TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐÔNG ANH, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 73/2021/HS-ST NGÀY 04/05/2021 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC
Ngày 04/5/2021 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 63/2021/TLST - HS ngày 13 tháng 4 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 68/2020/QĐXXST-HS ngày 22 tháng 4 năm 2021 đối với các bị cáo:
1. Họ và tên: Chử Quang H, sinh năm:1983 tại: huyện Đ, thành phố Hà Nội; Nơi đăng ký nhân khẩu thường trú: Thôn H, xã Đ, huyện Đ, Thành phố Hà Nội; Nghề nghiệp: Tự do; Trình độ văn hóa: 12/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Con ông: Chử Văn Đ và con bà: Chử Thị T; Vợ: Đỗ Thị Kim D - Có 02 con lớn sinh năm 2009, nhỏ sinh năm 2013; Tiền án, tiền sự: Không;. Bắt tạm giữ, tạm giam: Không. Hiện nay đang áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt tại phiên tòa.
2. Họ và tên: Chử Tiến D, sinh năm:1980 tại: huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội; Nơi đăng ký nhân khẩu thường trú: Thôn H, xã Đ, huyện Đ, Thành phố Hà Nội; Nghề nghiệp: Tự do; Trình độ văn hóa: 3/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Con ông: Chử Văn M và con bà: Nguyễn Thị O; Vợ: Nguyễn Thị Thu T - Có 02 con lớn sinh năm 2002, nhỏ sinh năm 2005; Tiền án, tiền sự: Không;. Bắt tạm giữ, tạm giam: Không. Hiện nay đang áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt tại phiên tòa.
3. Họ và tên: Chử Anh T, sinh năm:1988 tại: huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội; Nơi đăng ký nhân khẩu thường trú: Thôn H, xã Đ, huyện Đ, Thành phố Hà Nội; Nghề nghiệp: Tự do; Trình độ văn hóa: 12/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Con ông: Chử Văn N và con bà: Quản Thị T1; Vợ: Phạm Thị L - Có 02 con lớn sinh năm 2014, nhỏ sinh năm 2016; Tiền án, tiền sự: Không;. Bắt tạm giữ, tạm giam: Không. Hiện nay đang áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt tại phiên tòa.
4. Họ và tên: Phạm Hải N, sinh năm:1977 tại: huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội; Nơi đăng ký nhân khẩu thường trú: Thôn H, xã Đ, huyện Đ, Thành phố Hà Nội; Nghề nghiệp: Tự do; Trình độ văn hóa: 12/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Con ông: Phạm Văn K (đã chết) và con bà: Đỗ Thị T1; Vợ: Ngô Thị Ánh T2 - Có 02 con lớn sinh năm 2002, nhỏ sinh năm 2006; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: có 01 tiền sự: Ngày 09/4/2016, Công an huyện Đông Anh xử lý hành chính về hành vi Đánh bạc. Bắt tạm giữ, tạm giam: Không. Hiện nay đang áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt tại phiên tòa.
5. Họ và tên: Nguyễn Thị Thu T3, sinh năm:1983 tại: huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội; Nơi đăng ký nhân khẩu thường trú: Thôn H, xã Đ, huyện Đ, Thành phố Hà Nội; Nghề nghiệp: Tự do; Trình độ văn hóa: 9/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Con ông: Nguyễn Xuân Đ và con bà: Đào Thị H; Chồng: Chử Tiến D - Có 02 con lớn sinh năm 2002, nhỏ sinh năm 2005; Tiền án, tiền sự: Không; Bắt tạm giữ, tạm giam: Không. Hiện nay đang áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt tại phiên tòa.
6. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Chử Thị P, sinh năm 1977; Nơi cư trú: Thôn H, xã Đ, huyện Đ, Hà Nội; Vắng mặt
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 15h50’ ngày 20/12/2020, Công an xã Đ, huyện Đ kiểm tra hành chính phát hiện tại nhà chị Chử Thị P (sinh năm 1977; Nơi cư trú: Thôn H, xã Đ, huyện Đ, Hà Nội) có 05 đối tượng gồm: Chử Tiến D, Chử Quang H, Chử Anh T, Phạm Hải N và Nguyễn Thị Thu T3 đánh bạc trái phép được thua bằng tiền dưới hình thức chơi “liêng”. Tại chiếu bạc cơ quan công an thu giữ: số tiền 1.840.000 đồng; 01 bộ bài tú lơ khơ 52 quân; 01 thảm màu đỏ. Khi tổ công tác kiểm tra có bà Đoàn Thị H1 (sinh năm 1961; Nơi cư trú: Thôn H, xã Đ, huyện Đ, Hà Nội) chứng kiến. Tổ Công tác tiến hành lập biên bản kiểm tra hành chính, đưa các đối tượng, người liên quan và vật chứng về trụ sở Công an xã Đ làm rõ.
Ngoài ra còn tạm giữ:
- Của Chử Quang H: 500.000 đồng; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo A7 vỏ màu bạc bên trong máy lắp sim số thuê bao 0969402210; 01 xe mô tô Honda Wave BKS: 29Z7 - 43xx, màu sơn đen số khung: 167586, số máy: 0320432.
- Của Chử Tiến D: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy J7880 màu vàng lắp sim số thuê bao 0964912208; 01 xe mô tô Honda Dream BKS: 29-837-Y4, số khung: 0025921, số máy: 0025921; 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe gắn máy số 064040 của xe mô tô BKS: 29-837-Y4.
- Của Chử Anh T: 2.000.000 đồng; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo vỏ màu xanh, bên trong máy lắp sim số 0386969898.
- Của Phạm Hải N: 3.400.000 đồng; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia A105 màu đen lắp sim số thuê bao 0983492083; 01 xe mô tô Honda Airblade BKS: 30Z4-37xx, màu sơn đen, số khung: RLHJF18027Y519544, số máy: JF18E5019637.
- Của Nguyễn Thị Thu T3: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6S màu xám, trong máy lắp sim số thuê bao 0376336235.
- Của chị Đỗ Thị Kim D1 (sinh năm 1986; Nơi cư trú: Thôn H, xã Đ, huyện Đ, Hà Nội; vợ của Chử Quang H): 01 giấy đăng ký mô tô, xe máy số 017328 của xe mô tô BKS: 29Z7-43xx.
Tại Cơ quan điều tra, các bị cáo khai nhận:
Khoảng 11h00’ ngày 20/12/2020, Chử Tiến D, Chử Quang H đến nhà chị Chử Thị P ăn cơm, uống rượu. Khoảng 13h00’ cùng ngày, bà Đoàn Thị H1 là hàng xóm với nhà chị P; đi bộ đến chơi và ngồi uống nước tại bàn uống nước phòng khách tầng 1 cùng với chị P, H và D. Do say rượu, chị P vào phòng tầng 1 ngủ. Khoảng 13h30’ cùng ngày, Chử Anh T và Phạm Hải N đến nhà chị Chử Thị P chơi, ngồi uống nước cùng H, D và bà H1. Khoảng 14h00’ cùng ngày, H rủ D, T, N chơi đánh bạc dưới hình thức đánh “phỏm” được thua bằng tiền, tất cả đồng ý. H lấy ở tủ nhà chị P 01 bộ bài tú lơ khơ gồm 52 quân bài, rồi cùng D, T, N ngồi xuống thảm ở phòng khách tầng 1 đánh bạc. Khoảng 15h00’ cùng ngày, Nguyễn Thị Thu T3 (vợ D) một mình đi bộ đến nhà chị P chơi và xin đánh bạc cùng nên cả nhóm rủ nhau chuyển sang đánh bạc dưới hình thức chơi “liêng” ăn tiền. Khi các bị cáo đang đánh bạc thì bị lượng Công an xã Đ kiểm tra hành chính phát hiện, tạm giữ vật chứng đưa các bị cáo cùng tang vật về trụ sở làm việc.
