh năm 1995, nhỏ sinh năm 2011.

Tiền án: Tại bản án số 20/2021 ngày 02/3/2021của Toà án nhân dân huyện Yên Phong phạt 12 tháng tù về tội tổ chức đánh bạc.

Tiền sự: không.

Nhân thân” tại bản án số 33/2005 ngày 20/12/2005 bị Tòa án nhân dân huyện Yên Phong phạt 08 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 12 tháng về tội “Đánh Bạc” Tại bản án số 92a/2013 ngày 12/11/2013 bị Tòa án nhân dân huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh phạt 05 tháng tù về tội “Đánh Bạc” Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 02/6/2021 đến nay tại nhà tạm giữ Công an huyện Yên Phong. (có mặt tại phiên toà).

3. Nguyễn Văn Suốt, sinh năm 1977 (tên gọi khác Xuất) tại huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh.

Nơi cư trú: thôn Bằng Lục, xã  T, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh.

Nghề nghiệp: Lao động tự do – Trình độ văn hoá: lớp 7/12.

Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam Con ông: Nguyễn Ngọc C, sinh năm 1942 Con bà: Nguyễn Thị V, sinh năm 1949 Vợ: Nguyễn Thị T, sinh năm 1982.

Con: có 03 lớn nhất sinh năm 2001 nhỏ nhất sinh năm 2011 Tiền án, tiền sự: không.

Bị tạm giữ từ ngày 02/6/2021 đến ngày 11/6/2021. Hiện tại ngoại (có mặt tại phiên toà).

4. Nguyễn Đình H, sinh năm 1959 tại huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh.

Nơi cư trú: thôn Bằng Lục, xã  T, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh.

Nghề nghiệp: Lao động tự do – Trình độ văn hoá: lớp 8/10 Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam. Con ông: Nguyễn Đình D, sinh năm 1935 (chết) Con bà: Nguyễn Thị T, sinh năm 1937 Vợ: Nguyễn Thị T, sinh năm 1961 Con: có 03 con lớn sinh năm 1983, nhỏ sinh năm 1987 Tiền án, tiền sự: không Nhân thân: ngày 02/11/2005 bị Công an huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh xử phạt hành chính 500.000đ về hành vi Đánh Bạc, đã nộp phạt.

Hiện tại ngoại (có mặt tại phiên toà).

5. Nguyễn Đình H, sinh năm 1995 tại huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh Nơi cư trú: thôn Bằng Lục, xã  T, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh.

Nghề nghiệp: Lao động tự do – Trình độ văn hoá: lớp 8/12 Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam. Con ông: Nguyễn Đình H, sinh năm 1975 Con bà: Nguyễn Thị H, sinh năm 1976 Vợ: Nguyễn Thị T, sinh năm 1997 Con: có 03 con lớn sinh năm 2016, nhỏ sinh năm 2020. Tiền án, tiền sự: không Bị tạm giữ từ ngày 02/6/2021 đến ngày 11/6/2021. Hiện tại ngoại (có mặt tại phiên toà).

6. Nguyễn Văn V, sinh năm 1986 tại huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh. Nơi cư trú: thôn Bằng Lục, xã  T, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh.

Nghề nghiệp: Lao động tự do – Trình độ văn hoá: lớp 9/12 Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam Con ông: Nguyễn Văn Q, sinh năm 1963 Con bà: Nguyễn Thị T, sinh năm 1962 Vợ; con: chưa có.

Tiền án, tiền sự: không Bị tạm giữ từ ngày 02/6/2021 đến ngày 05/6/2021. Hiện tại ngoại (vắng mặt tại phiên toà).

7. Nguyễn Cao Đ, sinh năm 1993, tại huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh. Nơi cư trú: thôn Bằng Lục, xã  T, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh.

Nghề nghiệp: Lao động tự do – Trình độ văn hoá: lớp 9/12 Dân tộc: kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam. Con ông: Nguyễn Cao Đ, sinh năm 1962 Con bà: Nguyễn Thị D, sinh năm 1965 Vợ: Nguyễn Thị Huỳnh T, sinh năm 1993 Con: có 02 con lớn nhất sinh năm 2014 nhỏ nhất sinh năm 2019. Tiền án, tiền sự: không Bị tạm giữ từ ngày 02/6/2021 đến ngày 05/6/2021. Hiện tại ngoại (có mặt tại phiên toà).

8. Nguyễn Đình Đ, sinh năm 1988 tại huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh. Nơi cư trú: thôn Bằng Lục, xã  T, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh.

Nghề nghiệp: Lao động từ do – Trình độ văn hoá: lớp 9/12 Dân tộc: kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam. Con ông: Nguyễn Đình S, sinh năm 1969 Con bà: Nguyễn Thị T, sinh năm 1969 Vợ: Nguyễn Thị N, sinh năm 1993 Con: có 03 con lớn sinh năm 2012, nhỏ sinh năm 2018. Tiền án, tiền sự: không Bị tạm giữ từ ngày 02/6/2021 đến ngày 05/6/2021. Hiện tại ngoại (có mặt tại phiên toà).

9. Nguyễn Bá Đ, sinh năm 1983, tại huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh. Nơi cư trú: thôn Bằng Lục, xã  T, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh.

