Bản án 71/2023/HS-PT về tội đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 71/2023/HS-PT NGÀY 21/09/2023 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 21 tháng 9 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Thái Bình xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 114/2023/TLPT-HS ngày 17 tháng 8 năm 2023 đối với các bị cáo Đào Xuân T, Phạm Thế T1 do có kháng cáo của các bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 31/2023/HS-ST ngày 04 tháng 7 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình.

[1] Các bị cáo có kháng cáo:

[1.1] Đào Xuân T - sinh năm 1988, tại tỉnh Thái Bình; Nơi cư trú: thôn Đ, xã T6, huyện K, tỉnh Thái Bình; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn:

09/12; Con ông Đào Xuân T7 và bà Nguyễn Thị V; vợ là chị Bùi Thị T8; có 01 con.

Tiền án, tiền sự: Không. Nhân thân:

+ Từ tháng 10/2007 đến tháng 12/2008 thực hiện nghĩa vụ quân sự tại Tiểu đoàn 3, Trung đoàn 2, Sư đoàn 395 – Quân khu 3.

+ Bản án số 64/2014/HSST ngày 14/11/2014 của Tòa án nhân dân huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình xử phạt 06 tháng cải tạo không giam giữ tính từ ngày tuyên án trừ đi thời gian đã bị tạm giữ (03 ngày tạm giữ x 3 = 9 ngày cải tạo không giam giữ) về tội “Đánh bạc”, chấp hành xong án phí ngày 02/11/2017, được miễn chấp hành hình phạt tiền đối với số tiền 3.000.000 đồng, đã được xóa án tích.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 01/02/2023, đến ngày 04/02/2023 được thay thế bằng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”.

[1.2] Phạm Thế T1 - sinh năm 1984, tại tỉnh Thái Bình; Nơi cư trú: thôn T9, xã T6, huyện K, tỉnh Thái Bình; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn:

09/12; Con ông Phạm Thế T10 và bà Nguyễn Thị M; vợ là chị Phạm Thị H5; có 04 con.

Tiền án: Bản án số 65/2021/HSST ngày 15/12/2021 của Tòa án nhân dân huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình xử phạt 01 (một) năm tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 02 (hai) năm kể từ ngày tuyên án về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”, bị cáo đã chấp hành xong án phí ngày 24/01/2022, bị cáo chưa được xóa án tích.

Tiền sự: Không.

Nhân thân: Từ tháng 3/2003 đến tháng 01/2006 tham gia nghĩa vụ quân sự tại Tiểu đoàn 88, Trung đoàn 134, Bộ Tư lệnh thông tin liên lạc.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 29/01/2023, đến ngày 07/02/2023 chuyển tạm giam, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thái Bình.

(Các bị cáo có mặt) Trong vụ án còn có các bị cáo: Bùi Công T2, Đào Xuân H2, Phạm Minh T3, Phạm Thế H1, Phạm Ngọc D, Đào Xuân T4, Phạm Ngọc H3, Bùi Công T5; Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: anh Phạm Ngọc H4 - không có kháng cáo, không liên quan đến giải quyết kháng các của các bị cáo Đào Xuân T, Phạm Thế T1 nên Tòa án không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 13 giờ 30 phút ngày 27/01/2023 Đào Xuân T, Đào Xuân T4, Bùi Công T2, Bùi Công T5, Phạm Ngọc H3 đến nhà bà Hoàng Thị L sinh năm 1940, trú cùng thôn Đ, xã T6, huyện K để chơi, uống nước với con trai bà L là Phạm Ngọc S. Tại đây, các đối tượng thấy trên nóc tủ lạnh của nhà bà L có sẵn một bộ bát đĩa, một bộ bài tú lơ khơ nên các đối tượng đã cùng rủ nhau, thống nhất đánh bạc bằng hình thức đánh xóc đĩa được thua bằng tiền. Lúc này các đối tượng ngồi tại thảm và chiếu được trải sẵn tại hiên trước cửa nhà bà L, do không ai biết cắt quân vị nên mọi người nhờ T dùng kéo cắt bốn quân vị từ lá bài tú lơ khơ, lấy một bộ bát đĩa sứ tại hiên nhà bà L rồi cùng với T5, T2, H3, T4 đánh bạc bằng hình thức xóc đĩa được thua bằng tiền, T là người cầm cái và xóc đĩa. Các đối tượng tự quy ước, thống nhất hình thức đánh bạc như sau: T bỏ bốn quân vị vào đĩa sứ, dùng bát sứ úp lên xóc cái rồi đặt xuống chiếu bạc để các đối tượng tham gia đánh bạc sẽ đặt tiền cược vào “cửa chẵn” (là có hai hoặc bốn quân vị ngửa cùng mặt) hoặc “cửa lẻ” (là có một hoặc ba quân vị ngửa cùng một mặt), số tiền đánh bạc sẽ đặt từ 50.000 đồng đến 100.000 đồng, nếu ai đặt cược nhiều hơn sẽ hỏi ý kiến của T; khi T mở bát, người nào đặt cược đúng cửa chẵn hoặc cửa lẻ thì T phải trả cho người đó số tiền tương ứng với số tiền đã đặt cược, còn người nào đặt cược sai thì sẽ mất hết số tiền đã đặt cược, T sẽ được hưởng số tiền này.

