TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÒA VANG, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
BẢN ÁN 66/2022/HS-ST NGÀY 23/09/2022 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC
Ngày 23 tháng 9 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 51/2022/TLST-HS ngày 07/7/2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 49/2022/QĐXXST-HS ngày 09/8/2022, Quyết định hoãn phiên số 16/2022/QĐST- HS ngày 23/8/2022 và số 17/2022/QĐST-HS ngày 06/9/2022 đối với các bị cáo:
1. Nguyễn Văn T, tên gọi khác: Không - sinh ngày: 20/5/1981 tại thành phố Đà Nẵng. Nơi cư trú: Tổ 04, thôn Thạch Bồ, xã Hòa Phong, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng. Giới tính: Nam. Nghề nghiệp: Lao động phổ thông. Trình độ học vấn: 9/12. Quốc tịch: Việt Nam. Tôn giáo: Không. Dân tộc: Kinh. Con ông: Không xác định, con bà: Võ Thị Huệ (SN 1946). Vợ: Đặng Thị Mỹ Lệ (SN 1984) và có 03 con, lớn nhất sinh năm 2004, nhỏ nhất sinh năm 2013. Tiền án, tiền sự: Chưa.
Bị bắt tạm giữ ngày 17/12/2021, chuyển tạm giam ngày 23/12/2021. Ngày 10/01/2022, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng ra Quyết định thay thế biện pháp ngăn chặn bằng biện pháp bảo lĩnh số 02/QĐ-VKSNDHV ngày 10/01/2022.
Bị cáo tại ngoại, hiện có mặt tại phiên tòa.
2. Trần Thị Kim D, tên gọi khác: Không - sinh ngày: 20/01/1982 tại thành phố Đà Nẵng. Nơi cư trú: Tổ 06, thôn Khương Mỹ, xã Hòa Phong, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng. Giới tính: Nữ. Nghề nghiệp: Lao động phổ thông. Trình độ học vấn: 9/12. Quốc tịch: Việt Nam. Tôn giáo: Không. Dân tộc: Kinh. Con ông: Trần Tĩnh (SN 1958) và bà: Trần Thị Hạnh (SN 1957). Chồng: Dương Thanh Tâm (SN 1976) và có 04 con, lớn nhất sinh năm 2001, nhỏ nhất sinh năm 2015. Tiền án, tiền sự: Chưa.
Bị bắt tạm giữ ngày 17/12/2021, chuyển tạm giam ngày 23/12/2021. Ngày 10/01/2022, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng ra Quyết định thay thế biện pháp ngăn chặn bằng biện pháp bảo lĩnh số 02/QĐ-VKSNDHV ngày 10/01/2022.
Bị cáo tại ngoại, hiện có mặt tại phiên tòa.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Bà Đặng Thị Mỹ L - sinh năm: 1984; Địa chỉ: Thôn Thạch Bồ, xã Hòa Phong, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng. Có mặt.
- Ông Nguyễn Khắc N - sinh năm: 1984; Địa chỉ: Tổ 01, phường Hòa Phát, quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào lúc 17 giờ 30 phút ngày 16/12/2021, trong lúc tuần tra an ninh trên địa bàn thôn Thạch Bồ, xã Hòa Phong, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng, lực lượng Công an huyện Hòa Vang đã phát hiện đối tượng Trần Thị Kim D có biểu hiện nghi vấn nên đã tiến hành kiểm tra và thu giữ của Dung 01 điện thoại di động hiệu Samsung galaxy Z Fold3, bên trong điện thoại có chứa nhiều tin nhắn liên quan đến việc mua bán số đề ăn thua bằng tiền. Trên cơ sở đó, Công an huyện Hòa Vang đã mời D về trụ sở làm việc.
Tại Cơ quan điều tra D khai nhận:
Vào khoảng 16 giờ ngày 15/12/2021, D sử dụng điện thoại di động nêu trên nhắn tin qua messenger cho Nguyễn Văn T để mua số đề với tổng số tiền 112.600.000 đồng, trong đó đài Miền Trung là 56.300.000 đồng và đài Miền Bắc là 56.300.000 đồng. Kết quả đài Miền Trung thắng 111.305.000 đồng, đài Miền Bắc thắng 68.550.000 đồng. Như vậy tổng số tiền đánh bạc trong ngày 15/12/2021 là 292.455.000 đồng, trong đó đài Miền Trung là 167.605.000 đồng, đài Miền Bắc là 124.850.000 đồng.
