Bản án về tội đánh bạc, tổ chức đánh bạc số 124/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THẠCH THẤT, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 124/2023/HS-ST NGÀY 21/09/2023 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC, TỔ CHỨC ĐÁNH BẠC

 Ngày 21 tháng 9 năm 2023, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Thạch Thất, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 101/2023/TLST- HSST ngày 10 tháng 8 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 99/2023/QĐXXST-HS ngày 21 tháng 8 năm 2023, Quyết định hoãn phiên tòa số: 28/HSST-QĐ ngày 18/9/2023 đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Hữu C, sinh năm 1991 tại huyện Thạch Thất, TP. Hà Nội; Nơi cư trú: Thôn 4, xã Hương N, huyện Thạch Thất, TP. Hà Nội; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 9/12; Giới tính: Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Hữu H và bà Nguyễn Thị Đ; Vợ: Nguyễn Thị M; Con: có 03 con, con lớn nhất sinh năm 2016, con nhỏ nhất sinh năm 2020; Tiền án: Không. Tiền sự: Ngày 25/02/2022, bị UBND xã Hương N xử phạt 2.500.000đ về hành vi Xâm hại sức khỏe của người khác; Nhân thân: Tại Bản án số 109/2018/HS-ST ngày 26/12/2018, bị Tòa án nhân dân huyện Thạch Thất xử phạt 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 24 tháng kể từ ngày tuyên án về tội “Trộm cắp T sản”; Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 05/12/2022 đến ngày 16/5/2023 được thay thế biện pháp ngăn chặn sang cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt.

2. Nguyễn Khắc T, sinh năm 1992 tại huyện Thạch Thất, TP. Hà Nội; Nơi cư trú: Thôn 5, xã Hương N, huyện Thạch Thất, TP. Hà Nội; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 12/12; Giới tính: Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Hữu B và bà Nguyễn Thị X; Vợ: Nguyễn Thị Lan A; Con: Có 02 con, con lớn sinh năm 2020, con nhỏ sinh năm 2021; Tiền án: Không; Tiền sự: Ngày 14/4/2022, bị Công an huyện Thạch Thất xử phạt 1.000.000đ về hành vi Đánh bạc, nộp phạt ngày 15/6/2022; Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 08/02/2023 đến ngày 08/5/2023 được thay thế biện pháp ngăn chặn sang cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt.

3. Phí Đình X, sinh năm 1989 tại huyện Thạch Thất, TP. Hà Nội; Nơi cư trú: Thôn 4, xã Hương N, huyện Thạch Thất, TP. Hà Nội; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 6/12; Giới tính: Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Phí Đình T và bà Nguyễn Thị H; Vợ: Lê Thị Tr; Con: Có 03 con, con lớn nhất sinh năm 2011, con nhỏ nhất sinh năm 2018; Tiền án: Không; Tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 05/12/2022 đến ngày 14/12/2022 được thay thế biện pháp ngăn chặn sang cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt.

4. Vương Văn Đ (Tên gọi khác: Hin) sinh năm 1xxx tại huyện Thạch Thất, TP. Hà Nội; Nơi cư trú: Thôn 2, xã Hương N, huyện Thạch Thất, TP. Hà Nội; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 12/12; Giới tính: Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Họ tên cha: Không có; Họ tên mẹ: Vương Thị V; Vợ, con: Chưa có; Tiền án: Không; Tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 05/12/2022 đến ngày 14/12/2022 được thay thế biện pháp ngăn chặn sang cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt.

5. Đặng Văn H, sinh năm 1996 tại huyện Thạch Thất, TP. Hà Nội; Nơi cư trú: Thôn 2, xã Hương N, huyện Thạch Thất, TP. Hà Nội; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 12/12; Giới tính: Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Đặng Văn H và bà Nguyễn Thị H; Vợ, con: Chưa có; Tiền án: Không; Tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 05/12/2022 đến ngày 14/12/2022 được thay thế biện pháp ngăn chặn sang cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt.

6. Phí Văn L, sinh năm 1998 tại huyện Thạch Thất, TP. Hà Nội; Nơi cư trú: Thôn 2, xã Hương N, huyện Thạch Thất, TP. Hà Nội; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 12/12; Giới tính: Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Phí Văn M và bà Nguyễn Thị B; Vợ: Cấn Thị H; Con: Có 01 con sinh năm 2021; Tiền án: Không; Tiền sự: Không; Bị cáo không bị tạm giữ, tạm giam, bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt.

Người làm chứng:

- A Phí Đình T, sinh năm 1972 (vắng mặt) Nơi cư trú: Thôn 3, xã Hương N, huyện Thạch thất, TP. Hà Nội.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các T liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 00 giờ ngày 05/12/2022, tổ công tác Công an huyện Thạch Thất tuần tra, kiểm soát tại khu vực ngã 3 đường TL419 kéo dài thuộc địa phận xã Tân Xã, huyện Thạch Thất, TP.Hà Nội, tiến hành kiểm tra hành chính đối với Nguyễn Hữu C. Quá trình kiểm tra, C không X trình được giấy tờ tùy thân nên tổ Công tác đã đưa về trụ sở xác minh. Tại trụ sở Cơ quan Công an, tổ công tác đã phát hiện C có hành vi tổ chức đánh bạc bằng hình thức mua, bán số “lô” với Nguyễn Khắc T và Phí Đình X.

Quá trình điều tra đã xác định: Do vụ lợi cá nhân nên Nguyễn Khắc T và Nguyễn Hữu C đã tổ chức bán số lô, đề cho Phí Đình X dựa trên kết quả Xổ số kiến thiết Miền Bắc mở thưởng vào 18 giờ 15 phút hàng ngày. Sau khi cho con bạc mua số lô thì C chọn lọc, những số lô nào đánh lớn thì C chuyển cho Nguyễn Khắc T. Ngược lại, T cũng chuyển lại cho C những số lô đánh nhỏ. Trong thời gian từ ngày 28/11/2022 đến ngày 04/12/2022, C đã 06 lần bán số lô cho Phí Đình X với tổng số tiền là 307.360.000 đồng, trong đó có 03 lần trên 5.000.000 đồng với tổng số tiền là 299.000.000 đồng và 03 lần dưới 5.000.000 đồng với tổng số tiền là 8.360.000 đồng cụ thể như sau:

Các bị cáo X, C, T lựa chọn các số tự nhiên có 02 chữ số từ 00 - 99, sau đó sẽ chọn số lô và số điểm cần đánh. Kết quả số lô sẽ được so với các giải thưởng của chương trình Xổ số kiến thiết Miền Bắc, mở thưởng vào 18 giờ 15 phút hàng ngày. Số lô mua hôm nào thì sẽ so với giải mở thưởng ngày hôm đó. Đối với số lô thì sẽ so với 02 số cuối của các dãy số trong giải. Tỉ lệ đặt cược và trả thưởng các bị cáo quy định như sau: Đối với số lô, thì bị cáo C bán cho bị cáo X với giá là 22.000đ/01 điểm, nếu trúng thưởng, bị cáo X sẽ được bị cáo C trả thưởng 80.000đ/01 điểm. Còn bị cáo C và bị cáo T thoả thuận với giá là 21.900đ/01 điểm lô, nếu trúng thưởng thì sẽ trả thưởng 80.000đ/01 điểm lô. Các bị cáo thỏa thuận sẽ thanh toán số tiền mua bán số lô sau khi có kết quả mở thưởng. Bị cáo X sử dụng T khoản Facebook có tên bằng chữ Hàn Quốc nhắn tin đến T khoản Facebook có tên “Nguyễn Hữu C” của bị cáo C để hỏi mua số lô. Sau khi bán số lô cho bị cáo X thì bị cáo C sử dụng T khoản Zalo có tên “Chí C” để nhắn tin chuyển các số lô đến T khoản Zalo có tên “B” của bị cáo T.