Nghề nghiệp: Lao động tự do – Trình độ văn hoá: lớp 9/12 Dân tộc: kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam Con ông: Nguyễn Bá T, sinh năm 1959 Con bà: Nguyễn Thị C, sinh năm 1959 Vợ: Nguyễn Thị H, sinh năm 1986 Con: có 03 con lớn sinh năm 2006, nhỏ sinh năm 2010 Tiền án: không Tiền sự: Ngày 22/6/2020 bị Công an xã  T, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh xử phạt 1.500.000đ về hành vi đánh bạc, đã nộp phạt ngày 30/6/2020.

Bị tạm giữ từ ngày 02/6/2021 đến ngày 05/6/2021. Hiện tại ngoại (có mặt tại phiên toà).

10. Nguyễn Đắc L, sinh năm 1994, tại huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh.

Nơi cư trú: thôn Bằng Lục, xã  T, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh.

Nghề nghiệp: Lao động tự do – Trình độ văn hoá: 12/12 Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam. Con ông: Nguyễn Đắc T, sinh năm 1969 Con bà: Nguyễn Thị S, sinh năm 1971 Vợ: Nguyễn Thị T, sinh năm 1994 Con: có 02 con lớn sinh năm 2018, nhỏ sinh năm 2021 Tiền án, tiền sự: không Bị tạm giữ từ ngày 02/6/2021 đến ngày 05/6/2021. Hiện tại ngoại (có mặt tại phiên toà).

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

Anh Nguyễn Đắc V, sinh năm 1978 HKTT; thôn Bằng Lục, xã  T, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 11 giờ ngày 01/6/2021 bị cáo Nguyễn Đình H, đến nhà bị cáo Nguyễn Bá H chơi và ăn cơn trưa. Đến khoảng 14 giờ cùng ngày, bị cáo Nguyễn Đình Đ, Nguyễn Cao Đ, Nguyễn Bá Đ, Nguyễn Văn V, Nguyễn Đắc L, Nguyễn Ngọc Suốt (Xuất), Nguyễn Đắc V, Nguyễn Đắc A và Nguyễn Đình H đến chơi, uống nước. Sau đó các đối tượng rủ nhau đánh bạc dưới hình thức “đánh liêng” được thua bằng tiền. bị cáo Huy chuẩn bị 01 bộ bài tú lơ khơ gồm 52 quân bài màu vàng và trải chiếu ra phòng ăn cho mọi người đánh bạc. Sau đó bị cáo Độ, Đạt, Đoàn, Vinh, Long, Suốt, Ánh, Hiệp và Hoàng vào phong bếp nhà bị cáo Huy đề đánh bạc. Đến khoảng 16 giờ 15 phút cùng ngày, khi các đối tượng đang đánh bạc sát phạt nhau bằng tiền thì bị Cơ quan Công an huyện Yên Phong phát hiện và kiểm tra, Cơ quan Công an lập biên bản kiểm tra, thu giữ tiền đồ vật như sau:

Tổng số tiền trên người các bị cáo là 13.250.000đ (trong đó bị cáo Huy giao nộp 670.000đ, Long giao nộp 500.000đ, Độ giao nộp 2.470.000đ, Đoàn giao nộp 3.060.000đ, Đạt giao nộp 1.500.000đ, Suốt giao nộp 2.780.000đ, Vinh giao nộp 260.000đ, Hiệp giao nộp 1.610.000đ, Vệ giao nộp 400.000đ).

04 bộ bài tú lơ khơ ( 01 bộ bài tú lơ khơ màu vàng xanh có 52 lá, 01 bộ bài tú lơ khơ màu vàng xanh có 42 lá, 01 bộ bài tú lơ khơ màu xanh có 50 lá, 01 bộ bài tú lơ khơ màu đỏ có 50 lá); 02 chiếc chiếu màu vàng. 01 điện thoại Samsung NOTE 7 mặt sau màu vàng, số IME11: 352161095318196, số IME12 : 352162095318194 đã qua sử dụng của bị cáo Nguyễn Văn V. 01 điện thoại N0KIA màu xanh, số IMEI1: 353147114143979, số IMEI2: 353147119143974 đã qua sử dụng; 01 xe máy HONDA SH 150i màu đen BKS: 99D1 – 400.87, số khung: XLHKF 2505K1102362, số máy: KF25E0054050 của bị cáo Nguyễn Đình Đ. 01 điện thoại Realme màu xanh, số IMEI1: 863373050455979, số IMEI2: 863373050455960 đã qua sử dụng và 01 điện thoại 0PP0 màu đỏ, số IMEI1: 869347030072958, số IMEI2: 869347030072941 đã qua sử dụng của Nguyễn Bá Đ. 01 điện thoại Iphon X mặt sau màu trắng, số IMEI: 353045092807518 đã qua sử dụng của Nguyễn Bá H. 01 điện thoại Mastel màu đen, sô IMEI1: 355636046644839, số IMEI2: 355636047144839 đã qua sử dụng của Nguyễn Đình H. 01 điện thoại Nokia màu đen, số IMEI1: 355755101463420, số IMEI2: 355755102463429 đã qua sử dụng của Nguyễn Đắc A. 01 điện thoại Nokia 1202 màu xanh, số IMEI: 358957/01/267852/9 đã qua sử dụng của Nguyễn Văn Suốt (Xuất). 01 điện thoại OPPO màu đen, số IMEI1: 869002030707976, số IMEI2: 869002030707968 đã qua sử dụng; 01 chiếc xe máy SUZUKI màu xanh, BKS: 99L2 – 3159 của Nguyễn Đình H. 01 điện thoại Iphon 6 mặt sau màu hồng, số IMEI: 353265073430383 đã qua sử dụng; 01 chiếc xe máy HONDA SH Mode màu đỏ đen BKS: 99D1 – 336.16. số khung: 5133GY024099, số máy JF51E0566492 của Nguyễn Đắc L.

