Bản án về tội đánh bạc số 65/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHONG THỔ, TỈNH LAI CHÂU

BN ÁN 65/2022/HS-ST NGÀY 21/06/2022 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 21 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Phong Thổ, tỉnh Lai Châu mở phiên toà xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số:

62/2022/TLST-HS, ngày 05 tháng 5 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 66/2022/QĐXXST-HS, ngày 08 tháng 6 năm 2022 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Trần Thị H. Sinh năm: 1997, tại huyện Q, tỉnh Thái Bình; giới tính: Nữ; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn Q, xã Q, huyện Q, tỉnh Thái Bình; nơi đăng ký tạm trú và nơi ở hiện nay: Bản P, xã H, huyện P, tỉnh Lai Châu; Quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 12/12; bố đẻ: Trần Văn C, sinh năm 1966; mẹ đẻ: Nguyễn Thị C, sinh năm 1973; chồng: Chương Việt Đ, sinh năm 1993. Bị cáo có 02 con, con lớn nhất sinh năm 2019, con nhỏ nhất sinh năm 2021; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo được áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 17/01/2022 cho đến nay, có mặt tại phiên tòa.

2. Họ và tên: Chương Việt Đ. Sinh năm: 1993, tại huyện Q, tỉnh Thái Bình; giới tính: Nam; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn Q, xã Q, huyện Q, tỉnh Thái Bình; nơi đăng ký tạm trú và nơi ở hiện nay: Bản P, xã H, huyện P, tỉnh Lai Châu; Quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 12/12; bố đẻ: Chương Văn P, sinh năm 1960; mẹ đẻ: Vũ Thị B, sinh năm 1968; vợ: Trần Thị H, sinh năm 1997. Bị cáo có 02 con, con lớn nhất sinh năm 2019, con nhỏ nhất sinh năm 2021; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt, tạm giữ từ ngày 11/01/2022 đến ngày 17/01/2022, hiện đang được áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú, có mặt tại phiên tòa.

Ngưi có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

- Anh Lý A Y, sinh năm 1995, địa chỉ: Bản P, xã H, huyện P, tỉnh Lai Châu, vắng mặt không có lý do.

- Anh Lý A X, sinh năm 1983, địa chỉ: Bản P, xã H, huyện P, tỉnh Lai Châu, vắng mặt không có lý do.

- Anh Giàng A N, sinh năm 1994, địa chỉ: Bản P, xã H, huyện P, tỉnh Lai Châu, vắng mặt không có lý do.

- Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1989, địa chỉ: Tổ dân phố H, thị trấn P, huyện P, tỉnh Lai Châu, vắng mặt không có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 05/01/2022, Trần Thị H ký hợp đồng làm đại lý cho công ty TNHH MTV Xổ số kiến thiết Lai Châu (bản xổ số và ghi lô tô Nhà nước). Từ khoảng 16 giờ, ngày 05/01/2022, H bắt đầu mang bàn và ghế nhựa ra ngồi tại bãi đất trống tại bản Pô Tô, xã Huổi Luông để ghi xổ số và lô tô Nhà nước. Quá trình H ghi lô tô và bán vé xổ số thì Chương Việt Đ, là chồng của H, ra ngồi cạnh H để giúp H thu tiền và trả tiền thừa cho khách.

Do chiều ngày 05/01/2022, khi ghi xổ số và lô tô Nhà nước thì có nhiều người khách đến hỏi H về việc có nhu cầu ghi số lô, số đề ngoài Nhà nước, nên đến khoảng hơn 20 giờ cùng ngày, H đã nảy sinh ý định và bàn với chồng là Chương Việt Đ về việc tự nhận ghi số lô điểm, số đề ngoài Nhà nước để kiếm thêm thu nhập, Đ đồng ý. Đ hướng dẫn H cắt giấy trắng trong một quyển vở ra, làm 02 loại: loại to kích thước 8x8cm; loại nhỏ kích thước 8x4cm, rồi đóng dấu đại lý của H (H 09-478) vào để làm cáp lô đề. Đ đặt in sẵn tờ A4 trên đó có in sẵn chữ “ngày....tháng....năm....” và 01 bảng kẻ ô có đánh số từ 00 đến 99 và hướng dẫn H cách ghi phơi. H và Đ thống nhất ghi số lô, số đề trái phép với khách và thực hiện bằng phương thức mua bán trực tiếp do H, Đ làm chủ nhằm thu lợi bất chính. Hình thức đánh bạc ghi số lô, số đề trái phép và đối chiếu trúng thưởng cụ thể như sau:

Đối với “số đề”: Có hai loại, gồm “loại 02 số” và “loại 03 càng” người chơi chọn mua một hoặc nhiều cặp hai con số bất kỳ (từ 00 đến 99) đối với “loại 02 số” và chọn mua ba con số (từ 000 đến số 999) đối với “loại 03 càng”, giá trị mỗi con số mua bao nhiêu là tùy thuộc vào người chơi, thấp nhất là 1000 đồng. Việc quy ước cách thức chơi và đối chiếu trúng thưởng trong việc mua bán các số đề được thống nhất như sau: Lấy hai số cuối đối với “loại 02 số ”, ba số cuối đối với “loại 03 càng” của “Giải đặc biệt” xổ số kiến thiết miền Bắc mở thưởng trong ngày để đối chiếu; nếu con số của người chơi trùng với hai số, hoặc ba số cuối của giải đặc biệt xổ số kiến thiết miền Bắc thì người chơi sẽ “trúng đề” và trường hợp này người chơi sẽ được H thanh toán cho số tiền trúng thưởng có giá trị gấp 70 lần số tiền người “trúng đề” đã bỏ ra mua con số đối với “loại 02 số” và gấp 400 lần đối với “loại 03 càng”. Ngược lại, nếu không có người chơi “trúng đề” thì H sẽ được hưởng toàn bộ số tiền những người chơi đã bỏ ra mua các con số đề tương ứng.

Đi với “số lô” gồm có “lô thường” và “lô xiên”: Cũng tương tự như số đề, người chơi chọn mua một hoặc nhiều cặp hai con số bất kỳ từ số 00 đến số 99. Hình thức mua bán trao đổi các con số lô giữa H và người chơi được thực hiện tương tự như việc mua bán trao đổi các con số đề. Việc quy ước cách thức chơi và đối chiếu trúng thưởng trong việc mua bán các số lô được thống nhất như sau: Lấy hai số cuối của tất cả các giải trong các giải thưởng của xổ số kiến thiết miền Bắc mở thưởng trong ngày để đối chiếu; nếu con số của người chơi trùng khớp với hai số cuối của một hoặc các giải thưởng trong các giải xổ số kiến thiết miền Bắc ngày hôm đó thì người chơi sẽ “trúng Lô”. Giá trị của một điểm lô là 23.000 đồng. Nếu người chơi trùng khớp với một giải thì được nhận thưởng 80.000 đồng, nếu trùng khớp với 02 giải (gọi là “hai nháy ”) người chơi sẽ được nhận tối đa gấp 2 lần số tiền trúng thưởng, nếu trùng khớp với 03 giải (gọi là “ba nháy”) thì người chơi sẽ được nhận tối đa gấp 3 lần số tiền trúng thưởng. Nếu không có người chơi nào “trúng Lô” thì H được hưởng toàn bộ số tiền những người chơi đã bỏ ra mua các con số lô tương ứng.