- Hồi 17 giờ 25 phút, ngày 28/11/2022, bị cáo Phí Đình X nhắn tin cho bị cáo C với nội dung “Lô 12.70 mỗi con 50 điểm”, có nghĩa là bị cáo X mua số lô 12 và số lô 70 mỗi số 50 điểm, số tiền mua là 2.200.000 đồng. Bị cáo C nhắn lại “Ok a”, có nghĩa là bị cáo C đồng ý nhận bán cho bị cáo X 02 số lô trên. Sau khi có kết quả, bị cáo X thua nên lúc 18 giờ 30 phút cùng ngày, bị cáo C nhắn tin cho bị cáo X “A âm 2tr2 nhé”, có nghĩa là bị cáo X nợ bị cáo C số tiền 2.200.000đ (Hai triệu hai trăm nghìn đồng). Số tiền đánh bạc lần này là 2.200.000đ (Hai triệu hai trăm nghìn đồng). Bị cáo X đã thanh toán số tiền đánh bạc cho bị cáo C.

- Hồi 17 giờ 36 phút ngày 30/11/2022, bị cáo X tiếp tục nhắn tin cho bị cáo C để mua các số lô với nội dung “Ghi a lô 23;32;20;73 mỗi con 20 điểm”, có nghĩa là bị cáo X mua các số lô 23;32;20;73 mỗi số 20 điểm với tổng số tiền mua là 1.760.000đ (Một triệu bảy trăm sáu mươi nghìn đồng). Bị cáo C đồng ý và nhắn trả lời lại là “Ok a”. Sau khi mở thưởng, bị cáo X thua tất cả số lô trên tương ứng với tổng số tiền là 1.760.000đ (Một triệu bảy trăm sáu mươi nghìn đồng). Số tiền đánh bạc lần này là 1.760.000đ (Một triệu bảy trăm sáu mươi nghìn đồng). Bị cáo X đã thanh toán tiền mua số lô cho bị cáo C.

- Hồi 17 giờ 40 phút ngày 01/12/2022, bị cáo X nhắn tin cho bị cáo C với nội dung “Ghi a lô 23.1000 điểm” nghĩa là bị cáo X mua của bị cáo C số lô 23 là 1000 điểm với số tiền mua là 22.000.000 đồng, bị cáo C đồng ý và trả lời lại là “Ok a nhế”. Sau khi mở thưởng, bị cáo X bị thua với tổng số tiền là 22.000.000đ (Hai mươi hai triệu đồng). Số tiền đánh bạc lần này, X đã thanh toán cho C.

- Hồi 17 giờ 30 phút ngày 02/12/2022, X nhắn tin cho C với nội dung “Báo a lô 23.500 điểm” nghĩa là X đánh số lô 23 với số lượng 500 điểm thành tiền là 11.000.000đ (Mười một triệu đồng). C đồng ý và nhắn tin trả lời “Ok a nhé”. Sau khi mở thưởng lô 23 về 01 lần (nháy), bị cáo X thắng được 500 điểm lô 23, với số tiền là 40.000.000đ (Bốn mươi triệu đồng). Số tiền đánh bạc lần này là 51.000.000 đồng (Năm mươi mốt triệu đồng). Bị cáo C đã thanh toán cho bị cáo X số tiền là 29.000.000 đồng (Hai mươi chín triệu đồng).

- Hồi 17 giờ 37 ngày 03/12/2022, X nhắn tin cho C với nội dung “Ghi cho a lô 23.200 điểm” nghĩa là X mua của C số lô 23 là 200 điểm với số tiền là 4.400.000 đồng, C đồng ý và trả lời lại là “Ok a”. Sau khi mở thưởng thì X thua với tổng số tiền là 4.400.000đ (Bốn triệu bốn trăm nghìn đồng). Số tiền đánh bạc lần này, X đã thanh toán tiền cho C.

- Hồi 16 giờ 41 ngày 04/12/2022, X nhắn tin cho C với nội dung “Ghi a lô 47.3000 điểm; lô 28.1000 điểm” nghĩa là X đánh 3000 điểm số lô 47 và 1000 điểm lô 28, C đồng ý và trả lời lại “Ok nhận 47= 2000đ. Lô 28=1000đ nhé”, có nghĩa là C chỉ nhận của X 2000 điểm lô 47 và 1000 điểm lô 28, tổng là 3000 điểm lô tương ứng với số tiền là 66.000.000đ (Sáu mươi sáu triệu đồng). Hồi 17 giờ 47 ngày 04/12/2022, sau khi bán số lô cho X thì C sử dụng T khoản Zalo “Chí C” của C nhắn tin vào T khoản Zalo “B” của Nguyễn Khắc T với nội dung “Lô 36 = 1450 đ; Lô 47= 1950 đ; Lô 28= 950 đ” có nghĩa là C chuyển cho T số lô 36, số lượng 1450 điểm; lô 47 số lượng 1950 điểm; lô 28 số lượng 950 điểm. Tổng là 4350 điểm, tương ứng với số tiền 95.265.000đ (Chín mươi năm triệu hai trăm sáu mươi năm nghìn đồng). Sau đó T nhắn lại cho C “Lô giàn 62sx35đ”,có nghĩa là T chuyển lại cho C 62 số lô gồm: 00 đến 07; 10 đến 17; 20 đến 27; 30 đến 37;

40 đến 47; 50 đến 55; 80 đến 87; 90 đến 97 mỗi số 35 điểm, tổng là 2.170 điểm, tương ứng với số tiền 47.523.000đ (Bốn mươi bảy triệu năm trăm hai mươi ba nghìn đồng). Cả hai thỏa thuận sẽ thanh toán với nhau sau khi có kết quả mở thưởng.

Kết quả sau mở thưởng: số lô 36 về 01 lần, số lô 28 về 02 lần, tương ứng với số điểm lô trúng là 1450 + (950 x 2) = 3350 điểm, tương ứng số tiền C trúng là 3350 x 80.000đ= 268.000.000đ (Hai trăm sáu mươi tám triệu đồng). Tổng số tiền C đánh bạc với T là 363.265.000 đồng (Ba trăm sáu mươi ba triệu hai trăm sáu mươi năm nghìn đồng). Đối với lô giàn 62 số của T mua của C thì trúng các số 01, 07, 10, 17, 20 (02 lần), 21, 26, 36, 41, 51, 81, 82, 83 (02 lần), 85, 86, 96, tổng cộng có 18 số trúng, tương ứng với số điểm trúng là 18 x 35= 630 điểm; tương ứng T trúng số tiền 630 x 80.000đ = 50.400.000đ (Năm mươi triệu bốn trăm nghìn đồng), tổng số tiền T đánh bạc với C là 97.923.000 đồng( Chín mươi bảy triệu chín trăm hai mươi ba nghìn đồng). Vậy tổng số tiền mà C và T sử dụng để đánh bạc ngày 04/12/2022 là 461.188.000 đồng (Bốn trăm sáu mươi mốt triệu một trăm tám mươi tám nghìn đồng).

Sau khi mở thưởng thì X thắng số lô 28 về 02 lần (02 nháy), nên số lô 28 là trúng 2000 điểm lô, tương ứng với số tiền là (2000 x 80.000đ) = 160.000.000đ (Một trăm sáu mươi triệu đồng). Như vậy tổng số tiền bị cáo X đánh bạc với bị cáo C là 226.000.000 đồng (Hai trăm hai mươi sáu triệu đồng).