Hình thức đánh bạc của các bị cáo như sau:
Cách thức đánh “phỏm” như sau: Các bị cáo sử dụng bộ bài tú lơ khơ 52 cây, chia đều cho mỗi người chơi 9 cây, ai đánh đầu thì được chia 10 cây; số quân bài còn lại được đặt vào giữa; tối đa được 4 người chơi, ít nhất là 2 người chơi. Các con bạc đánh theo chiều ngược kim đồng hồ, từng con bạc sẽ bốc bài lên hoặc ăn cây do con bạc liền trước mình đánh để thành “phỏm” gồm ba, bốn cây cùng loại hoặc từ 03 cây liền nhau cùng chất chở lên. Sau khi hạ bài, sẽ tính điểm các cây còn lại trên tay các con bạc để tính thắng thua. Ai ít điểm nhất thì về nhất; ai ít điểm thứ hai thì về nhì, phải trả cho người về nhất 10.000 đồng; ai ít điểm thứ ba thì về vị trí thứ ba, phải trả cho người nhất 20.000 đồng và người nào nhiều điểm nhất thì về vị trí thứ tư, phải trả cho người nhất 30.000 đồng. Ai bị ăn chốt (lượt đánh cuối cùng, vòng thứ 3), trả cho người ăn cây chốt 50.000 đồng. Ai “cháy” không có “phỏm” trên bài thì phải trả cho người nhất 40.000 đồng. Nếu có con bạc được “ù” (tất cả các quân bài đều tạo thành phỏm) thì các con bạc còn lại phải trả 50.000 đồng cho người “ù”.
Cách thức đánh “liêng” như sau:
Các bị cáo sử dụng bộ bài tú lơ khơ 52 cây, chia đều cho mỗi người chơi 3 quân, người chơi cùng sẽ nhiều hơn chơi phỏm, khi số lượng người đánh hết bài thì thôi. Cách tính bài: Sáp" là cước to nhất, tức là có 03 quân bài cùng số, 3 quân Át là to nhất, thấp nhất là 03 số 2; Sau đó đến "Liêng", tức là có 03 quân bài liền nhau nhưng không cùng chất; rồi đến "Ảnh", tức là có 03 quân bài trong bộ người, trong đó có 02 quân bài cùng hàng và 01 quân bài khác hàng; Nếu không có 03 loại trên thì người chơi tính điểm so với nhau. Nếu có “Sáp”, “Liêng”, “Ảnh” và điểm số giống nhau thì quy định chất rô là cao nhất rồi lần lượt là chất cơ, bích cuối cùng là chất tép. Cách tính điểm thì các bài được tính từ 0 đến 9 theo quy ước: át tương đương với 1 điểm, 2 tương đương với 2 điểm ... quân bài 10, J, Q, K tương đương 0 điểm. Quá trình đánh bạc, nếu ai thấy bài có thể thắng được người chơi khác thì có thể tố, nếu ai không tố thì bỏ, người tố thắng; nếu có người theo thì so với người tố ai thắng thì thắng tiền ở gà ở dưới chiếu bạc và được cả tiền tố. Mức sát phạt mỗi người “gà” 10.000 đồng, “tố” cao nhất 50.000 đồng.
Về vai trò của các bị cáo và số tiền sử dụng đánh bạc các bị cáo khai:
Chử Quang H khai: tự ý lấy bài tú lơ khơ tại nhà chị Chử Thị P rồi rủ D, T, N đánh bạc. H mang 400.000 đồng và vay của chị Chử Thị P 500.000 đồng khi ăn cơm trưa (không nói cho Phi biết mục đích vay tiền để đánh bạc) sử dụng để đánh bạc. Khi Cơ quan Công an kiểm tra, H đang hòa tiền. H khai trước đó có tham gia đánh bạc tại nhà P nhưng không nhớ ngày, tháng, mỗi lần H mang theo khoảng 400.000 đồng để đánh bạc cùng với D, T, N.