Cùng ngày 01/6/2021 các bị cáo Nguyễn Bá H, Nguyễn Đắc L, Nguyễn Đình Đ, Nguyễn Bá Đ, Nguyễn Cao Đ, Nguyễn Đình H, Nguyễn Đắc A, Nguyễn Ngọc Suốt (Xuất) và Nguyễn Văn V đầu thú về hành vi đánh bạc ăn tiền.

Các bị cáo đánh bạc bằng hình thức chơi “Liêng” được thua bằng tiền: mọi người quây tròn và sử dụng bộ bài tú lơ khơ có 52 quân bài và chia mỗi người được 03 quân bài, số còn lại để vào giữa bàn bạc. Sau khi chia bài, mỗi người chơi phải để vào giữa bàn bạc số tiền là 20.000đ gọi là gà, số tiền trên khi kết thúc ván chơi người thắng sẽ được lấy. Khi lên 03 quân mà có 03 quân cùng số với nhau (ví dụ: 8 rô, 8 cơ, 8 tép hoặc K rô, K cơ, K bích) thì gọi là sáp; 03 quân bài có các quân trên bài liền kề với nhau (ví dụ: 8,910 hoặc J, Q, K) không cần cùng chất hoặc cùng màu với nhau thì gọi là liêng; 03 quân bài mà có 02 quân trên bài giống nhau tính trong các quân J, Q, K (ví dụ J rô, J tép, Q bích) thì gọi là ảnh. , thứ tự quy ước các chất cao hơn là rô cơ, tép, bích. Ván bài nào có sáp thì thắng được liêng, ảnh thì thắng được bài có tổng điểm cộng lại là 9. Trong sáp thì có sáp A là cao nhất sau đó đến thứ tự sáp K, sáp Q.. sáp 2 là thấp nhất, lần lượt các chất có chất rô là cao nhất tính từ A rô, K rô, Q rô cuối cùng là 2 rô, ván bài có liêng sẽ thắng được ván bài có ảnh và bài tổng điển là 9 nhưng thau bài có sáp. Trong liên thì liêng Q, K, A có A rô là cao nhaatss sau đó theo thứ tự từ cao xuống thấp. Nếu trên bài có hai liêng trùng nhau thì bài nào liêng có chất rô lớn hơn thì sẽ thắng bài còn lại. Ván bài có ảnh sẽ thắng được ván bài có tổng điểm là 9, nhưng thua bài có sáp và liêng. Trong bài có K rô là cao nhất sau đó theo thứ tự từ cao xuống thấp. Nếu khi lên bài, hai bài có ảnh trùng nhau thì bài nào ảnh có chất rô lớn hơn sẽ thắng bài con lại. ván bài mà không có sáp, liêng hoặc ảnh thì các bài sẽ cộng ba quân bài lại đề tính điểm, các quân 10, J, Q, K được tính điểm bằng 0; A được tính điểm bằng 1, bài nào có điểm cao hơn thì thắng các bài còn lại.

Quá trình đánh bạc, có 02 ván các đối tượng để tiền gà 50.000đ/người, kết thúc ván bài đó sẽ lấy 150.000đ trong chỗ tiền gà để đưa cho Huy gọi là trả tiền nước uống. Tổng số tiền bị cáo Huy nhận là 300.000đ.

Các bị cáo khai nhận khi tham gia đánh bạc bị cáo Ánh bỏ ra số tiền 300.000đ, Vinh 300.000đ khi bị Công an kiểm tra thì Vinh thua 40.000đ còn lại là 260.000đ, Đoàn 4.000.000đ, khi bị kiểm tra thì Đoàn thua 940.000đ còn lại 3.060.000đ, Hoàng 800.000đ khi lực lượng Công an kiểm tra thì Hoàng thua hết số tiền trên, Độ 2.670.000đ, xong Độ chỉ dùng 670.000đ để đánh bạc, số tiền còn lại là để mua sữa cho con chứ không dùng vào việc đánh bạc., khi kiểm tra Độ thua 200.000đ, số tiền trên người của Độ còn 2.470.000đ, Hiệp 2.000.000đ khi bị kiểm tra Hiệp thua 390.000đ còn lại 1.610.000đ, Suốt 470.000đ khi kiểm tra Suốt đang thắng số tiền 2.310.000đ, tổng số tiền thu giữ của Suốt là 2.780.000đ, Đạt 900.000đ khi bị kiểm tra Đạt thắng bạc số tiền 600.000đ, tổng số tiền thu giữ của Đạt là 1.500.000đ, Long 700.000đ, khi kiểm tra thì Long bị thua 200.000đ còn lại 500.000đ.