Số tiền thu lợi bất chính của các đối tượng được xác định: Bị cáo Nguyễn Hữu C có hành vi bán số lô với bị cáo Phí Đình X các ngày 28/11/2022, 30/11/2022, 01/12/2022, 02/12/2022, 03/12/2022, 04/12/2022 với tổng số tiền là 307.360.000 đồng, trong đó ngày đánh bạc với số tiền lớn nhất là 226.000.000 đồng và ngày đánh bạc với số tiền nhỏ nhất là 1.760.000 đồng. Trong đó có 03 ngày có số tiền đánh bạc trên 5.000.000 đồng, với tổng số tiền là 299.000.000 đồng. Xác định C trong các ngày bán số lô cho bị cáo X là thua 92.640.000 đồng.

Nguyễn Hữu C có hành vi mua bán số lô với Nguyễn Khắc T ngày 04/12/2022 với tổng số tiền đánh bạc là 461.188.000 đồng. Số tiền thu lời bất chính của bị cáo C khi mua bán số lô với bị cáo T là thắng 172.735.000 đồng (Trong đó bị cáo C phải trả cho người đánh số lô 36 số tiền là 84.100.000 đồng).

Số tiền thu lời bất chính của T khi mua bán lô với C là thua 172.735.000 đồng (Trong đó bị cáo T phải T phải trả cho người đánh lô giàn 62 số tiền là 2.877.000 đồng).

Như vậy, tổng số tiền thu lời bất chính của C trong tất cả những lần mua bán số lô với X và T là thua 4.005.000 đồng.

Vương Văn Đ có hành vi bán kèo cá độ bóng đá cho bị cáo Đặng Văn H ngày 29/11/2022 với tổng số tiền đánh bạc là 25.180.000 đồng. Tổng số tiền thu lời bất chính của Đ là thua 1.180.000 đồng.

Quá trình điều tra mở rộng, Cơ quan điều tra đã phát hiện hành vi “Tổ chức đánh bạc” và “Đánh bạc” bằng hình thức mua bán kèo cá độ bóng đá của bị cáo Vương Văn Đ, Đặng Văn H, Phí Đình X, Phí Văn L, cụ thể như sau:

Do vụ lợi cá nhân nên bị cáo Vương Văn Đ đã lên mạng Internet tải các kèo cá độ bóng đá về và đã tổ chức bán kèo cá độ bóng đá cho bị cáo Đặng Văn H dựa trên kết quả các trận đấu bóng đá trong khuôn khổ giải bóng đá World Cup 2022. Trong ngày 29/11/2022 bị cáo Đ đã bán kèo cá độ bóng đá cho bị cáo H với tổng số tiền là 25.180.000 đồng cụ thể như sau:

Cách thức đánh bạc đánh bạc dưới hình thức đánh cá độ bóng đá của các bị cáo như sau: Bị cáo Đ không có trang mạng cá độ bóng đá, qua tìm hiểu và biết được các trận đấu bóng đá vòng chung kết World Cup 2022 trong ngày, bị cáo Đ đã lên mạng Internet để tìm các kèo cá độ bóng đá tải về. Sau đó bị cáo Đ sử dụng sử dụng T khoản Zalo có tên “Đ Văn” nhắn tin đến T khoản Zalo “đặng H” của bị cáo Đặng Văn H để bán các kèo cá cược các trận đấu cho bị cáo H. Kết quả sẽ dựa vào kết quả trận đấu bóng đá mà bị cáo H đã chọn.

- Bị cáo Vương Văn Đ bán kèo cá độ bóng đá với bị cáo Đặng Văn H như sau:

Hồi 01 giờ 03 phút, ngày 29/11/2022, bị cáo Vương Văn Đ sử dụng T khoản zalo “Đ Văn”, đăng ký bằng số thuê bao “0383.251.xxx” nhắn tin đến T khoản zalo “đặng H” của bị cáo Đặng Văn H với nội dung các kèo đánh cá độ bóng đá trong trận đấu giữa đội tuyển Bồ Đào Nha gặp đội tuyển Uruguay. Cụ thể: “Bồ hòa đứt an 85duoi an 90, T trận 2 thua nửa an 90 xiu an 80, H1 bồ hòa thua nửa an 95 dưới ăn 72, H1 T 1 dk nửa an 75 xiu an 95, T góc cả trận 9 hòa ăn 85 xiu an 85, H1 T góc 4 đứt an 95 xiu an 65”. Sau đó bị cáo H nhắn tin cho bị cáo Đ “đánh cả trận sân trên 4tr h1 T 2tr”. Bị cáo Đ nhắn tin lại “ok” là nhận kèo cá độ của bị cáo H, có nghĩa là bị cáo H chọn đội tuyển Bồ Đào Nha cá cược 4.000.000 đồng. Nếu kết thúc trận đấu trong hai hiệp chính tuyển Bồ Đào Nha thắng Uruguay thì bị cáo H thắng 85% tiền đánh bạc. Nếu tuyển Bồ Đào Nha hòa hoặc thua Uruguay thì bị cáo H thua bị cáo Đ toàn bộ số tiền đánh bạc. Kết thúc trận đấu tuyển Bồ Đào Nha thắng 2 - 0 nên bị cáo H thắng 3.400.000 đồng. Tổng số tiền đánh bạc kèo này là 7.400.000 đồng.

Đối với kèo bị cáo H chọn T hiệp 1 cá cược 2.000.000 đồng. Nếu kết thúc hiệp 1 trận đấu có 01 bàn thắng được ghi thì bị cáo Hiến thắng ½ của 75% tiền đánh bạc; hiệp 1 trận đấu có 2 bàn trở lên bị cáo H thắng 75% tiền đánh bạc; nếu không có bàn thắng nào được ghi trong hiệp 1 bị cáo H thua toàn bộ tiền đánh bạc. Kết thúc hiệp 1 không có bàn thắng nào được ghi nên bị cáo H thua bị cáo Đ số tiền 2.000.000 đồng.

Hồi 01 giờ 59 phút cùng ngày, khi trận đấu Bồ Đào Nhà gặp Uruguay chuẩn bị bắt đầu bị cáo H nhắn tin cho bị cáo Đ “T góc bdn cả trận 5tr”, bị cáo Đ nhắn tin lại “ok” nghĩa là nhận kèo cá độ. Kèo này bị cáo H chọn đánh T góc cả trận đấu số tiền cá cược 5.000.000 đồng. Nếu trận đấu kết thúc tổng số đá phạt góc là 9 quả thì cả hai hòa tiền; dưới 9 quả góc thì bị cáo H thua bị cáo Đ toàn bộ số tiền đánh bạc; trên 9 quả góc thì bị cáo H thắng 85% số tiền đánh bạc. Kết thúc trận đấu có 8 quả phát góc nên bị cáo H thua bị cáo Đ số tiền 5.000.000 đồng.