Trong khi các đối tượng đang đánh bạc, có Phạm Ngọc D, Đào Xuân H2, Phạm Minh T3; Phạm Thế T1, Phạm Thế H1 đến nhà bà L chơi, thấy các đối tượng trên đang đánh bạc nên đã vào ngồi cùng tham gia đánh bạc. Đến khoảng 14 giờ cùng ngày, phòng Cảnh sát hình sự Công an tỉnh Thái Bình kiểm tra phát hiện, bắt quả tang các đối tượng đang đánh bạc bằng hình thức đánh xóc đĩa được thua bằng tiền, khi đó Đào Xuân T đã bỏ chạy. Đến ngày 01/02/2023, T đến phòng Cảnh sát hình sự Công an tỉnh Thái Bình đầu thú.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Thái Bình thu trên chiếu bạc số tiền 14.860.000 đồng, 04 quân vị, 01 bát sứ, 01 đĩa sứ, 01 bộ bài tú lơ khơ gồm 40 quân, 01 chiếc kéo, 01 tấm thảm, 01 chiếc chiếu cói; ngoài ra quản lý 01 điện thoại di động đã qua sử dụng, loại máy Redmi 7A, màu đen; 01 điện thoại di động đã qua sử dụng, loại máy Galaxy J7 Pro, màu hồng; 01 điện thoại di động đã qua sử dụng, loại máy Samsung Galaxy J7 Prime, màu vàng; 01 điện thoại di động đã qua sử dụng, loại máy Samsung Galaxy A32, màu đen; 01 điện thoại di động đã qua sử dụng, loại máy Nokia 105, màu đen; 01 điện thoại di động đã qua sử dụng, loại máy Iphone 6, màu vàng; 01 điện thoại di động đã qua sử dụng, loại máy Nokia 1280, màu đen. Quản lý trên người các đối tượng gồm: Phạm Thế T1 300.000 đồng; Đào Xuân H2 320.000 đồng; Bùi Công T2 960.000 đồng; Phạm Ngọc D 1.060.000 đồng; Phạm Minh T3 970.000 đồng. Tài liệu điều tra xác định số tiền trên các bị cáo dùng để đánh bạc. Tổng số tiền các đối tượng sử dụng để đánh bạc là 18.470.000 đồng.

Ngoài ra còn có Phạm Ngọc H4, sinh năm 1976; Tạ Hữu H6, sinh năm 1977 và Phạm Ngọc V1, sinh năm 1981 cùng trú thôn Đ, xã T6, huyện K cũng đến nhà bà L và có mặt tại nơi các đối tượng đánh bạc nhưng không tham gia đánh bạc.