Bản cáo trạng số 119/CT-VKSYP ngày 25 tháng 8 năm 2021 của VKSND huyện Yên Phong đã truy tố bị cáo Nguyễn Bá H với tội danh “Gá Bạc” theo điểm đ khoản 1, Điều 322 BLHS có mức hình phạt từ 01 năm đến 05 năm tù, truy tố bị cáo Nguyễn Đắc L, Nguyễn Đình Đ, Nguyễn Bá Đ, Nguyễn Cao Đ, Nguyễn Đình H, Nguyễn Đắc A, Nguyễn Ngọc Suốt (Xuất), Nguyễn Văn V, và Nguyễn Đình H với tội danh “Đánh Bạc” theo khoản 1 Điều 321 BLHS có mức hình phạt là từ 06 tháng đến 03 năm tù.

Tại phiên tòa bị cáo Huy khai nhận: Sáng ngày 01/6/2021 bị cáo ở nhà bị cáo bán hàng nước tại nhà đến khoảng 11 giờ cùng ngày thì có Hoàng đến chơi, ăn cơm tại gia đình bị cáo đến khoảng 13 giờ cùng ngày 01/6/2021 thì có Đạt, Độ, Đoàn, Vinh, Long, Suốt (tức Xuất), Vệ, Ánh và Hiệp đến chơi uống nước, sau đó các bị cáo rủ nhau cùng đánh bạc tại phòng ăn của gia đình bị cáo, bị cáo là người chuẩn bị bài tú lơ khơ, chiếu, khi các bị cáo đánh bạc ăn tiền tại gia đình bị cáo, bị cáo không nói và yêu cầu các bị cáo phải trả tiền hồ cho bị cáo, xong các bị cáo từ nguyện đưa cho bị cáo tổng số 02 với số tiền 300.000đ gọi là tiền chè nước, còn khi Công an vào bắt giữ bị giao nộp số tiền 670.000đ trong đó có 370.000đ là tiền do bị cáo bán hàng nước mà có, và 01 điện thoại Iphon X, nay bị cáo xin lại số tiền 370.000đ và 01 điện thoại vì số tiền và điện thoại trên bị cáo không dùng vào việc đánh bạc, với hành vi trên Cáo trạng truy tố bị cáo ra trước Tòa để xét xử về tội “Gá Bạc” theo điểm đ khoản 1 Điều 322 BLHS là đúng người đúng tội, không có oan sai gì bị cáo chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt để bị cáo cải tạo sớm được trở về đoàn tụ cùng gia đình và xã hội.

Bị cáo Hoàng, Suốt, Ánh, Đạt, Hiệp, Độ, Long, Đoàn đều khai nhận toàn bộ về hành vi phạm tội của bị cáo như Cáo trạng truy tố các bị ra trước Tòa để xét xử về tội “Đánh bạc” theo khoản 1, Điều 321 BLHS là đúng người đúng tội và đúng pháp luật không có oan sai gì, còn khi đi đánh bạc bị cáo Hoàng mang theo 800.000đ và 01 điện thoại, Suốt (Xuất) mang theo 400.000đ và 01 điện thoại; Ánh mang theo 300.000đ và 01 điện thoại; Đạt mang theo số tiền 900.000đ; Hiệp mang theo số tiền 2.000.000đ và 01 điện thoại, 01 xe máy; Độ mang theo 2.670.000đ, 01 điện thoại di động, 01 xe máy, trong tổng số tiền trên bị cáo Độ chỉ dùng 670.000đ vào việc đánh bạc số tiền còn lại là 2.000.000đ bị cáo để mua sữa cho con bị cáo; Long mang theo 700.000đ và 01 điện thoại, 01 xe máy; Đoàn mang theo số tiền 4.000.000đ và 02 điện thoại. nay các bị cáo đều xin lại điện thoại để sử dụng, còn số tiền đề nghị giải quyết theo quy định pháp luật, riêng bị cáo Độ xin lại số tiền 2.000.000đ và điện thoại di động vì số tiền trên bị cáo không dùng vào việc đánh bạc mà bị cáo dùng vào việc mua sữa cho con. Riêng xe máy của bị cáo Độ, Long và Hiệp không liên quan đến vụ án Cơ quan điều tra đã trả lại cho bị cáo, các bị cáo không có ý kiến gì. Các bị đều xin Hội đồng xét xử cho các bị cáo được hưởng sự khoan hồng của pháp luật là được cải tạo tại địa phương để các bị cáo có cơ hội làm lại cuộc đời.

Đại diện VKSND huyện Yên Phong thực hành quyền công tố tại phiên tòa sau khi phân tích đánh giá chứng cứ, đánh giá tính chất mức độ nguy hiểm do hành vi phạm tội của các bị cáo gây ra cho xã hội cùng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ đối với từng bị cáo đã kết luận về vụ án giữ nguyên quan điểm đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Bá H phạm tội “Gá Bạc” áp dụng điểm đ, khoản 1, Điều 322, điểm s khoản 1, 2 Điều 51, khoản 5 Điều 65, Điều 38 BLHS xử phạt Huy từ 16 đến 18, Tổng hợp bản án số 17/2021 ngày 08/02/2021 phạt bị cáo 07 tháng tù treo buộc bị cáo Huy phải chấp hành chung cho cả 02 bản án là từ 23 đến 25 tháng.