Chử Tiến D khai: mang theo 500.000 đồng để đánh bạc, khi Cơ quan Công an kiểm tra đang thua khoảng 30.000 đồng. D khai trước đó khi Phi đi làm không ở nhà, D tham gia đánh bạc tại nhà P nhưng không nhớ ngày, tháng, số tiền sử dụng đánh bạc và những người chơi đánh bạc cùng.
Chử Anh T khai: mang theo 2.500.000 đồng để đánh bạc, khi Cơ quan Công an kiểm tra đang thua 270.000 đồng, còn 230.000 đồng dưới chiếu bạc. T khai trước đó khi Phi đi làm không ở nhà; T tham gia đánh bạc tại nhà P cùng với Huy, D, N khoảng 2 đến 3 lần, nhưng không nhớ ngày, tháng; mỗi lần T mang theo khoảng 400.000 đồng để đánh bạc. Tại lời khai hồi 09h30’ ngày 21/12/2020 T khai: trong quá trình chơi T thấy N chơi có thắng được tiền nên có cất vào trong người (BL 185-186). Tuy nhiên, tại các lời khai tiếp theo T thay đổi lời khai, không thừa nhận nhìn thấy N cất tiền vào trong người.
Phạm Hải N khai: mang theo 3.700.000 đồng, bỏ ra 300.000 đồng để đánh bạc, đối với số tiền 3.400.000 đồng cất trên người: ngày 20/12/2020 và lời khai hồi 08h00’, 09h15’ ngày 21/12/2020 N khai nếu thua sẽ sử dụng toàn bộ 3.400.000 đồng để đánh bạc; lời khai hồi 14h30’ ngày 21/12/2020 N thay đổi lời khai và khai nếu thua sẽ chỉ sử dụng tiếp 1.400.000 đồng để đánh bạc; ngày 23/12/2020 và các lời khai tiếp theo N khai nếu thua sẽ chỉ sử dụng tiếp 500.000 đồng để đánh bạc. Lý do N thay đổi lời khai do: Nguồn gốc số tiền 3.700.000 đồng là do bà Đỗ Thị T4 (mẹ bị cáo N) đưa cho N nhờ mua hàng nước ngọt, bánh kẹo để bà T4 bán hàng nên N phải giữ số tiền còn lại để mua hàng cho bà T4. Khi Cơ quan Công an kiểm tra, N đang thắng 160.000 đồng. Ngày 20/12/2020, là lần đầu tiên N đánh bạc tại nhà chị P. Xét thấy, quá trình điều tra N liên tục thay đổi lời khai về việc sử dụng số tiền 3.400.000 đồng;
tuy nhiên bản thân N khai chưa xác định được đại lý sẽ đến mua hàng, thỏa thuận cụ thể; do đó việc thay đổi lời khai của N là không có căn cứ. Căn cứ lời khai ban đầu của N, T và tang vật thu giữ đủ cơ sở kết luận số tiền N sử dụng để đánh bạc là 3.400.000 đồng.
Nguyễn Thị Thu T3 khai: không mang theo tiền, được D (chồng T3) cho 50.000 đồng để đánh bạc, khi Cơ quan Công an kiểm tra đang thua 10.000 đồng; các ván D thắng bạc, D nộp tiền “gà” xuống chiếu bạc cho T3. Ngày 20/12/2020, là lần đầu tiên T3 đánh bạc tại nhà P.
Căn cứ lời khai nhận của các bị cáo và tang vật thu giữ, đủ cơ sở kết luận số tiền các bị cáo dùng để đánh bạc là 7.740.000 đồng.