* Tang vật tạm giữ của Trần Thị Kim D:
- 01 điện thoại di động hiệu Sam sung galaxy Z Fold3, số imei 1:
3510142933924 17, số imei 2: 352191243392413, gắn sim số: 0905.592.815;
- Số tiền 1.600.000 đồng;
- 01 giấy chứng nhận bảo hiểm tự nguyện xe ô tô số 0087309;
Trên cơ sở lời khai nhận tội của D, Cơ quan điều tra đã tiến hành khám xét nơi ở của D và T:
+ Khám xét tại nơi ở của D: Không thu giữ được tài liệu nào.
+ Khám xét tại nơi ở của T thu giữ:
- 01 điện thoại di động hiệu Oppo Reno 5 màu đen, số imei 1: 86554505323 7911, số imei 2: 865545053237903, gắn sim sổ: 0905.592815, gắn các số thuê bao:
0934.844.578, 0931.924.926;
- Số tiền 195.000.000 đồng;
- 01 sợi dây chuyền bằng kim loại màu vàng, dài 67,5 cm;
- 01 sợi dây chuyến màu vàng, dài 59 cm;
- 01 nhẫn kim loại màu vàng, gắn viên đá màu đen, bên trong có ký hiệu TD61050N;
- 06 khâu kim loại màu vàng;
- 07 tờ giấy ghi nội dung mượn tiền;
- 01 tờ giấy ghi nội dung nhận tiền;
- 01 giấy chứng nhận quyền sử dụng đầt số BC803228;
- 01 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số DC909989;
- 01 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số DCO18523;
- 01 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CX733611;
- 01 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số DCO18134.
Quá trình điều tra chứng minh được trước khi bị bắt thì T và D còn thực hiện 01 lần phạm tội vào ngày 14/12/2021, cụ thể như sau:
Ngày 14/12/2021, D nhắn tin cho T mua lô đề đài Miền Trung với số tiền 42.300.000 đồng; đài Miền Bắc với số tiền 44.600.000 đồng. Kết quả đài Miền Trung thắng 20.500.000 đồng, đài Miền Bắc thắng 28.950.000 đồng. Tổng cộng tiền đánh bạc đài Miền Trung là 62.800.000 đồng, đài Miền Bắc là 73.550.000 đồng. Toàn bộ số tiền đánh bạc và thắng cược qua 02 ngày 14 và 15/12/2021, các bị cáo T và D chưa chi trả cho nhau.
* Về xử lý tang tài vật:
Đối với số tiền 196.00.000 đồng; 01 xe ô tô, biển kiểm soát 43A-27421 kèm theo giấy kiểm định và giấy bảo hiểm xe; 01 sợi dây chuyển bằng kim loại màu vàng, dài 67,5 cm; 01 sợi dây chuyền màu vàng, dài 59 cm; 01 nhẫn kim loại màu vàng, gắn viên đá màu đen, bên trong có ký hiệu TD61050N; 06 khâu kim loại màu vàng; 01 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số: BC803228; 01 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số DC909989; 01 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số DC018523; 01 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CX733611; 01 giấy chứng nhận quyền sử dụng đầt số DC018134; 07 tờ giấy ghi nội dung mượn tiền và 01 tờ giấy ghi nội dung nhận tiền. Quá trình điều tra xác định các tang tài vật này không liên quan đến hành vi phạm tội nên Cơ quan điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu.
Đối với 01 điện thoại di động hiệu Sam sung galaxy Z Fold3, số imei 1:
351014293392417, số imei 2: 352191243392413, gắn sim số: 0905.592.815 và 01 điện thoại di động hiệu Oppo Reno 5 màu đen, số imei 1: 865545053237911, số imei 2: 865545053237903, gắn các sim số: 0934.844.578 và 0931.924.926 hiện đang tạm giữ.
* Tại Bản cáo trạng số 53/CT-VKSNDHV ngày 07/7/2022 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng đã truy tố các bị cáo Nguyễn Văn T, Trần Thị Kim D về tội “Đánh bạc” theo điểm b khoản 2 Điều 321 Bộ luật hình sự.
* Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hòa Vang giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị:
Tuyên bố: Các bị cáo Nguyễn Văn T, Trần Thị Kim D phạm tội "Đánh bạc".
+ Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 321; điểm s, v khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 54; Điều 36 Bộ luật hình sự. Xử phạt: Nguyễn Văn T từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng cải tạo không giam giữ, được trừ thời gian đã bị tạm giữ, tạm giam là 24 ngày (từ ngày 17/12/2021 đến ngày 10/01/2022) quy đổi bằng 02 tháng 12 ngày cải tạo không giam giữ.
+ Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 321; điểm s, v khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 54; Điều 36 Bộ luật hình sự. Xử phạt: Trần Thị Kim D từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng cải tạo không giam giữ, được trừ thời gian đã tạm giữ, tạm giam là 24 ngày (từ ngày 17/12/2021 đến ngày 10/01/2022) quy đổi bằng 02 tháng 12 ngày cải tạo không giam giữ.
+ Về hình phạt bổ sung: Căn cứ vào khoản 3 Điều 321 Bộ luật hình sự. Phạt tiền đối với các bị cáo Nguyễn Văn T, Trần Thị Kim D mỗi bị cáo số tiền 40.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng.
+ Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Tuyên:
- Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Sam sung galaxy Z Fold3, số imei 1: 351014293392417, số imei 2: 352191243392413, gắn sim số: 0905.592.815 của Trần Thị Kim D; 01 điện thoại di động hiệu Oppo Reno 5 màu đen, số imei 1: 8655450532379 11, số imei 2: 86554505323 7903, gắn các sim số: 0934.844.578 và 0931.924.926 của Nguyễn Văn T.
- Truy thu đối với Nguyễn Văn T số tiền thắng bạc là 229.305.000 đồng để sung công quỹ nhà nước.
- Truy thu đối với Trần Thị Kim D số tiền đánh bạc 199.500.000 đồng để sung công quỹ nhà nước.
+ Về án phí hình sự sơ thẩm: Các bị cáo Nguyễn Văn T, Trần Thị Kim D phải chịu theo quy định của pháp luật.
* Tại phiên tòa, quá trình xét hỏi các bị cáo Nguyễn Văn T, Trần Thị Kim D đã thừa nhận hành vi phạm tội như trong bản cáo trạng đã truy tố. Các bị cáo nói lời sau cùng: Đã nhận thức rõ hành vi phạm tội của mình, có thái độ ăn năn hối cải và mong Hội đồng xét xử xem xét cho các bị cáo hưởng mức án thấp nhất để các bị cáo sớm hòa nhập cộng đồng, làm ăn lương thiện.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Hòa Vang, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Hòa Vang, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, các bị cáo Nguyễn Văn T, Trần Thị Kim D không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Xét lời khai nhận tội của các bị cáo trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác mà Cơ quan điều tra đã thu thập có tại hồ sơ vụ án. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở khẳng định: Trong các ngày 14/12/2021 và ngày 15/12/2021, Nguyễn Văn T và Trần Thị Kim D đã 04 lần tham gia đánh bạc ăn thua bằng tiền với hình thức lô đề. Trong đó: Ngày 14/12/2021, Tuấn và Dung sử dụng tiền đánh bạc đài Miền Trung là 62.800.000 đồng và đài Miền Bắc là 73.550.000 đồng; ngày 15/12/2021, T và D sử dụng tiền đánh bạc đài Miền Trung là 167.605.000 đồng và đài Miền Bắc là 124.850.000 đồng. Hành vi nêu trên của các bị cáo Nguyễn Văn T, Trần Thị Kim D đã bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng truy tố về tội “Đánh bạc” theo điểm b khoản 2 Điều 321 Bộ luật hình sự như bản cáo trạng số 53/CT-VKSNDHV ngày 07/7/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng đã truy tố là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[3] Xét tính chất vụ án, hành vi phạm tội của các bị cáo thì thấy: Các bị cáo Nguyễn Văn T, Trần Thị Kim D nhận thức rõ việc “Đánh bạc” dưới hình thức ghi đề là hành vi vi phạm pháp luật bị nhà nước ta nghiêm cấm dưới mọi hình thức và đề ra nhiều chủ trương, biện pháp nhằm tuyên truyên, quán triệt sâu rộng trong nhân dân thông qua các phương tiện thông tin đại chúng như: Báo chí, phát thanh, truyền hình… Các cơ quan bảo vệ pháp luật cũng đã đưa ra xét xử nghiêm khắc trừng trị loại tội phạm này nhằm răn đe phòng ngừa nhưng các bị cáo vẫn bất chấp, xem thường pháp luật, muốn có tiền mà không phải từ lao động chính đáng nên đã phạm tội. Do vậy, cần xử phạt các bị cáo một mức án tương xứng với hành vi phạm tội để nhằm giáo dục riêng và phòng ngừa chung.