Hồi 02 giờ 47 phút cùng ngày, khi hiệp 2 trận đấu Bồ Đào Nhà gặp Uruguay chuẩn bị bắt đầu lúc này tỉ số hai đội đang hoà 0-0 khi kết thúc hiệp 1, bị cáo H nhắn tin cho bị cáo Đ hỏi tỷ lệ cá độ hiệp 2 của trận đấu Bồ Đào Nha gặp Uruguay. Bị cáo Đ trả lời “H2 bồ hòa thua nửa an 78 dưới an 95; T trận 1 thua nửa an 80 xiu an 94; T góc 10 hòa an 80 xiu an 85”. Bị cáo H nhắn tin cho bị cáo Đ “Sân trên 5tr”, bị cáo Đ nhắn tin lại “ok” nghĩa là đồng ý nhận kèo cá độ. Kèo này bị cáo H chọn Bồ Đào Nha cá cược hiệp 2 của trận đấu cược số tiền 5.000.000 đồng. Nếu hiệp 2 trận đấu kết thúc Bồ Đào Nha thắng cách biệt 1 bàn trở nên thì bị cáo H thắng 78% tiền đánh bạc; Bồ Đào Nha hòa thì bị cáo H thua ½ của 78% tiền đánh bạc; Bồ Đào Nha thua thì bị cáo H thua toàn bộ số tiền đánh bạc. Kết thúc hiệp 2 Bồ Đào Nha thắng 2 - 0 nên bị cáo H thắng 3.900.000 đồng. Tổng số tiền đánh bạc giữa bị cáo Đ và bị cáo H kèo này là 8.900.000 đồng.

Hồi 03 giờ 14 phút cùng ngày, lúc đó khoảng phút 60 của trận đấu khi tỷ số đang là 1 - 0 nghiêng về tuyển Bồ Đào Nha, bị cáo H nhắn tin hỏi bị cáo Đ tỷ lệ cá độ. Bị cáo Đ trả lời “Lúc 1 - 0 Bồ hòa thua nua an 88 duoi an 80; T trận 2 hòa an 88 xiu an 85; T góc 9 đứt an 88 xiu an 80”. Bị cáo H nhắn tin cho bị cáo Đ “vào 1tr sân trên”, bị cáo Đ trả lời “ok” nghĩa là nhận kèo cá độ. Kèo này có nghĩa là khi trận đấu đang là 1 - 0 nghiêng về tuyển Bồ Đào Nha, bị cáo H chọn Bồ Đào Nha cá cược số tiền 1.000.000 đồng. Nếu kết thúc trận đấu tỷ số giữ nguyên thì bị cáo H thua bị cáo Đ ½ của 88% tiền đánh bạc; Nếu tuyển Bồ Đào Nha thua (không tính bàn thắng 1 - 0 đã dẫn trước) thì bị cáo H thua bị cáo Đ toàn bộ tiền đánh bạc. Nếu Bồ Đào Nha thắng cách biệt 2 bàn trở lên thì bị cáo H thắng 88% tiền đánh bạc. Kết thúc trận đấu tỷ số là 2 - 0 nghiêng về Bồ Đào Nha nên bị cáo Đ thua bị cáo H số tiền 880.000 đồng. Tổng số tiền đánh bạc của kèo cá cược này là 1.880.000 đồng.

Như vậy số tiền bị cáo Đ và bị cáo H tham gia trong 05 kèo cá độ trong trận đấu trên với tổng số tiền đánh bạc là 25.180.000 đồng. Bị cáo Đ phải thanh toán cho bị cáo H số tiền thua là 1.180.000 đồng và hiện tại bị cáo Đ chưa thanh toán tiền cho bị cáo H.

- Bị cáo Đặng Văn H mua kèo cá độ bóng đá của bị cáo Phí Văn L sau đó bán cho bị cáo Phí Đình X cụ thể như sau:

Hồi 22 giờ 54 phút, ngày 04/12/2022, Đặng Văn H đang xem đá bóng trận đấu giữa đội tuyển Pháp gặp đội tuyển Ba Lan, lúc này đã đá hết hiệp 01 của trận đấu, thì Phí Đình X sử dụng T khoản Messenger Facebook có tên là chữ Hàn Quốc nhắn tin đến T khoản Messenger Facebook của H có tên “Đặng H” với nội dung: “H 2 kèo thế nào chú, với T xỉu nữa”. Thấy vậy thì H nhắn tin hỏi Phí Văn L về kèo của hiệp 2 giữa trận Pháp và Ba Lan thì L gửi hình ảnh cho H có nội dung “Pháp chấp hoà thua ăn 90 đi dưới ăn 97. T 3 ăn nửa ăn 94 đi sửu ăn 93. T góc 11 hoà ăn 89 đi sửu ăn 89. TS 1-0” sau đó H chuyển hình ảnh có các kèo bóng đá cho X. X nhắn cho H là “xỉu 5t, pháp 2t” có nghĩa là bị cáo X đánh kèo “Xỉu” số tiền 5.000.000 đồng và chọn kèo Pháp thắng trong hiệp 2 với số tiền 2.000.000 đồng. Sau khi nhận được kèo cá độ bóng đá của X thì H nhắn tin toàn bộ kèo cá cược của X đến T khoản Facebook có tên “Phí Văn L” của L. L trả lời “ok” nghĩa là nhận kèo cá độ của H. Đối với kèo xỉu của H đánh với L nếu kết thúc trận đấu mà cả hai đội chỉ ghi được 02 bàn thắng thì H sẽ thắng L 93% số tiền cá cược. Nếu trận đấu kết thúc mà cả hai đội ghi được 3 bàn thắng thì H thua ½ của 93% số tiền mà cá cược. Nếu kết thúc trận đấu mà 2 đội ghi 4 bàn thắng trở lên thì H thua toàn bộ số tiền cá cược. Kết thúc trận đấu tuyển Pháp thắng đội tuyển Ba Lan tỷ số 3 - 1 nên H thua L 5.000.000 đồng. Đối với kèo H chọn Pháp thì lúc đó hết hiệp 1 Pháp đang thắng Ba Lan tỷ số 1- 0. Nếu kết thúc trận đấu Pháp thắng Ba Lan với cách biệt 02 quả trở lên thì H thắng 90% số tiền cá cược. Còn nếu Pháp thua hoặc thắng chỉ với cách biệt 1 bàn thì H thua số tiền cá cược. Kết thúc trận đấu đội tuyển Pháp thắng Ba Lan với tỷ số 3-1, vì vậy kèo này H thắng L số tiền 1.800.000 đồng. Cùng với cách tính như vậy thì X cũng thua H kèo xỉu số tiền 5.000.000 đồng và thắng kèo chọn Pháp số tiền là 1.800.000 đồng. Vậy tổng số tiền đánh bạc giữa X với H và L trong 02 kèo cá cược là 8.800.000 đồng. H và L đã thanh toán số tiền đánh bạc cho nhau bằng cách đưa tiền mặt. X cũng đã thanh toán số tiền đánh bạc cho H.

Như vậy, số tiền Đ thua H là 1.180.000 đồng nhưng Đ chưa thanh toán tiền cho H.

Tang vật thu giữ:

- 01 (một) chiếc điện thoại Iphone 12 ProMax, dung lượng 512GB, vỏ màu xanh, số Imei1: 356732115421115, số Imei2: 356732115566273, bên trong có lắp sim số thuê bao 097173xxxx, đã qua sử dụng của Nguyễn Hữu C.

- 01 (một) điện thoại di động Iphone Xs, dung lượng 256GB, vỏ màu vàng, số Imei1: 357221094488054, số Imei2: 357221094438034, bên trong có lắp sim số thuê bao 096263xxxx, đã qua sử dụng của Phí Đình X.

- 01 (một) điện thoại di động Iphone 11Pro, dung lượng 256 GB, vỏ màu xanh, số Imei1: 353843104249723, số Imei2: 353843104387143, bên trong có lắp sim số thuê bao 0395797127, đã qua sử dụng của Đặng Văn H - 01 (một) điện thoại di động Iphone 11Pro Max, dung lượng 64GB, vỏ dán màu đen, số Imei1: 353907109136027, số Imei2: 353907108807024, bên trong có lắp sim số thuê bao 0383251xxx, đã qua sử dụng của Vương Văn Đ.