Đối với chị Chử Thị P không thừa nhận cho Chử Quang H, Chử Tiến D, Chử Anh T, Phạm Hải N và Nguyễn Thị Thu T3 sử dụng địa điểm để đánh bạc ngày 20/12/2020 và những ngày trước đó. Căn cứ tài liệu điều tra, không đủ căn cứ xác định Chử Thị P có hành vi đồng phạm đánh bạc, Cơ quan điều tra không đề cập xử lý.
Đối với bà Đoàn Thị H1: quá trình điều tra xác định bà H1 không tham gia đánh bạc, nên không phạm tội, Cơ quan điều tra không đề cập xử lý.
Đối với lời khai của Chử Quang H, Chử Tiến D, Chử Anh T về việc có tham gia đánh bạc tại nhà P nhưng các bị cáo đều không xác định được ngày, tháng, tổng số tiền sử dụng đánh bạc; ngoài lời khai của các bị cáo, không còn tài liệu nào khác do đó Cơ quan điều tra không có căn cứ làm rõ.
Đối với 01 điện thoại di động Oppo A7 lắp sim số thuê bao 0969402210; 01 điện thoại di động Samsung Galaxy J7880 lắp sim số thuê bao 0964912208; 01 điện thoại di động Oppo lắp sim số 0386969898; 01 điện thoại di động Nokia A105 lắp sim số thuê bao 0983492083; 01 điện thoại di động Iphone 6S lắp sim số thuê bao 0376336235; quá trình điều tra xác định là tài sản hợp pháp của Chử Quang H, Chử Tiến D, Chử Anh T, Phạm Hải N và Nguyễn Thị Thu T3, không sử dụng vào mục đích đánh bạc. Ngày 13/3/2021 Cơ quan điều tra đã Quyết định xử lý đồ vật, tài liệu trao trả cho các bị cáo.
Đối với chiếc xe mô tô Honda Wave BKS: 29Z7 - 43xx, (tạm giữ của bị cáo Chử Quang H); 01 giấy đăng ký mô tô, xe máy số 017328 của xe mô tô BKS: 29Z7-43xx mang tên chị Đỗ Thị Kim D1 (tạm giữ của chị Đỗ Thị Kim D1; vợ bị cáo Huy); quá trình điều tra xác định là tài sản hợp pháp của chị Đỗ Thị Kim D1; chị Dung không biết việc Huy lấy xe đi và tham gia đánh bạc. Ngày 13/3/2021, Cơ quan điều tra đã Quyết định xử lý đồ vật, tài liệu trao trả cho chị D1.
Đối với 01 xe mô tô Honda Dream BKS: 29-837-Y4, (tạm giữ của bị cáo Chử Tiến D); 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe gắn máy số 064040 của xe mô tô BKS: 29-837-Y4 mang tên ông Hoàng Trọng V (sinh năm 1946; Nơi thường trú: Số 80, đường Y, Hà Nội). Quá trình điều tra xác định là tài sản hợp pháp của Chử Tiến D, ngày 20/12/2020, D đi xe mô tô đến nhà chị Chử Thị P mục đích để ăn cơm và chơi; về sau mới tham gia đánh bạc cùng các bị cáo. Ngày 13/3/2021, Cơ quan điều tra đã Quyết định xử lý đồ vật, tài liệu trao trả cho D.