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Đắc A, Nguyễn Đắc L, Nguyễn Đình Đ, Nguyễn Bá Đ, Nguyễn Cao Đ, Nguyễn Đình H, Nguyễn Ngọc Suốt, Nguyễn Văn V và Nguyễn Đình H phạm tội “Đánh Bạc” Áp dụng khoản 1 Điều 321, điểm s, khoản 1, 2 Điều 51, điểm h, khoản 1, Điều 52, Điều 38, Điều 56 BLHS xử phạt Ánh từ 10 đến 12 tháng tù.Tổng hợp bản án số 20/2021 ngày 02/3/2021 phạt 12 tháng. Buộc bị cáo Ánh phải chấp hành hình phạt chung cho cả 2 bản án là từ 22 đến 24 tháng tù.

Áp dụng khoản 1, Điều 321, điểm s, i, khoản 1,2 Điều 51, Điều 38 BLHS xử phạt Đôàn , Hiệp mỗi bị cáo từ 08 tháng đến 10 tháng tù.

Áp dụng khoản 1, Điều 321, điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51, Điều 65 BLHS Xử phạt: Hoàng , Suốt, Độ, Vình, Đạt, Long mỗi bị cáo từ 8 – 10 tháng tù nhưng cho hưởng án treo thời gian thử thách là 16 đến 20 tháng.

Áp dụng khoản 3 Điều 322 phạt Huy từ 20.000.000đ – 25.000.000đ để xung công quỹ nhà nước.

Áp dụng khoản 3, Điều 321 BLHS phạt Hiệp, Long, Độ, Suốt, Vinh, Đạt, Hoàng, Đoàn, Ánh mỗi bị cáo từ 10.000.000đ – 15.000.000đ để xung công quỹ nhà nước Về vật chứng: Căn cứ Điều 47 BLHS, Điều 106 BLTTHS tịch thu xung công quỹ nhà nước số tiền 10.180.000đ, tịch thu tiêu hủy 04 bộ bài tú lơ khơ; 02 chiếc chiếu.

Trả lại bị cáo Độ 01 điện thoại và 2.000.000đ, Huy 01 điện thoại và 370.000đ, Hoàng 01 điện thoại; Suốt 01 điện thoại; Ánh 01 điện thoại, Hiệp 01 điện thoại; Long 01 điện thoại; Đoàn 02 điện thoại, anh Vệ 400.000đ xong tạm giữ để đảm bảo thi hành án. Riêng của anh Vệ không tạm giữ.

Các bị cáo nhận tội và không tham gia tranh luận với đại diện VKS, các bị cáo chỉ đề nghị xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sơ nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hố sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

1. Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên Công an huyện Yên Phong, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Phong trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại. Do vậy các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trên đều hợp pháp.

2. Về nội dung vụ án: Tại phiên tòa các bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Lời khai nhận của các bị cáo phù hợp với biên bản kiểm tra, thu giữ đồ vật tài liệu và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đủ cơ sở kết luận: Khoảng 14 giờ ngày 01/6/2021 bị cáo Nguyễn Bá H chuẩn bị 01 bộ bài tú lơ khơ màu vàng xanh có s52 lá và dùng nhà ở của mình để cho bị cáo Nguyễn Đắc L, Nguyễn Đình Đ, Nguyễn Bá Đ, Nguyễn Cao Đ, Nguyễn Đình H, Nguyễn Đắc A, Nguyễn Ngọc Suốt, Nguyễn Văn V và Nguyễn Đình H đánh bạc bằng hình thức “Đánh Liêng” ăn tiền. Tổng số tiền các đối tượng dùng để đánh bạc là 10.180.000đ , Nguyễn Bá H được 300.000đ tiền hồ để mua nước cho các đối tượng đánh bạc.

3. Xét vai trò trong vụ án thấy: bị cáo Nguyễn Bá H là vai trò chính bởi lẽ bị cáo là chủ nhà lại chuẩn bị công cụ, đồ dùng để các bị cáo tham gia đánh bạc và thu tiền hồ. sau đến bị cáo Ánh, Hoàng, Suốt, Hiệp, Vinh, Đạt, Độ, Đoàn và Long đều là vai trò ngang nhau bởi lẽ các bị cáo đều không có rủ dê , tổ chức phân công phân nhiệm.