- 01 (một) chiếc xe ô tô nhãn hiệu Mazda 3, màu xanh, BKS 30F xxxxx, Số khung: RN2BN4AA6KM005967, Số máy:P520561413.

Ngày 04/5/2023, cơ quan điều tra đã tiến hành trao trả cho chị Lang Thị Minh A, sinh năm 2000 (là vợ của Nguyễn Hữu H) chiếc xe ô tô nhãn hiệu Mazda 3, màu xanh, BKS 30F xxxxx. Sau khi nhận lại T sản, chị Lang Thị Minh A không có ý kiến gì về dân sự.

Tại phiên tòa, tất cả các bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên và đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

Bản cáo trạng số 53/CT-VKS ngày 06/9/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thạch Thất, thành phố Hà Nội, truy tố các bị cáo Nguyễn Hữu C, Nguyễn Khắc T, Vương Văn Đ về tội “tổ chức đánh bạc” theo khoản 1 Điều 322. Truy tố bị cáo Phí Đình X về tội “Đánh bạc” theo điểm b, khoản 2 Điều 321, truy tố Đặng Văn H và Phí Văn L về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 của Bộ luật hình sự năm 2015. Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với các bị cáo và đề nghị:

Áp dụng khoản 1 Điều 322; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38, Điều 58 của BLHS 2015 đối với bị cáo C: Xử phạt Nguyễn Hữu C từ 13 tháng đến 16 tháng tù về tội Tổ chức đánh bạc.

Áp dụng khoản 1 Điều 322; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38, Điều 58 của BLHS 2015 đối với bị cáo T: Xử phạt Nguyễn Khắc T từ 12 tháng đến 15 tháng tù về tội Tổ chức đánh bạc.

Áp dụng khoản 1 Điều 322; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38, Điều 58 của BLHS 2015 đối với bị cáo Đ: Xử phạt Vương Văn Đ từ 09 tháng đến 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 18 tháng đến 24 tháng về tội Tổ chức đánh bạc.

Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g, khoản 1 Điều 52, Điều 38, Điều 58 của BLHS 2015 đối với bị cáo X: Xử phạt Phí Đình X từ 36 tháng đến 38 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ là 05 năm về tội Đánh bạc.

Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g, khoản 1 Điều 52, Điều 38, Điều 58 của BLHS 2015 đối với bị cáo H: Xử phạt Đặng Văn H từ từ 09 tháng đến 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 18 tháng đến 24 tháng về tội Đánh bạc.

Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 58 của BLHS 2015 đối với bị cáo L: Xử phạt Phí Văn L từ 09 tháng đến 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 18 tháng đến 24 tháng về tội Đánh bạc.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điểm a, b khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước: 01 (một) chiếc điện thoại Iphone 12 ProMax, dung lượng 512GB, vỏ màu xanh, số Imei1: 356732115421115, số Imei2: 356732115566273, bên trong có lắp sim số thuê bao 097173xxxx, đã qua sử dụng của Nguyễn Hữu C, 01 (một) điện thoại di động Iphone Xs, dung lượng 256GB, vỏ màu vàng, số Imei1:

357221094488054, số Imei2: 357221094438034, bên trong có lắp sim số thuê bao 096263xxxx, đã qua sử dụng của Phí Đình X, 01 (một) điện thoại di động Iphone 11Pro, dung lượng 256 GB, vỏ màu xanh, số Imei1: 353843104249723, số Imei2:

353843104387143, bên trong có lắp sim số thuê bao 0395797127, đã qua sử dụng của Đặng Văn H, 01 (một) điện thoại di động Iphone 11Pro Max, dung lượng 64GB, vỏ dán màu đen, số Imei1: 353907109136027, số Imei2: 353907108807024, bên trong có lắp sim số thuê bao 0383251xxx, đã qua sử dụng của Vương Văn Đ.

Đề nghị truy thu sung vào ngân sách nhà nước số tiền các đối tượng sử dụng vào việc Tổ chức đánh bạc và đánh bạc: Cụ thể:

Bị cáo Nguyễn Hữu C số tiền 30.360.000đ; Bị cáo Nguyễn Khắc T số tiền 262.963.000đ; Bị cáo Phí Đình X số tiền 247.800.000đ; Bị cáo Vương Văn Đ số tiền 8.180.000đ; Bị cáo Đặng Văn H số tiền 17.000.000đ; Bị cáo Phí Văn L số tiền 5.000.000đ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các T liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Thạch Thất, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thạch Thất, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Tuy nhiên, đối với bị cáo Vương Văn Đ, bị cáo Đ có hành vi “ôm” cá độ của H 05 kèo trong trận bóng đá giữa đội Bồ Đào Nha với đội Uruguay, tổng giá trị đánh bạc giữa Đ và H trong trận đấu này là 25.180.000đ.

Viện kiểm sát căn cứ vào lượng tiền đánh bạc của Đ và H là trên 20.000.000đ để truy tố Đ về hành vi Tổ chức đánh bạc là không đúng hành vi khách quan trong cấu thành tội phạm của tội Tổ chức đánh bạc. Hành vi của Đ là “ôm” cá độ của H chỉ cấu thành tội Đánh bạc theo khoản 1 Điều 321 BLHS, căn cứ Điều 298 BLTTHS 2015, Tòa án xét xử bị cáo về tội Đánh bạc theo khoản 1 Điều 321 của BLHS 2015.

Tại phiên toà các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung vụ án. Lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp với Biên bản kiểm tra hành chính, tang vật của vụ án, các biên bản đối chất và lời khai của người tham gia tố tụng khác. Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận:

Vào các ngày 28/11/2022, 30/11/2022, 01/12/2022, 02/12/2022, 03/12/2022, 04/12/2022 Phí Đình X có hành vi đánh bạc bằng hình thức mua số lô của Nguyễn Hữu C với tổng trị giá là 307.360.000 đồng, trong đó ngày 04/12/2022 có trị giá đánh bạc lớn nhất là 226.000.000 đồng.

Vào ngày 04/12/2022, sau khi bán số lô cho X và một số người khác, Nguyễn Hữu C chuyển một phần cho Nguyễn Khắc T, đồng thời nhận lại của T một số số lô do T bán cho người khác. Tổng trị giá tổ chức đánh bạc của C và T trong ngày 04/12/2022 là 461.188.000 đồng.

Trong hành vi đánh bạc bằng hình thức mua bán số lô này, X thắng 92.640.000 đồng, bị cáo C thua 4.005.000 đồng, bị cáo T thua 172.735.000 đồng.

Cũng trong ngày 04/12/2022 Phí Đình X còn đánh bạc bằng hình thức mua kèo cá độ bóng đá (nhờ Đặng Văn H cá độ giúp) trong trận đấu giữa đội Pháp và Ba Lan tại World Cup 2022. Sau khi nhận kèo cá độ của X, Đặng Văn H chuyển cho Phí Văn L. Trị giá đánh bạc của X, H, L trong lần đánh bạc này là 8.800.000 đồng. X thua 3.200.000 đồng, L thắng 3.200.000 đồng.

Ngày 29/11/2022 H có hành vi đánh bạc bằng hình thức mua kèo cá độ bóng đá của Vương Văn Đ để đánh 05 kèo trong trận bóng đá giữa đội Bồ Đào Nha và đội Uruguay. Tổng trị giá đánh bạc của H và Đ trong trận cá độ này là 25.180.000 đồng, H thắng 1.180.000 đồng nhưng chưa nhận tiền từ Đ.