Đối với chiếc xe mô tô Honda Airblade BKS: 30Z4-37xx, màu sơn đen, số khung: RLHJF18027Y519544, số máy: JF18E5019637. Tra cứu BKS: 30Z4-37xx là của xe mô tô hai bánh, nhãn hiệu Honda có số khung: 047411, số máy: 0571225, chủ xe tên Hoàng Thị Như O, địa chỉ: Xóm N, xã C, huyện Đ, Hà Nội. Ngày 01/3/2021, Phòng kỹ thuật hình sự-Công an Thành phố Hà Nội kết luận: xe mô tô Honda Airblade hiện có số khung: RLHJF18027Y519544, số máy: JF18E5019637 là số nguyên thủy; không giám định được BKS: 30Z4-37xx do không có mẫu so sánh. Tra cứu số khung: RLHJF18027Y519544, số máy: JF18E5019637 là của xe mô tô BKS: 29Y2-6510, chủ xe là chị Nguyễn Thúy A, địa chỉ: Tổ 1, phường Y, quận C, Hà Nội; tra cứu xe không nằm trong dữ liệu xe vật chứng. Lấy lời khai chị Hoàng Thị Như O (sinh năm 1983; Nơi cư trú: Thôn L, xã M, huyện Đ, Hà Nội) xác định chiếc xe mô tô Honda Wave BKS: 30Z4-37xx, đăng ký chính chủ tên chị O, xe chị vẫn đang sử dụng, không bị mất BKS. Lấy lời khai chị Nguyễn Thúy A (sinh năm 1982; HKTT: Tổ 1, phường Y, quận C, Hà Nội; chỗ ở: Chung cư Green Stars, phường C, quận B, Hà Nội) trình bày: tháng 7/2017 chị mua và đăng ký chính chủ chiếc xe mô tô Honda Airblade BKS: 29Y2-6510, màu sơn đen, số khung: RLHJF18027Y519544, số máy: JF18E5019637; tháng 11/2007 chị A đã bán xe cho người không quen biết, hiện chị không có đề nghị gì về chiếc xe. Phạm Hải N trình bày: năm 2015, mua chiếc xe mô tô Honda Airblade BKS: 30Z4-37xx, màu sơn đen, số khung: RLHJF18027Y519544, số máy: JF18E5019637 tại khu vực Từ Sơn, Bắc Ninh của người không quen biết, khi mua có giấy đăng ký xe nhưng đã làm mất; ngày 20/12/2020, bị cáo N đi xe đến nhà Chử Thị P chơi và tham gia đánh bạc. Xe mô tô Honda Airblade, màu sơn đen, số khung: RLHJF18027Y519544, số máy: JF18E5019637 và BKS 30Z4-37xx, chuyển Tòa án nhân dân huyện Đông Anh giải quyết theo thẩm quyền.
Đối với số tiền 7.740.000 đồng; 01 bộ bài tú lơ khơ 52 quân; 01 thảm màu đỏ là vật chứng của vụ án chuyển Tòa án nhân dân huyện Đông Anh giải quyết theo thẩm quyền.
Tại bản cáo trạng số 62/CT -VKSĐA ngày 08/4/2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Anh đề nghị truy tố Chử Quang H và đồng phạm về tội: “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa:
* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội giữ quyền công tố tại phiên tòa, sau khi phân tích nội dung, tính chất của vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng:
* Khoản 1 Điều 321; Điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự. Xử phạt:
+ Chử Quang H từ 8 tháng đến 10 tháng tù nhưng cho hưởng án treo.
Thời hạn thử thách từ 16 đến 20 tháng.
+ Phạm Hải N từ 8 tháng đến 10 tháng tù nhưng cho hưởng án treo.
Thời hạn thử thách từ 16 đến 20 tháng.
+ Chử Tiến D từ 7 tháng đến 9 tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời hạn thử thách từ 14 đến 18 tháng.
* Khoản 1 Điều 321; Điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự. Xử phạt:
+ Chử Anh T từ 7 tháng đến 9 tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời hạn thử thách từ 14 đến 18 tháng.
+ Nguyễn Thị Thu T3 từ 6 tháng đến 8 tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời hạn thử thách từ 12 đến 16 tháng.
- Không áp dụng bổ sung là hình phạt tiền đối với các bị cáo.
- Về xử lý vật chứng: Áp dụng: Điều 46, Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 bộ bài tú lơ khơ 52 quân; 01 thảm màu đỏ và 01 BKS 30Z4-37xx; Tịch thu sung công số tiền số tiền 7.740.000 đồng. Trả lại bị cáo N 01 chiếc xe máy Honda Airblade BKS: 30Z4-37xx, màu sơn đen, số khung: RLHJF18027Y519544, số máy: JF18E5019637.