4. Xét về nhân thân thấy: bị cáo Nguyễn Bá H đã có 01 tiền án đang trong thời gian thử thách về tội đánh bạc, nay cần chuyển từ 07 tháng tù treo thành 7 tháng tù giam, bị cáo Nguyễn Đắc A đã có 01 tiền án bị xử phạt 12 tháng tù nay chưa chấp hành cần buộc bị cáo phải chấp hành chung cho cả 02 bản án, ngoài ra vào năm 2005 bị xử phạt 08 tháng tù treo và ngày 12/11/2013 bị xử phạt 05 tháng tù đến nay cả hai bản án trên đã chấp hành xong đểu về tội “Đánh Bạc: tuy không coi là có tiền án xong bị cáo có nhân thân xấu, bị cáo Nguyễn Bá Đ có 01 tiền sự về hành vi đánh bạc xử phạt 1.500.00đ nộp phạt vào ngày 30/6/2020. Do vậy cần bắt các bị cáo phải cách ly khỏi xã hội một thời gian nhất định thì mới có thể cải tạo giáo dục các bị cáo trở thành người lương thiện và có ích cho xã hội. Riêng bị cáo Nguyễn Đình H tuy vào năm 2005 đã bị xử phạt hành chính về hành vi đánh bạc, từ đó đến trước ngày 01/6/2021 bị cáo luôn chấp hành tốt chủ trương chính sách pháp luật của nhà nước không vi phạm gì, bản thân lại bị bệnh mãn tính, tuổi cao, sức khỏe yếu, lại đang nuôi mẹ già bị bệnh tại biến nằm liệt, bản thân bị cáo có thời gian trong quân đội được tặng thưởng Huy chương chiến sỹ vẻ vang nên cần cho bị cáo được hưởng sự khoan hồng của pháp luật là được cải tạo tại địa phương cũng đủ đề cải tạo giáo dục bị cáo trở thành người lương thiện và có ích cho xã hội. Còn đối với Nguyễn Đình H, Nguyễn Văn V, Nguyễn Cao Đ, Nguyễn Đình Đ, Nguyễn Ngọc Suốt và Nguyễn Đắc L có nhân thân tốt. chưa có tiền án tiền sự, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng cần cho các bị cáo được hưởng sự khoan hồng của pháp luật được cải tạo tại địa phương cũng đủ để cải tạo giáo dục các bị cáo trở thành người lương thiện và có ích cho xã hội.

5. Xét về tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng thí thấy:

Về tình tiết tăng nặng: bị cáo Nguyễn Đắc A phải chịu 01 tình tiết tăng nặng được quy định tại điểm h khoản 1, Điều 52 BLHS. Các bị cáo Nguyễn Bá H, Nguyễn Đắc L, Nguyễn Đình Đ, Nguyễn Bá Đ, Nguyễn Cao Đ, Nguyễn Đình H, Nguyễn Ngọc Suốt, Nguyễn Văn V, Nguyễn Đình H không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ thì thấy: các bị cáo đều được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS. Các bị cáo Long, Độ, Đoàn, Đạt, Hoàng, Suốt, Vinh, Hiệp đều được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trong quy định tại điểm i khoản 1 Điều 51 BLHS, các bị cáo Huy, Ánh, Long, Độ, Đoàn, Đạt, Hoàng, Suốt, Vinh đầu thú ngoài ra bị cáo Nguyễn Đình Đ và Nguyễn Văn V , Nguyễn Ngọc Suốt (Xuất) và Nguyễn Đình H còn có thời gian tham gia nghĩa vụ quân sự, Vinh có ông là Liệt sỹ trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ nên các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 BLHS.

6. Về hình phạt bổ xung: Ngoài hình phạt chính cần áp dụng hình phạt bổ xung là phạt các bị cáo một khoản tiền để xung công quỹ nhà nước. Riêng bị cáo Nguyễn Đình H bị bệnh tiểu đường mãn tính, sức khỏe yếu, người cao tuổi, lại phải nuôi mẹ đẻ bị tai biến nên cần miến hình phạt bổ xung cho bị cáo Hiệp là phù hợp.

7. Về vật chứng: Quá trình bắt giữ Cơ quan điều tra thu giữ:

Tổng số tiền trên người các bị cáo là 13.250.000đ; 04 bộ bài tú lơ khơ (01 bộ bài màu xanh có 52 lá, 01 bộ bài có 42 lá; 01 bộ bài có 50 lá, 01 bộ bài có 50 lá; 02 chiếc chiếu màu vàng; 01 điện thoại Samsung NOTE 7 mặt sau màu vàng, số IMEI1; 352161095318196, số IMEI2; 352162095318194 của Vinh; 01 điện thoại Nokia màu xanh, số IMEI1; 353147114143979, số IMEI2: 353147119143974; 01 xe máy HONDA SH 1501 màu đen BKS; 99D1 – 400.87, số khung: XLHKF 2505K1102362, số máy: KF25E0054050 của Độ. 01 điện thoại Realme màu xanh, số IMEI1: 863373050455979, số IMEI2: 863373050455960 đã qua sử dụng và 01 điện thoại 0PP0 màu đỏ, số IMEI1: 869347030072958, số IMEI2:

869347030072941 đã qua sử dụng của Nguyễn Bá Đ; 01 điện thoại Iphon X mặt sau màu trắng, số IMEI: 353045092807518 đã qua sử dụng của Nguyễn Bá H; 01 điện thoại Mastel màu đen, sô IMEI1: 355636046644839, số IMEI2:

355636047144839 đã qua sử dụng của Nguyễn Đình H; 01 điện thoại Nokia màu đen, số IMEI1: 355755101463420, số IMEI2: 355755102463429 đã qua sử dụng của Nguyễn Đắc A; 01 điện thoại Nokia 1202 màu xanh, số IMEI:

358957/01/267852/9 đã qua sử dụng của Nguyễn Văn Suốt (Xuất); 01 điện thoại OPPO màu đen, số IMEI1: 869002030707976, số IMEI2: 869002030707968 đã qua sử dụng; 01 chiếc xe máy SUZUKI màu xanh, BKS: 99L2 – 3159 của Nguyễn Đình H; 01 điện thoại Iphon 6 mặt sau màu hồng, số IMEI: 353265073430383 đã qua sử dụng; 01 chiếc xe máy HONDA SH Mode màu đỏ đen BKS: 99D1 – 336.16. số khung: 5133GY024099, số máy JF51E0566492 của Nguyễn Đắc L. Xét thấy số vật chứng trên là số tiền khi bắt giữ các bị cáo giao nộp là 13.250.000đ, trong đó có 10.180.000đ các bị cáo dùng vào việc đánh bạc cần tịch thu xung công quỹ Nhà nước còn lại số tiền 2.760.000đ không liên quan đến hành vi đánh bạc nên cần trả lại cho các bị cáo, 04 bộ bài tú lơ khơ, 02 chiếc chiếu màu vàng là công cụ phạm tội, giá trị sử dụng không còn cần tịch thu tiêu hủy. riêng xe máy BKS 99D1 – 336.16 của bị cáo Long, xong quá trình điều tra Cơ quan điều tra xác định chủ sử dụng là của chị Nguyễn Thị Thuần, sinh năm 1994 là vợ bị cáo Long, không liên quan gì đến hành vi đánh bạc, chiếc xe mày BKS: 99L2 – 3159 của bị cáo Nguyễn Đình H, cũng không liên quan gì đến hành vi đánh bạc và chiếc xe BKS: 99D1 – 400.87 của bị cáo Nguyễn Đình Đ cũng không liên quan gì đến hành vi đánh bạc nên Cơ quan điều tra đã trả lại cho các bị cáo và chủ sở hữu nhận lại là phù hợp. Riêng 10 điện thoại di động các loại của các bị cáo bị thu giữ không liên quan đến hành vi phạm tội cần trả lại bị cáo xong giữ lại để đảm bảo thi hành án.

Đối với hành vi không thực hiện quyết định áp dụng biện pháp hạn chế tập trung đông người, vi phạm quy định trong phòng chống dịch bệnh COVID-19 của Nguyễn Bá H, Nguyến Đắc Ánh, Nguyễn Đình H, Nguyễn Ngọc Suốt, Nguyễn Đình H, Nguyễn Đắc L, Nguyễn Cao Đ, Nguyễn Bá Đ, Nguyễn Văn V, Nguyễn Đình Đ và Nguyễn Đắc V đã bị Chủ tịch UBND huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh đã ban hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính, xử phạt mỗi bị cáo 15.000.000đ.

Đối với Nguyễn Đắc V chỉ ngồi xem các đối tượng đánh bạc mà không tham gia đánh bạc, số tiền Vệ mang theo trên người không dùng vào mục đích đánh bạc, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Yên Phong không xem xét xử lý là phù hợp.

Việc truy tố và mức án do Viện kiểm sát đề nghị đối với các bị cáo là có căn cứ và đúng pháp luật, phù hợp với tính chất mức độ hành vi phạm tội cũng như nhân thân của các bị cáo cần được chấp nhận.

Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Bá H phạm tội “Gá bạc” .

Bị cáo Nguyễn Đắc A, Nguyễn Ngọc Suốt, Nguyễn Đình H, Nguyễn Đình H, Nguyễn Văn V, Nguyễn Cao Đ, Nguyễn Đình Đ, Nguyễn Bá Đ và Nguyễn Đắc L phạm tội “Đánh bạc”.

Áp dụng điểm đ, khoản 1 Điều 322, điểm s khoản 1, 2 Điều 51, khoản 5 Điều 65, Điều 38 Bộ luật hình sự.

Xử phạt Nguyễn Bá H 13 tháng tù. Tổng hợp bản án số 17/2021 ngày 08/02/2021 xử phạt Huy 07 tháng tù treo. Buộc Huy phải chấp hành hình phạt chung cho cả 02 bản án là 20 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 02/6/2021. Nhưng được trừ thời gian bị tạm giữ của bản án trước từ ngày 13/10/2020 đến ngày 22/10/2020.

Áp dụng khoản 1, Điều 321, điểm s khoản 1, 2 Điều 51, điểm h khoản 1, Điều 52, Điều 56, Điều 38 BLHS.

Xử phạt Nguyễn Đắc A 13 tháng tù. Tổng hợp bản án số 20/2021 ngày 02/3/2021 xử phạt Ánh 12 tháng tù. Buộc bị cáo Ánh phải chấp hành hình phạt chung cho cả 02 bản án là 25 tháng tù . Thời hạn tù tính từ ngày 02/6/2021, nhưng được trừ thời gian đã bị tạm giữ của bản án trước từ ngày 14/02/2019 đến 22/02/2019.