Quá trình điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm các bị cáo khai nhận như sau:

- Đào Xuân T mang theo và sử dụng số tiền 1.500.000 đồng để đánh bạc, khi bị bắt thì cầm theo toàn bộ số tiền bỏ chạy nhưng đã bị rơi mất;

- Bùi Công T2 mang theo số tiền 2.100.000 đồng nhưng T2 cho T5 vay 500.000 đồng để đánh bạc, còn T2 sử dụng 1.600.000 đồng để đánh bạc;

- Đào Xuân H2 mang theo và sử dụng số tiền 1.320.000 đồng để đánh bạc;

- Phạm Minh T3 mang theo và sử dụng 1.030.000 đồng để đánh bạc;

- Phạm Thế H1 mang theo và sử dụng số tiền 1.000.000 đồng để đánh bạc;

- Phạm Thế T1 mang theo và sử dụng số tiền 1.000.000 đồng để đánh bạc;

- Phạm Ngọc D mang theo và sử dụng số tiền 800.000 đồng để đánh bạc;

- Đào Xuân T4 mang theo và sử dụng số tiền 500.000 đồng để đánh bạc;

- Phạm Ngọc H3 mang theo và sử dụng số tiền 500.000 đồng sử dụng để đánh bạc;

- Bùi Công T5 không mang theo tiền, nhưng T5 vay của T2 500.000 đồng sử dụng để đánh bạc.

Bản án hình sự sơ thẩm số 31/2023/HSST ngày 04/7/2023 của Tòa án nhân dân huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình đã tuyên bố các bị cáo Đào Xuân T, Phạm Thế T1, Đào Xuân H2, Bùi Công T2, Bùi Công T5, Phạm Minh T3, Phạm Thế H1, Phạm Ngọc D, Đào Xuân T4, Phạm Ngọc H3 phạm tội “Đánh bạc”.

- Về hình phạt:

+ Áp dụng khoản 1 Điều 321, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 17, khoản 2, khoản 3 Điều 35, Điều 38, Điều 47, Điều 50, Điều 58 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Đào Xuân T 01 (một) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án, được trừ đi thời gian tạm giữ từ ngày 01/02/2023 đến ngày 04/02/2023 (được trừ 03 ngày tạm giữ).

+ Áp dụng khoản 1 Điều 321, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 17, khoản 2, khoản 3 Điều 35, Điều 38, Điều 47, Điều 50, Điều 58 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Phạm Thế T1 01 (một) năm tù. Tổng hợp hình phạt 01 năm tù tại Bản án số 65/2021/HSST ngày 15/12/2021 của Tòa án nhân dân huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình, bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 02 (hai) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ, tạm giam 29/01/2023.

Bản án sơ thẩm còn xử phạt bị cáo Đào Xuân H2 07 (bảy) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ, tạm giam 27/01/2023; xử phạt bị cáo Bùi Công T2 09 (chín) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 01 năm 06 tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm 04/7/2023; xử phạt bị cáo Bùi Công T5 08 (tám) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 01 năm 04 tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm 04/7/2023; xử phạt bị cáo Phạm Minh T3 07 (bảy) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 01 năm 02 tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm 04/7/2023; xử phạt bị cáo Phạm Thế H1 07 (bảy) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 01 năm 02 tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm 04/7/2023; xử phạt bị cáo Phạm Ngọc D 09 (chín) tháng cải tạo không giam giữ được trừ đi 24 ngày (tạm giữ từ ngày 27/01/2023 đến ngày 04/02/2023); xử phạt bị cáo Đào Xuân T4 09 (chín) tháng cải tạo không giam giữ; được trừ đi 24 ngày (tạm giữ từ ngày 27/01/2023 đến ngày 04/02/2023); xử phạt bị cáo Phạm Ngọc H3 09 (chín) tháng cải tạo không giam giữ, được trừ đi 24 ngày (tạm giữ từ ngày 27/01/2023 đến ngày 04/02/2023); thời gian cải tạo không giam giữ tính từ ngày cơ quan thi hành án hình sự Công an huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình nhận được Quyết định thi hành án.

Ngoài ra án sơ thẩm còn tuyên về hình phạt bổ sung, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo đối với các bị cáo.