* Các bị cáo đều khai nhận hành vi phạm tội như bản cáo trạng đã nêu. Các bị cáo đều ăn năn, hối cải về hành vi phạm tội của mình và xin được giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên Cơ quan điều tra Công an huyện Đông Anh; Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Anh trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử: Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát đã thực hiện đúng, đủ quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Các bị cáo không có khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về hành vi phạm tội của các bị cáo: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo đều khai nhận: Hồi 14h00’ ngày 20/12/2020, các bị cáo Chử Quang H, Chử Tiến D, Chử Anh T, Phạm Hải N và Nguyễn Thị Thu T3 đã có hành vi đánh bạc trái phép được thua bằng tiền dưới hình thức đánh bài lá tú lơ khơ “đánh phỏm” và “đánh liêng” tại Thôn H, xã Đ, huyện Đ, thành phố Hà Nội thì bị cơ quan công an kiểm tra phát hiện. Tổng số tiền các bị cáo sử dụng để đánh bạc là 7.740.000 đồng. Lời khai nhận của các bị cáo phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, lời khai của người làm chứng, biên bản tạm giữ vật chứng, biên bản bắt người phạm tội quả tang cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.
Do đó, Hội đồng xét xử thấy có đủ căn cứ để kết luận: Các bị cáo Chử Quang H, Phạm Hải N, Nguyễn Thị Thu T3, Chử Tiến D và Chử Anh T đã phạm tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự năm 2015 như bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Anh đã truy tố các bị cáo là có căn cứ và phù hợp pháp luật.
Điều 321 BLHS quy định:
“1. Người nào đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật trị giá từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000… thì bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.” Vụ án có đồng phạm, nhưng không có tổ chức và có tính chất giản đơn vì không có sự cấu kết chặt chẽ giữa các bị cáo. Bị cáo H là người rủ rê các con bạc chơi và lấy công cụ phương tiện để đánh bạc thu lợi nên có vai trò cao nhất. Bị cáo N, D đều mang số tiền nhiều để đánh bạc do đó có vai trò ngang nhau. Còn các bị cáo T và T3 chỉ là các con bạc tham gia đánh bạc nên có vai trò thấp hơn và ngang nhau.
[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
3.1. Về tình tiết tăng nặng: Theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ xác định: Các bị cáo Chử Quang H, Phạm Hải N, Nguyễn Thị Thu T3, Chử Tiến D và Chử Anh T không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
3.2.Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
+ Các bị cáo Chử Quang H, Phạm Hải N, Nguyễn Thị Thu T3, Chử Tiến D và Chử Anh T đều phạm tội lần đầu, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ thuộc điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
+ Bị cáo Chử Quang H có vợ hiện đang bị bệnh hiểm nghèo, mẹ bị cáo là bà Chử Thị T4 là cự thanh niên xung phong và có nhiều thành tích trong hoạt động xã hội được UBND xã Đ tặng Giấy khen. Do đó đây là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại Khoản 2 Điều 51 BLHS.
+ Bị cáo Chử Tiến D có bố đẻ là thương binh hạng 4/4. Do đó đây là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại Khoản 2 Điều 51 BLHS.
+ Bị cáo Phạm Hải N có mẹ đẻ là bệnh binh, có huy hiệu 45 năm tuổi Đảng. Do đó đây là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại Khoản 2 Điều 51 BLHS Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; căn cứ nhân thân của các bị cáo, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, Hội đồng xét xử nhận thấy, các bị cáo Chử Quang H, Phạm Hải N, Chử Tiến D, Chử Anh T và Nguyễn Thị Thu T3 có nhiều tình tiết giảm nhẹ được quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng, các bị cáo phạm tội mang tính chất cơ hội, giản đơn, số tiền đánh bạc không lớn nên không cần thiết phải cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mà để cho các bị cáo được cải tạo ngoài xã hội dưới sự giám sát của chính quyền địa phương cũng đủ tác dụng giáo dục thành công dân tốt và thể hiện sự nhân đạo của pháp luật và phù hợp với Điều 65 Bộ luật hình sự .