Áp dụng khoản 1, Điều 321, điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51, Điều 38 BLHS.

Xử phạt: Nguyễn Bá Đ 09 tháng tù thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án nhưng được trừ thời gian bị tạm giữ từ ngày 02/6/2021 đến ngày 05/6/2021.

Áp dụng khoản 1 Điều 321, điểm s, i khoản 1, 2 Điều 51, Điều 65 BLHS.

Xử phạt: Nguyễn Đình H 10 tháng tù nhưng cho hưởng án treo thời gian thử thách là 20 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Xử phạt: Nguyễn Đình Đ, Nguyễn Văn V, Nguyễn Đình H, Nguyễn Cao Đ, Nguyễn Văn Suốt (Xuất) và Nguyễn Đắc L mỗi bị cáo 08 tháng tù nhưng cho hưởng án treo thời gian thử thách là 16 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo Nguyễn Đình H, Nguyễn Ngọc Suốt (Xuất), Nguyễn Đình H, Nguyễn Văn V, Nguyễn Cao Đ, Nguyễn Đình Đ và Nguyễn Đắc L cho UBND xã  T, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh giám sát quản lý, giáo dục trong thời gian thử thách.

Nếu các bị cáo thay đổi nơi cư trú thì phải chấp hành theo quy định tại khoản 1 điều 69 Luật thi hành án hình sự. Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Toà án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Áp dụng khoản 3 điều 322 BLHS phạt Nguyễn Bá H 20.000.000đ để xung công quỹ nhà nước.

Áp dụng khoản 3 điều 321 BLHS phạt: Nguyễn Ngọc Ánh, Nguyễn Bá Đ, Nguyễn Ngọc Suốt (Xuất), Nguyễn Đình H, Nguyễn Văn V, Nguyễn Cao Đ, Nguyễn Đình Đ và Nguyễn Đắc L mỗi bị cáo 10.000.000đ. để xung công quỹ nhà nước.

Miễn hình phạt bổ xung cho Nguyễn Đình H.

Về vật chứng: Căn cứ điều 47 BLHS, điều 106 BLTTHS. Tịch thu xung công quỹ nhà nước số tiền 10.180.000đ.

Tịch thu tiêu hủy 02 chiếu nhựa màu vàng, đã qua sử dụng; 01 bộ bài tú lơ khơ màu vàng xanh có 52 lá; 01 bộ bài tú lơ khơ màu vàng xanh có 42 lá; 01 bộ bài tú lơ khơ màu xanh có 50 lá; 01 bộ bài tú lơ khơ màu đỏ có 50 lá (đều đã qua sử dụng).

Trả lại bị cáo Nguyễn Văn V 01 điện thoại Samsung NOTE 7 mặt sau màu vàng, số IME11: 352161095318196, số IMEI2: 352162095318194 đã qua sử dụng, Nguyễn Đình Đ 01 điện thoại Nokia màu xanh, số IMEI1: 353147114143979, số IMEI2: 353147119143974 đã qua sử dụng, 2.000.000đ; Nguyễn Bá Đ 01 điện thoại Realme màu xanh, số IMEI1: 633373050455979, số IMEI2: 863373050455960 đã qua sử dụng, 01 điện thoại 0PP0 màu đỏ, số IMEI1: 869347030072958, số IMEI2: 869347030072941 đã qua sử dụng; Nguyễn Bá H 01 điện thoại Iphone X mặt sau màu trắng, số IMEI: 353045092807518 đã qua sử dụng, 370.00đ; Nguyễn Đình H 01 điện thoại Mastel màu đen, số IMEI1:355636046644839, số IMEI2: 355636047144839 đã qua sử dụng; Nguyễn Đắc A 01 điện thoại Nokia màu đen, số IMEI1: 355755101463420, số IMEI2: 355755102463429 đã qua sử dụng; Nguyễn Văn Suốt (Xuất) 01 điện thoại Nokia 1202 màu xanh, số IMEI: 358957/01/267852/9 đã qua sử dụng; Nguyễn Đình H 01 điện thoại 0PP0 màu đen, số IMEI1: 869002030707976, số IMEI2: 869002030707968 đã qua sử dụng; Nguyễn Đăc Long 01 điện thoại Iphone 6 mặt sau màu hồng, số IMEI: 353265073430383 đã qua sử dụng; anh Vệ 400.000đ, xong tạm giữ để đảm bảo thi hành án. Riêng số tiền của anh Vệ không tạm giữ. Hiện các vật chứng trên do chi Cục thi hành án dân sự huyện Yên Phong quản lý.

Áp dụng điều 135 Bộ luật tố tụng hình sự, Nghị quyết số 326/2016/ UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Bị cáo Nguyễn Bá H, Nguyễn Đắc A, Nguyễn Đình H, Nguyễn Ngọc Suốt (Xuất), Nguyễn Đình H, Nguyễn Văn V, Nguyễn Cao Đ, Nguyễn Đình Đ, Nguyễn Bá Đ và Nguyễn Đăc Long mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ án phí HS-ST.

Các bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Bị cáo Vinh, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được kết quả tống đạt bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

205
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội đánh bạc và gá bạc số 133/2021/HS-ST

Số hiệu:133/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Yên Phong - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;