Sau khi xét xử sơ thẩm, trong thời hạn 15 ngày, bị cáo Đào Xuân T kháng cáo xin được hưởng án treo, bị cáo Phạm Thế T1 kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

* Tại phiên tòa phúc thẩm:

- Các bị cáo Đào Xuân T, Phạm Thế T1 giữ nguyên nội dung kháng cáo, khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như án sơ thẩm đã kết luận. Các bị cáo đều đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu kháng cáo, cho các bị cáo được hưởng sự khoan hồng của pháp luật để có cơ hội sửa chữa sai lầm, phấn đấu sống có ích cho gia đình và xã hội.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Bình sau khi phân tích toàn bộ nội dung vụ án, xét tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, phân tích vai trò đồng phạm của bị cáo kháng cáo, xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân cũng như nội dung kháng cáo của các bị cáo, đã đề nghị Hội đồng xét xử:

+ Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Đào Xuân T, giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình về hình phạt đối với bị cáo Đào Xuân T;

+ Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng Hình sự, chấp nhận kháng cáo của bị cáo Phạm Thế T1, sửa một phần bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện Kiến Xương về hình phạt đối với bị cáo, giảm hình phạt cho bị cáo 03 tháng tù.

- Các bị cáo không tranh luận. Khi được nói lời sau cùng, các bị cáo đều thể hiện sự ân hận về hành vi phạm tội của mình. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của kháng cáo: Kháng cáo của các bị cáo Đào Xuân T, Phạm Thế T1 gửi đến Tòa án trong thời hạn luật định là hợp lệ, được chấp nhận xem xét theo trình tự xét xử phúc thẩm.

Xem xét yêu cầu kháng cáo của Đào Xuân T, Phạm Thế T1 thì thấy:

[2] Về hành vi phạm tội của các bị cáo:

Tại phiên tòa, các bị cáo đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như án sơ thẩm đã xác định. Lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp với lời khai của các bị cáo khác trong cùng vụ án, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ cơ quan điều tra đã thu thập hợp pháp có trong hồ sơ vụ án, đủ căn cứ để xác định:

Khoảng 13 giờ 30 phút ngày 27/01/2023, tại khu vực hiên trước cửa nhà bà Hoàng Thị L, sinh năm 1940, ở thôn Đ, xã T6, huyện K, các bị cáo Đào Xuân T, Đào Xuân T4, Bùi Công T2, Bùi Công T5, Phạm Ngọc H3, Phạm Ngọc D, Đào Xuân H2, Phạm Minh T3, Phạm Thế T1 và Phạm Thế H1 đã có hành vi đánh bạc trái phép bằng hình thức xóc đĩa được thua bằng tiền. Quá trình đánh bạc, T là người cầm cái cho các đối tượng đặt tiền vào cửa chẵn hoặc cửa lẻ, mỗi lần từ 50.000 đồng đến 100.000 đồng. Đến khoảng 14 giờ cùng ngày thì bị Phòng Cảnh sát hình sự Công an tỉnh Thái Bình kiểm tra, phát hiện, bắt quả tang thu trên chiếu bạc số tiền 14.860.000 đồng và thu trên người bị cáo T1, H2, T2, D, T3 số tiền 3.610.000 đồng dùng vào việc đánh bạc. Tổng cộng số tiền các bị cáo sử dụng vào mục đích đánh bạc là 18.470.000 đồng.

Các bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, thực hiện tội phạm với lỗi cố ý trực tiếp. Hành vi phạm tội của các bị cáo đã xâm phạm đến trật tự, an toàn công cộng, gây mất trật tự trị an xã hội. Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử các bị cáo Đào Xuân T, Phạm Thế T1 về tội “Đánh bạc” là có căn cứ, đúng pháp luật.

“Điều 321. Tội đánh bạc 1. Người nào đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật trị giá từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 5.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc hành vi quy định tại Điều 322 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 322 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

…”.

[3] Xét nội dung kháng cáo của các bị cáo thấy:

Vụ án có tính chất đồng phạm giản đơn, các bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự đối với số tiền 18.470.000 đồng trong việc tham gia đánh bạc. Bị cáo Đào Xuân T dùng kéo cắt bốn quân vị từ lá bài tú lơ khơ, lấy một bộ bát đĩa sứ và là người cầm cái cùng với Đào Xuân T4, Bùi Công T2, Bùi Công T5, Phạm Ngọc H3 tham gia đánh bạc từ đầu. Sau đó Phạm Ngọc D, Đào Xuân H2, Phạm Minh T3, Phạm Thế T1, Phạm Thế H1 cùng tham gia đánh bạc. Như vậy, bị cáo Đào Xuân T giữ vai trò đầu vụ án, sau đó đến vai trò của các bị cáo Phạm Thế T1, Đào Xuân H2 Đào Xuân T4, Bùi Công T5. Bị cáo Bùi Công T2, Phạm Ngọc H3, Phạm Ngọc D, Phạm Minh T3, Phạm Thế H1 có vai trò thứ ba.