[4] Về hình phạt bổ sung: Đối với các bị cáo Chử Quang H, Phạm Hải N, Nguyễn Thị Thu T3, Chử Tiến D và Chử Anh T không có thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt tiền đối với bị cáo.
[5] Về vật chứng vụ án:
+ Đối với 01 xe mô tô Honda Airblade, màu sơn đen, số khung: RLHJF18027Y519544, số máy: JF18E5019637 là xe của bị cáo Phạm Hải N không dùng vào việc phạm tội và không phải là xe tang vật liên quan đến vụ án nào khác nên trả lại cho bị cáo;
+ Đối với số tiền 7.740.000 đồng là tiền các bị cáo dùng để đánh bạc nên tịch thu sung công;
+ Đối với 01 bộ bài tú lơ khơ 52 quân và 01 thảm màu đỏ và 01 BKS 30Z4- 37xx là vật chứng chứng của vụ án không có giá trị nên tịch thu tiêu hủy.
[6] Về án phí hình sự sơ thẩm: Các bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm [7] Về quyền kháng cáo: Người tham gia tố tụng có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố: Các bị cáo Chử Quang H, Phạm Hải N, Nguyễn Thị Thu T3, Chử Tiến D và Chử Anh T đã phạm tội “Đánh bạc”.
Căn cứ vào:
- Khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự đối với các bị cáo H, D, N.
- Khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự đối với các bị cáo T, T3 - Điều 46, Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106; Điều 136; Điều 331; Điều 333;Điều 336; Điều 337 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.
1. Xử Phạt:
1.1. Chử Quang H 10 (mười) tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 20 (hai mươi) tháng, kể từ ngày tuyên án.
1.2. Phạm Hải N 08 (Tám) tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 16 (mười sáu) tháng, kể từ ngày tuyên án.
1.3. Chử Tiến D 08 (Tám) tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 16 (mười sáu) tháng, kể từ ngày tuyên án.
1.4. Chử Anh T 07 (bảy) tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 14 (mười bốn) tháng, kể từ ngày tuyên án.
1.5. Nguyễn Thị Thu T3 06 (Sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 12 (mười sáu) tháng, kể từ ngày tuyên án.
- Giao bị cáo Chử Quang H, Chử Tiến D, Chử Anh T, Phạm Hải N, Nguyễn Thị Thu T3 cho Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện Đ, Thành phố Hà Nội giám sát giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách của bản án.
Trường hợp các bị cáo được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 68 Luật Thi hành án hình sự.
Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm N vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
2. Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với các bị cáo.
3. Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 bộ bài tú lơ khơ 52 quân, 01 thảm màu đỏ và 01 BKS 30Z4-37xx; Trả lại Xe mô tô Honda Airblade, màu sơn đen, số khung: RLHJF18027Y519544, số máy: JF18E5019637 cho bị cáo N (Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng ngày 7/4/2021 giữa Công an huyện Đông Anh và Chi cục thi hành án dân sự huyện Đông Anh); Tịch thu sung công số tiền số tiền 7.740.000 đồng thu giữ tại chiếu bạc và của các bị cáo (Theo Ủy nhiệm chi số 6 ngày 09/4/2021 của Công an huyện Đông Anh).
4. Về án phí hình sự sơ thẩm: Mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm để sung vào ngân sách Nhà nước.
5. Án xử công khai sơ thẩm; Các bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày được giao, nhận bản án hợp lệ. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chỉ có quyền kháng cáo về phần có liên quan.
Bản án về tội đánh bạc số 73/2021/HS-ST
Số hiệu: | 73/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Đông Anh - Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 04/05/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về