[4] Tuy nhiên xét thấy, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; có nhân thân tốt chưa có tiền án, tiền sự; bị cáo Nguyễn Văn T đã có thành tích xuất sắc trong công tác phong chống dịch bệnh Covid được UBND huyện Hòa Vang và UBND xã Hòa Phong tặng giấy khen năm 2020 - 2021; có mẹ ruột tham gia kháng chiến chống Mỹ cứu nước được tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng III, chiến sĩ Cách mạng bị địch bắt tù đày côn đảo, thương binh hạng 4/4 và là Hội viên tù yêu nước thành phố Đà Nẵng; bị cáo Trần Thị Kim D đã có những đóng góp tích cực trong chương trình “Sẽ chia yêu thương - Ấm áp tình phụ nữ” được Ban chấp hành hội liên hiệp phụ nữ huyện Hoà Vang tặng giấy khen năm 2020, có cha tham gia chiến trường K được tặng kỷ niệm chương, gia đình có công với nước. Đây là các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s, v khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự để Hội đồng xét xử xem xét mức hình phạt cho các bị cáo khi lượng hình. Các bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng “Phạm tội nhiều lần” theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.
Xét thấy các bị cáo Nguyễn Văn T, Trần Thị Kim D có các tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự nên Hội đồng xét xử áp dụng Điều 54 Bộ luật hình sự xử phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt cho các bị cáo là có cơ sở.
Hội đồng xét xử xét thấy các bị cáo Nguyễn Văn T, Trần Thị Kim D có nơi cư trú rõ ràng nên không cần thiết phải cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội mà áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ giao các bị cáo về Ủy ban nhân dân nơi các bị cáo cư trú để giám sát, giáo dục cũng có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung theo như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hòa Vang tại phiên tòa. Trong thời gian chấp hành án cải tạo không giam giữ, khấu trừ một phần thu nhập của các bị cáo mỗi tháng 500.000 đồng để sung công quỹ nhà nước.
[5] Về hình phạt bổ sung: Hội đồng xét xử xét thấy cần áp dụng khoản 3 Điều 321 Bộ luật hình sự, phạt tiền đối với mỗi bị cáo số tiền 50.000.000 đồng.
[6] Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Tuyên:
- Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Sam sung galaxy Z Fold3, số imei 1: 351014293392417, số imei 2: 352191243392413, gắn sim số: 0905.592.815 của Trần Thị Kim D.
- Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Oppo Reno 5 màu đen, số imei 1: 8655450532379 11, số imei 2: 86554505323 7903, gắn các sim số: 0934.844.578 và 0931.924.926 của Nguyễn Văn T.
- Truy thu đối với Nguyễn Văn T số tiền thắng bạc là 229.305.000 đồng để sung công quỹ nhà nước.
- Truy thu đối với Trần Thị Kim D số tiền đánh bạc 199.500.000 đồng để sung công quỹ nhà nước.
- Đối với số tiền 196.00.000 đồng; 01 xe ô tô, biển kiểm soát 43A-27421 kèm theo giấy kiểm định và giấy bảo hiểm xe; 01 sợi dây chuyển bằng kim loại màu vàng, dài 67,5 cm; 01 sợi dây chuyền màu vàng, dài 59 cm; 01 nhẫn kim loại màu vàng, gắn viên đá màu đen, bên trong có ký hiệu TD61050N; 06 khâu kim loại màu vàng; 01 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số: BC803228; 01 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số DC909989; 01 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số DC018523; 01 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CX733611; 01 giấy chứng nhận quyền sử dụng đầt số DC018134; 07 tờ giấy ghi nội dung mượn tiền và 01 tờ giấy ghi nội dung nhận tiền. Quá trình điều tra xác định các tang tài vật này không liên quan đến hành vi phạm tội nên Cơ quan điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu là có cơ sở.
[7] Về án phí hình sự sơ thẩm: Các bị cáo Nguyễn Văn T, Trần Thị Kim D mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố: Các bị cáo Nguyễn Văn T, Trần Thị Kim D phạm tội "Đánh bạc".
1. Căn cứ vào: điểm b khoản 2 Điều 321; điểm s, v khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 54; Điều 36 Bộ luật hình sự.
+ Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn T 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng cải tạo không giam giữ, được trừ thời gian đã bị tạm giữ, tạm giam là 24 (hai mươi bốn) ngày (từ ngày 17/12/2021 đến ngày 10/01/2022) quy đổi bằng 02 (hai) tháng 12 (mười hai) ngày cải tạo không giam giữ, hình phạt cải tạo không giam giữ còn lại buộc bị cáo phải chấp hành là 27 (hai mươi bảy) tháng 18 (mười tám) ngày. Thời gian cải tạo không giam giữ được tính kể từ ngày cơ quan, tổ chức được giao giám sát, giáo dục người bị kết án nhận được quyết định thi hành án.
Giao bị cáo Nguyễn Văn T cho Ủy ban nhân dân xã Hòa Phong, huyện Hoà Vang, thành phố Đà Nẵng để giám sát, giáo dục. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với Ủy ban nhân dân xã Hòa Phong, huyện Hoà Vang, thành phố Đà Nẵng trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.
Trong thời gian chấp hành án cải tạo không giam giữ, khấu trừ một phần thu nhập của bị cáo Nguyễn Văn T mỗi tháng 500.000 đồng (năm trăm nghìn đồng) để sung công quỹ nhà nước.
+ Về hình phạt bổ sung: Căn cứ khoản 3 Điều 321 Bộ luật hình sự. Phạt tiền đối với bị cáo Nguyễn Văn T số tiền 50.000.000 đồng (năm mươi triệu đồng).
2. Căn cứ vào: điểm b khoản 2 Điều 321; điểm s, v khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 54; Điều 36 Bộ luật hình sự.
+ Xử phạt: Bị cáo Trần Thị Kim D 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng cải tạo không giam giữ, được trừ thời gian đã bị tạm giữ, tạm giam là 24 (hai mươi bốn) ngày (từ ngày 17/12/2021 đến ngày 10/01/2022) quy đổi bằng 02 (hai) tháng 12 (mười hai) ngày cải tạo không giam giữ, hình phạt cải tạo không giam giữ còn lại buộc bị cáo phải chấp hành là 27 (hai mươi bảy) tháng 18 (mười tám) ngày. Thời gian cải tạo không giam giữ được tính kể từ ngày cơ quan, tổ chức được giao giám sát, giáo dục người bị kết án nhận được quyết định thi hành án.
Giao bị cáo Trần Thị Kim D cho Ủy ban nhân dân xã Hòa Phong, huyện Hoà Vang, thành phố Đà Nẵng để giám sát, giáo dục. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với Ủy ban nhân dân xã Hòa Phong, huyện Hoà Vang, thành phố Đà Nẵng trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.
Trong thời gian chấp hành án cải tạo không giam giữ, khấu trừ một phần thu nhập của bị cáo Trần Thị Kim D mỗi tháng 500.000 đồng (năm trăm nghìn đồng) để sung công quỹ nhà nước.
+ Về hình phạt bổ sung: Căn cứ khoản 3 Điều 321 Bộ luật hình sự. Phạt tiền đối với bị cáo Trần Thị Kim D số tiền 50.000.000 đồng (năm mươi triệu đồng).
3. Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Tuyên:
- Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 (một) điện thoại di động hiệu Sam sung galaxy Z Fold3, số imei 1: 351014293392417, số imei 2:
352191243392413, gắn sim số: 0905.592.815 của Trần Thị Kim D.
- Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 (một) điện thoại di động hiệu Oppo Reno 5 màu đen, số imei 1: 8655450532379 11, số imei 2: 86554505323 7903, gắn các sim số: 0934.844.578 và 0931.924.926 của Nguyễn Văn T.
(Vật chứng hiện nay Chi cục thi hành án dân sự huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng đang quản lý theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 20/7/2022).
- Truy thu đối với Nguyễn Văn T số tiền 229.305.000 đồng (hai trăm hai mươi chín triệu, ba trăm lẽ năm nghìn đồng) để sung công quỹ nhà nước.
- Truy thu đối với Trần Thị Kim D số tiền 199.500.000 đồng (một trăm chín mươi chín triệu, năm trăm nghìn đồng) để sung công quỹ nhà nước.
4. Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ vào Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; các Điều 23, 26, 27 của Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
+ Các bị cáo Nguyễn Văn T, Trần Thị Kim D mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng).
5. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Đặng Thị Mỹ Lệ có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Khắc Ngọc vắng mặt được quyền kháng cáo cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được trích sao bản án.
Bản án về tội đánh bạc số 66/2022/HS-ST
Số hiệu: | 66/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Hoà Vang - Đà Nẵng |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 23/09/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về