Hành vi tổ chức đánh bạc trái phép bằng hình thức “ôm” số lô qua điện thoại di động cho X đánh bạc được thua bằng tiền của bị cáo Nguyễn Hữu C và C chuyển lại một phần số lô của X và một số người khác đánh bạc cho T “ôm” lô đã phạm vào tội Tổ chức đánh bạc. Tội danh và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 322 của Bộ luật hình sự 2015.

Hành vi tổ chức đánh bạc trái phép bằng hình thức “ôm” số lô qua điện thoại di động do C chuyển đến của bị cáo Nguyễn Khắc T và T chuyển lại cho C một phần số lô của một số người khác đánh bạc cho C “ôm” lô đã phạm vào tội Tổ chức đánh bạc. Tội danh và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 322 của Bộ luật hình sự 2015.

Hành vi đánh bạc trái phép bằng hình thức “cá độ” “đánh lô” được thua bằng tiền nêu trên của Phí Đình X với số tiền “đánh lô” có giá trị trên 50.000.000đ của Phí Đình X đã phạm vào tội Đánh bạc. Tội danh và hình phạt được quy định tại điểm b khoản 2 Điều 321 của BLHS năm 2015.

Hành vi đánh bạc trái phép bằng hình thức “cá độ” và ôm “cá độ” được thua bằng tiền nêu trên của Vương Văn Đ, Đặng Văn H, Phí Văn L đã phạm vào tội Đánh bạc. Tội danh và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 321 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Vì vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thạch Thất truy tố các bị cáo C, T, X, L, H về các tội danh và điều luật viện dẫn nêu trên là đúng pháp luật. Riêng đối với với bị cáo Đ, Viện kiểm sát truy tố bị cáo về tội Tổ chức đánh bạc là chưa chính xác, theo nhận định nêu trên, hành vi của bị cáo Đ chỉ cấu thành tội Đánh bạc theo quy định tại khoản 1 Điều 321 BLHS năm 2015.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:

Bị cáo Nguyễn Hữu C nhiều lần tổ chức cho X đánh bạc và trực tiếp chuyển lô của X và một số người khác cho T ôm lô, bị cáo X nhiều lần đánh bạc bằng hình thức mua lô và cá độ bóng đá, bị cáo Đ nhiều lần ôm cá độ của H, bị cáo H nhiều lần cá độ của Đ và giúp sức cho bị cáo X cá độ của L nên hành vi của các bị cáo C, X, Đ, H thuộc trường hợp phạm tội 02 lần trở lên nên các bị cáo bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 của BLHS 2015.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa các bị cáo đều thành khẩn khai báo, đều tỏ ra ăn năn hối cải, nên tất cả các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015.

- Bị cáo Phí Văn L phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm i, khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015.

- Bị cáo Vương Văn Đ có mẹ bị mù cả hai mắt, có Giấy xác nhận khuyết tật của UBND xã Hương N, huyện Thạch Thất nên bị cáo Đ được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015.

- Đối với bị cáo Phí Đình X, trong giai đoạn điều tra đã hợp tác để giúp Cơ quan điều tra tìm ra các đồng phạm khác trong vụ án nhanh nhất nên bị cáo X được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015.

- Trước khi mở phiên Tòa bị cáo Vương Văn Đ đã nộp 8.180.000 (Tám triệu một trăm tám mươi nghìn đồng), bị cáo Đặng Văn H đã nộp 5.000.000đ (Năm triệu đồng) và bị cáo Phí Đình X đã nộp 100.000.000đ (Một trăm triệu đồng) tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thạch Thất để sung công quỹ nhà nước nên các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Về vị trí, vai trò của các bị cáo trong vụ án như sau: Bị cáo C làm chủ lô đề trực tiếp “ôm lô” được thua bằng tiền với X và chuyển một phần số lô của X và một số người khác cho T “ôm”, bản thân có 01 tiền sự, phạm tội 02 lần trở lên nên hành vi của bị cáo C có tính chất và mức độ nguy hiểm nhất trong vụ án. Bị cáo T làm chủ lô đề trực tiếp “ôm lô” do C chuyển đến và chuyển lại một phần số lô đã “ôm” của người khác đánh cho C, bản thân 01 có tiền sự nên hành vi của bị cáo T có tính chất và mức độ nguy hiểm thứ hai trong vụ án. Bị cáo X đánh bạc với quy mô giá trị lớn, trên 50.000.000đ, phạm tội 02 lần trở lên nên hành vi của X có tính chất và mức độ nguy hiểm thứ ba trong vụ án. Các bị cáo H, Đ cá độ và ôm cá độ được thua bằng tiền, phạm tội 02 trở lên, hành vi của của các bị cáo có tính chất và mức độ nguy hiểm thứ tư trong vụ án. Bị cáo L ôm cá độ được thua bằng tiền, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên hành vi của bị cáo L có tính chất và mức độ nguy hiểm nhẹ nhất trong vụ án.

Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm trật tự công cộng, gây mất trật tự trị an tại địa phương nên cần xử lý nghiêm minh để cải tạo, giáo dục đối với các bị cáo, phòng ngừa tội phạm và tệ nạn cờ bạc trong đời sống xã hội.

Bị cáo C, bị cáo T phạm tội 02 lần trở lên, bản thân có 01 tiền sự nên cần phải áp dụng hình phạt tù cách ly xã hội đối với các bị cáo một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo nói riêng và phòng ngừa tội phạm nói chung.

Bị cáo X phạm tội 02 lần trở lên, đánh bạc với quy mô lớn giá trị trên 50.000.000đ. Tuy nhiên bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nơi cư trú rõ ràng, ổn định nên không cần thiết phải cách ly các bị cáo khỏi đời sống xã hội mà áp dụng hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo cũng đủ để răn đe và giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho xã hội.

Bị cáo Đ, bị cáo H phạm tội 02 lần trở lên nhưng các lần phạm tội của các bị cáo đều thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, có nơi cư trú rõ ràng, ổn định nên HĐXX xét thấy không cần thiết phải cách ly các bị cáo khỏi đời sống xã hội mà áp dụng hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo cũng đủ điều kiện giáo dục bị cáo thành người tốt.

Đối với L, xét bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nơi cư trú rõ ràng, ổn định nên không cần thiết phải cách ly các bị cáo khỏi đời sống xã hội mà áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ cũng đủ điều kiện giáo dục bị cáo thành người tốt có ích cho xã hội.

Về hình phạt bổ sung: Các bị cáo đều không có việc làm ổn định, kinh tế khó khăn nên HĐXX miễn hình phạt bổ sung cho các bị cáo.

Số tiền sử dụng vào mục đích đánh bạc được xác định và cần phải truy thu sung vào ngân sách nhà nước như sau:

- Đối với số tiền đánh bạc ngày 28/11/2022, bị cáo Phí Đình X mua số lô 12 và số lô 70 mỗi số 50 điểm, số tiền mua là 2.200.000 đồng. Sau khi có kết quả, bị cáo X thua và X đã thanh toán số tiền đánh bạc cho bị cáo C nên cần truy thu của bị cáo C số tiền 2.200.000đ.

- Đối với số tiền đánh bạc ngày 30/11/2022, bị cáo X mua các số lô 23;32;20;73 mỗi số 20 điểm với tổng số tiền mua là 1.760.000đ. Sau khi mở thưởng, bị cáo X thua tất cả số lô trên và X đã thanh toán tiền mua số lô cho bị cáo C nên cần truy thu của bị cáo C số tiền 1.760.000đ.