[3.1] Đối với bị cáo T: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

Về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tòa án cấp sơ thẩm xác định bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự vì bị cáo thành khẩn khai báo; bị cáo đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự và có bố đẻ là ông Đào Xuân T7 được tặng thưởng Huân chương chiến công hạng Nhất, Huân chương kháng chiến hạng nhất.

Về nhân thân: Bị cáo đã từng bị xử phạt về hành vi “Đánh bạc” tại Bản án số 64/2014/HSST ngày 14/11/2014 của Tòa án nhân dân huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình. Tuy bị cáo đã được xóa án tích nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học, tiếp tục phạm cùng loại tội. Tại giai đoạn xét xử phúc thẩm bị cáo không đưa ra được tình tiết nào mới làm căn cứ để Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị cáo, cần căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng Hình sự giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo.

[3.2] Đối với bị cáo T1: Bản án số 65/2021/HSST ngày 15/12/2021 của Tòa án nhân dân huyện Kiến Xương xử phạt Phạm Thế T1 01 năm tù nhưng cho hưởng án treo về tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ, thời gian thử thách là 02 năm kể từ ngày tuyên án. Bị cáo chưa chấp hành xong hình phạt lại tiếp tục phạm tội do đó bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng “Tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

Về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tòa án cấp sơ thẩm xác định bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự vì bị cáo thành khẩn khai báo và bị cáo đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự.

Trong vụ án, vai trò của bị cáo T1 xếp sau bị cáo T vì bị cáo đến sau, chỉ tham gia đánh bạc mà không cầm cái xóc đĩa, không chuẩn bị công cụ phạm tội. Bị cáo bị áp dụng tình tiết tăng nặng “tái phạm” nhưng hành vi phạm tội lần này không cùng loại với tội phạm trước, Tòa án cấp sơ thẩm quyết định mức hình phạt cho bị cáo ngang với bị cáo T là chưa phù hợp. Tại giai đoạn xét xử phúc thẩm, bị cáo T1 xuất trình biên lai nộp tiền phạt bổ sung và tiền án phí theo quyết định của bản án sơ thẩm thể hiện ý thức chấp hành bản án của bị cáo. Vì vậy, cần áp dụng điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự, chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt là phù hợp với vai trò, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo.

[4] Về án phí:

- Bị cáo T không được chấp nhận yêu cầu kháng cáo nên phải chịu án phí hình sự phúc thẩm, bị cáo T1 được chấp nhận yêu cầu kháng cáo nên không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

[1] Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng Hình sự: Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Đào Xuân T, giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số 31/2023/HSST ngày 04/7/2023 của Tòa án nhân dân huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình đối với bị cáo Đào Xuân T:

Áp dụng khoản 1 Điều 321, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 17, khoản 2, khoản 3 Điều 35, Điều 38, Điều 47, Điều 50, Điều 58 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Đào Xuân T 01 (một) năm tù về tội “Đánh bạc”, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án, được trừ 03 ngày tạm giữ (từ 01/02/2023 đến 04/02/2023).

[2] Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng Hình sự: Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Phạm Thế T1, sửa một phần bản án hình sự sơ thẩm số 31/2023/HS-ST ngày 04/7/2023 của Tòa án nhân dân huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình về hình phạt đối với bị cáo Phạm Thế T1:

Áp dụng khoản 1 Điều 321, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 17, khoản 2, khoản 3 Điều 35, Điều 38, Điều 47, Điều 50, Điều 58 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Phạm Thế T1 09 (chín) tháng tù về tội “Đánh bạc”.

Tổng hợp hình phạt 01 (một) năm tù tại Bản án số 65/2021/HSST ngày 15/12/2021 của Tòa án nhân dân huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 01 (một) năm 09 (chín) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ, tạm giam 29/01/2023.

[3] Về án phí: Áp dụng điểm b, h khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

- Bị cáo Đào Xuân T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

- Bị cáo Phạm Thế T1 không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án 21/9/2023./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

113
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 71/2023/HS-PT về tội đánh bạc

Số hiệu:71/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;