- Đối với số tiền đánh bạc ngày 01/12/2022, bị cáo X mua của bị cáo C số lô 23 là 1000 điểm với số tiền mua là 22.000.000 đồng. Sau khi mở thưởng, bị cáo X bị thua và X đã thanh toán cho C nên cần truy thu của C số tiền là 22.000.000đ.

- Đối với số tiền đánh bạc ngày 02/12/2022, X đánh số lô 23 với số lượng 500 điểm thành tiền là 11.000.000đ. Sau khi mở thưởng lô 23 về 01 lần (nháy), bị cáo X thắng được 500 điểm lô 23, với số tiền là 40.000.000đ. Bị cáo C đã thanh toán cho bị cáo X số tiền là 29.000.000 đồng nên cần truy thu của bị cáo X số tiền đánh bạc và số tiền C đã thanh toán cho X với tổng số tiền là 40.000.000đ.

- Đối với số tiền đánh bạc ngày 03/12/2022, X mua của C số lô 23 là 200 điểm với số tiền là 4.400.000 đồng. Sau khi mở thưởng thì X thua và đã thanh toán tiền cho C nên cần truy thu của C số tiền là 4.400.000đ.

- Đối với số tiền đánh bạc ngày 04/12/2022, C nhận của X 2000 điểm lô 47 và 1000 điểm lô 28, tổng là 3000 điểm lô tương ứng với số tiền là 66.000.000đ (Sáu mươi sáu triệu đồng). C chuyển cho T số lô 36, số lượng 1450 điểm; lô 47 số lượng 1950 điểm; lô 28 số lượng 950 điểm. Tổng là 4350 điểm, tương ứng với số tiền 95.265.000đ. Sau đó T chuyển lại cho C 62 số lô gồm: 00 đến 07; 10 đến 17;

20 đến 27; 30 đến 37; 40 đến 47; 50 đến 55; 80 đến 87; 90 đến 97 mỗi số 35 điểm, tổng là 2.170 điểm, tương ứng với số tiền 47.523.000đ (Bốn mươi bảy triệu năm trăm hai mươi ba nghìn đồng). Kết quả sau mở thưởng: số lô 36 về 01 lần, số lô 28 về 02 lần, tương ứng với số điểm lô trúng là 1450 + (950 x 2) = 3350 điểm, tương ứng số tiền C trúng là 3350 x 80.000đ= 268.000.000đ. Đối với lô giàn 62 số của T chuyển cho C thì trúng các số 01, 07, 10, 17, 20 (02 lần), 21, 26, 36, 41, 51, 81, 82, 83 (02 lần), 85, 86, 96, tổng cộng có 18 số trúng, tương ứng với số điểm trúng là 18 x 35= 630 điểm; tương ứng T trúng số tiền 630 x 80.000đ = 50.400.000đ.

Đối với số lô 36 đánh 1.450điểm C chuyển cho T và số lô giàn 62 mỗi số 35 mà T chuyển lại cho C, các bị cáo khai nhận là bán cho một người lạ mặt, chưa thanh toán tiền thắng thua, CQĐT đã tách rút T liệu điều tra nên sẽ truy thu khi xác minh được các đối tượng này.

Sau khi đánh bạc, T và C chưa thanh toán cho nhau, X và C đã thanh toán cho nhau nên cần truy thu số tiền đánh bạc lần này của các bị cáo như sau:

Truy thu của X số tiền đánh bạc và số tiền trúng lô là: 3.000đ x 22.000đ/điểm + 160.000.0000đ (tiền trúng lô 28 hai lần 1000đ) – 22.000đ/đ x 1000đ (lô 28) = 204.000.000đ.

- Đối với số tiền đánh bạc ngày 29/11/2022, bị cáo H chọn đội tuyển Bồ Đào Nha cá cược 4.000.000 đồng. Kết thúc trận đấu tuyển Bồ Đào Nha thắng 2 - 0 nên bị cáo H thắng 3.400.000 đồng. Tổng số tiền đánh bạc kèo này là 7.400.000 đồng nên cần truy thu của bị cáo H số tiền 4.000.000đ, truy thu của bị cáo Đ 3.400.000đ.

Ngoài ra, bị cáo H chọn T hiệp 1 cá cược 2.000.000 đồng. Kết thúc hiệp 1 không có bàn thắng nào được ghi nên bị cáo H thua bị cáo Đ số tiền 2.000.000 đồng nên cần truy thu của bị cáo H số tiền 2.000.000đ.

Khi trận đấu Bồ Đào Nhà gặp Uruguay chuẩn bị bắt đầu bị cáo H chọn đánh T góc cả trận đấu số tiền cá cược 5.000.000 đồng. Kết thúc trận đấu H thua bị cáo Đ số tiền 5.000.000 đồng nên cần truy thu của H số tiền là 5.000.0000đ.

Khi hiệp 2 trận đấu Bồ Đào Nhà gặp Uruguay chuẩn bị bắt đầu, bị cáo H chọn Bồ Đào Nha cá cược hiệp 2 của trận đấu cược số tiền 5.000.000 đồng. Kết thúc hiệp 2 Bồ Đào Nha thắng 2 - 0 nên bị cáo H thắng 3.900.000 đồng nên truy thu của bị cáo H số tiền 5.000.000đ, truy thu của bị cáo Đ 3.900.000đ.

Khi tỷ số đang là 1 - 0 nghiêng về tuyển Bồ Đào Nha, bị cáo H chọn Bồ Đào Nha cá cược số tiền 1.000.000 đồng. Kết thúc trận đấu bị cáo Đ thua bị cáo H số tiền 880.000 đồng nên truy thu của bị cáo H số tiền là 1.000.000đ, truy thu của bị cáo Đ số tiền là 880.000đ.

Đối với số tiền cá độ bóng đá ngày 04/12/2022, Đặng Văn H giúp sức cho X đánh kèo “Xỉu” số tiền 5.000.000 đồng và chọn kèo Pháp thắng trong hiệp 2 với số tiền 2.000.000 đồng với L. Kết thúc trận đấu tuyển Pháp thắng đội tuyển Ba Lan tỷ số 3 - 1 nên X thua L 5.000.000 đồng. Đối với kèo X chọn Pháp thì lúc đó hết hiệp 1 Pháp đang thắng Ba Lan tỷ số 1- 0, kết thúc trận đấu, kèo này X thắng L số tiền 1.800.000 đồng. X cũng đã thanh toán số tiền đánh bạc cho L qua H nên cần truy thu số tiền L sử dụng vào việc đánh bạc là 5.000.000đ, truy thu của X số tiền 3.800.000đ.

Tổng cộng, số tiền bị cáo C phải bị truy thu dùng vào việc đánh bạc là:

30.360.000đ. Bị cáo X phải bị truy thu số tiền dùng vào việc đánh bạc là 247.800.000đ. Bị cáo Đ phải bị truy thu số tiền dùng vào việc đánh bạc là 8.180.000đ. Bị cáo H phải bị truy thu số tiền dùng vào việc đánh bạc là 17.000.000đ. Bị cáo L phải bị truy thu số tiền dùng vào việc đánh bạc là 5.000.000đ.

Trước khi mở phiên Tòa bị cáo Vương Văn Đ đã nộp 8.180.000 (Tám triệu một trăm tám mươi nghìn đồng) theo biên lai thu số 0019168 ngày 18/9/2023 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thạch Thất nên HĐXX xác nhận bị cáo Đ đã hoàn thành nghĩa vụ nộp lại số tiền sử dụng vào việc đánh bạc. Bị cáo Đặng Văn H đã nộp 5.000.000đ (Năm triệu đồng), bị cáo còn phải nộp tiếp số tiền bị truy thu là 12.000.000đ (mười hai triệu đồng). Bị cáo Phí Đình X đã nộp 100.000.000đ (Một trăm triệu đồng), bị cáo còn phải nộp tiếp số tiền truy là 147.800.000đ (Một trăm bốn mươi bảy triệu tám trăm nghìn đồng).

Về xử lý vật chứng: Căn cứ khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điểm a, b khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự: 01 (một) chiếc điện thoại Iphone 12 ProMax, dung lượng 512GB, vỏ màu xanh, số Imei1: 356732115421115, số Imei2: 356732115566273, bên trong có lắp sim số thuê bao 097173xxxx, đã qua sử dụng của Nguyễn Hữu C, 01 (một) điện thoại di động Iphone Xs, dung lượng 256GB, vỏ màu vàng, số Imei1: 357221094488054, số Imei2: 357221094438034, bên trong có lắp sim số thuê bao 096263xxxx, đã qua sử dụng của Phí Đình X, 01 (một) điện thoại di động Iphone 11Pro, dung lượng 256 GB, vỏ màu xanh, số Imei1: 353843104249723, số Imei2: 353843104387143, bên trong có lắp sim số thuê bao 0395797127, đã qua sử dụng của Đặng Văn H, 01 (một) điện thoại di động Iphone 11Pro Max, dung lượng 64GB, vỏ dán màu đen, số Imei1: 353907109136027, số Imei2: 353907108807024, bên trong có lắp sim số thuê bao 0383251xxx, đã qua sử dụng của Vương Văn Đ là các công cụ, phương tiện phạm tội cần tịch thu sung vào ngân sách nước.

Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

 Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Hữu C, Nguyễn Khắc T phạm tội “Tổ chức đánh bạc”, Các bị cáo Phí Đình X, Vương Văn Đ, Đặng Văn H và Phí Đình L phạm tội “Đánh bạc”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 322; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38, Điều 58 của BLHS 2015 đối với bị cáo Nguyễn Hữu C.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Hữu C 13 (Mười ba) tháng tù. Bị cáo được từ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 05/12/2022 đến ngày 16/5/2023. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 322; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38, Điều 58 của BLHS 2015 đối với bị cáo Nguyễn Khắc T.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Khắc T 12 (Mười hai) tháng tù. Bị cáo được từ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 08/02/2023 đến ngày 08/5/2023. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 65; Điều 58 của BLHS 2015 đối với bị cáo Phí Đình X.

Xử phạt bị cáo Phí Đình X 36 (Ba mươi sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 5 năm kể từ ngày tuyên án.

Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 65; Điều 58 của BLHS 2015 đối với các bị cáo Đặng Văn H và Vương Văn Đ.

Xử phạt bị cáo Đặng Văn H 12 (Mười hai) tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 24 tháng kể từ ngày tuyên án.

Xử phạt bị cáo Vương Văn Đ 09 (Chín) tháng tù nhưng cho hưởng án treo.

Thời gian thử thách là 18 tháng kể từ ngày tuyên án.

Áp dụng khoản 1 Điều 321, điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 36 của Bộ luật hình sự năm 2015 đối với bị cáo Phí Văn L.

Xử phạt: bị cáo Phí Văn L 09 (Chín) tháng cải tạo không giam giữ. Thời hạn cải tạo không giam giữ tính từ ngày cơ quan, tổ chức được giao giám sát, giáo dục bị cáo nhận được Quyết định thi hành án và bản sao Bản án.

Giao bị cáo Phí Văn L cho UBND xã Hương N, huyện Thạch Thất giám sát, giáo dục trong thời gian chấp hành án. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với UBND xã Hương N giám sát, giáo dục bị cáo.

Giao các bị cáo Phí Đình X, Vương Văn Đ và Đặng Văn H cho UBND xã Hương N, huyện Thạch Thất giám sát, giáo dục. Gia đình các bị cáo có trách nhiệm phối hợp với UBND xã Hương N giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trong thời gian thử thách các bị cáo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc các bị cáo phải chấp hành hình phạt tù của Bản án đã cho hưởng án treo.

Trong trường hợp các bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.

Truy thu sung vào ngân sách nhà nước số tiền bị cáo Nguyễn Hữu C sử dụng vào mục đích đánh bạc là 30.360.000đ (Ba mươi triệu ba trăm sáu mươi nghìn đồng).

Truy thu sung vào ngân sách nhà nước số tiền bị cáo Phí Đình X sử dụng vào mục đích đánh bạc là 247.800.000đ, số tiền này được trừ vào số tiền bị cáo đã nộp là 100.000.000đ theo biên lai thu số 0019208 ngày 18/9/2023 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thạch Thất. Bị cáo còn phải nộp tiếp số tiền 147.800.000đ (Một trăm bốn mươi bảy triệu tám trăm nghìn đồng).

Truy thu sung vào ngân sách nhà nước số tiền bị cáo Đặng Văn H sử dụng vào mục đích đánh bạc là 17.000.000đ, số tiền này được trừ vào số tiền bị cáo đã nộp là 5.000.000đ theo biên lai thu số 0019209 ngày 18/9/2023 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thạch Thất. Bị cáo còn phải nộp tiếp số tiền 12.000.000đ (Mười hai triệu đồng).

Truy thu sung vào ngân sách nhà nước số tiền bị cáo Phí Văn L sử dụng vào mục đích đánh bạc là 5.000.000đ.

Truy thu sung vào ngân sách nhà nước số tiền bị cáo Vương Văn Đ sử dụng vào mục đích đánh bạc là 8.180.000đ, số tiền này được trừ vào số tiền bị cáo đã nộp là 8.180.000đ theo biên lai thu số 0019168 ngày 18/9/2023 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thạch Thất. Bị cáo đã hoàn thành xong nghĩa vụ nộp tiền.

Xử lý vật chứng: Căn cứ khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điểm a, b khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu phát mại sung vào Ngân sách Nhà nước 01 (một) chiếc điện thoại Iphone 12 ProMax, dung lượng 512GB, vỏ màu xanh, số Imei1: 356732115421115, số Imei2: 356732115566273, bên trong có lắp sim số thuê bao 097173xxxx, đã qua sử dụng của Nguyễn Hữu C, 01 (một) điện thoại di động Iphone Xs, dung lượng 256GB, vỏ màu vàng, số Imei1: 357221094488054, số Imei2: 357221094438034, bên trong có lắp sim số thuê bao 096263xxxx, đã qua sử dụng của Phí Đình X, 01 (một) điện thoại di động Iphone 11Pro, dung lượng 256 GB, vỏ màu xanh, số Imei1: 353843104249723, số Imei2: 353843104387143, bên trong có lắp sim số thuê bao 0395797127, đã qua sử dụng của Đặng Văn H, 01 (một) điện thoại di động Iphone 11Pro Max, dung lượng 64GB, vỏ dán màu đen, số Imei1: 353907109136027, số Imei2: 353907108807024, bên trong có lắp sim số thuê bao 0383251xxx, đã qua sử dụng của Vương Văn Đ theo Biên bản giao nhận T sản, tang vật số 107/2023/THA ngày 18/9/2023 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thạch Thất.

Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự, Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án buộc các bị cáo Nguyễn Hữu C, Nguyễn Khắc T, Phí Đình X, Vương Văn Đ, Đặng Văn H, Phí Văn L, mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Quyền kháng cáo: Căn cứ các điều 331, 333 của Bộ luật tố tụng hình sự, các bị cáo có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

49
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội đánh bạc, tổ chức đánh bạc số 124/2023/HS-ST

Số hiệu:124/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thạch Thất - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;