Số Lô xiên, gồm có ba loại “xiên 2, xiên 3 và xiên 4”: người chơi lựa chọn mua hai cặp số bất kỳ đối với loại “lô xiên 2”, ba cặp số bất kỳ đối với loại “lô xiên 3”, bốn cặp số bất kỳ đối với loại “lô xiên 4” trong các cặp số từ số 00 đến 99. Giá trị mỗi cặp số mua bao nhiêu, là tùy người chơi, việc đối chiếu, thanh toán trúng thưởng là đối chiếu với hai số cuối bất kỳ của các giải trong tất cả các giải thưởng của xổ số kiến thiết miền Bắc mở thưởng trong ngày hôm đó. Nếu hai cặp số của người chơi trùng với hai cặp số cuối bất kỳ của một trong các giải thưởng của xổ số kiến thiết miền Bắc thì người chơi trúng “lô xiên 2”, nếu ba cặp số của người chơi trùng với ba cặp số cuối bất kỳ của một trong các giải thưởng xổ số kiến thiết miền Bắc thì người chơi trúng “lô xiên 3” và nếu bốn cặp số của người chơi trùng với bốn cặp số cuối bất kỳ của một trong các giải thưởng xổ sổ kiến thiết miền Bắc thì người chơi trúng “lô xiên 4”. Trong trường hợp người chơi trúng “lô xiên 2” thì H phải thanh toán cho người chơi số tiền trúng thưởng giá trị gấp 10 lần số tiền người chơi đã bỏ ra mua, trong trường hợp người chơi trúng “lô xiên 3” thì H phải thanh toán cho người chơi “trúng lô” với số tiền trúng thưởng giá trị gấp 40 lần số tiền người chơi đã bỏ ra mua các cặp số và trường hợp người chơi trúng “lô xiên 4” H phải thanh toán cho người “trúng lô” số tiền trúng thưởng giá trị gấp 100 lần số tiền người chơi đã bỏ ra mua các cặp số. Ngược lại, nếu không có người chơi nào “trúng lô xiên” thì H sẽ được hưởng toàn bộ số tiền của người chơi đã bỏ ra mua các cặp số lô xiên đó.

Từ chiều ngày 06/01/2022 đến ngày 10/01/2022, Đ cùng H bán, ghi lô tô, bán xổ số cho khách. Khi có khách có nhu cầu mua số lô, số đề thì Đ hướng dẫn H cách ghi số lô, số đề vào cáp, vào phơi. Còn Đ trực tiếp nhận và trả lại tiền thừa cho khách. Vào khoảng 20 giờ hàng ngày, Đ cùng H sẽ tổng hợp kết quả và đối chiếu phơi ghi được với kết quả xổ số Miền Bắc để tính số tiền thắng, thua. Xong ngày nào, H đốt luôn các tờ phơi ngày hôm đó đi.

Từ ngày 07/01/2022 đến ngày 10/01/2022, mỗi ngày Đ và H bán được khoảng 1.200.000 đồng đến khoảng 1.500.000 đồng tiền ghi số lô, số đề. Trong những ngày này, đều có khách trúng thưởng, ngày trúng cao nhất phải trả cho khách 3.500.000 đồng, còn lại không nhớ chính xác khách đã ghi và trúng bao nhiêu tiền. Những người khách đến mua số lô, số đề, Đ và H đều không biết nhân thân, lai lịch.

Đến khoảng 21 giờ, ngày 10/01/2022, nhận thấy việc ghi số lô đề ngoài nhà nước thua lỗ nên H bàn với Đ bán số cho người khác để ăn hoa H. Do không biết ai mua số nên H đã gọi điện cho chị Bùi Thị T, sinh năm: 1991, trú tại: Tổ dân phố H, thị trấn P, huyện P, tỉnh Lai Châu (là đại lý xổ số lô tô tại huyện Phong Thổ) để hỏi. T trả lời không biết, nhưng Thuỷ bảo H gọi điện cho Nguyễn Văn T1, chồng của T, để hỏi. Sau khi H gọi điện cho T1 nói về việc bán số thì T1 nhất trí nhận lại toàn bộ số lô, số đề ngoài nhà nước mà H ghi được. Tuyên và H thống nhất: Trong ngày, nếu H ghi được số lô, số đề ngoài nhà nước nào thì H sẽ chủ động nhắn tin qua Zalo “Bình An Phát Tài” cho T1, nếu nhận thì T1 sẽ nhắn lại “Ok”. Tuyên nhận tiền và chịu trách nhiệm trả thưởng cho khách trúng, H ghi số đề, số 3 càng, số lô xiên thì được hoa H 25%, ghi số lô điểm thì mỗi điểm H được hoa H 1.200 đồng. Thoả thuận với T1 xong, H nói lại với Đ, Đ nhất trí.

Từ khoảng 17 giờ, ngày 11/01/2022, H bắt đầu dùng tài khoản Zalo “Hoa ban” trên điện thoại Samsung J7 của H nhắn tin các số khách mua lô, đề qua tài khoản Zalo “Bình An Phát Tài” của Nguyễn Văn T1. Sau mỗi tin nhắn H gửi, T1 đều nhắn tin lại “ok” để xác nhận. Quá trình kiểm tra, xác định: H đã chuyển cho Tuyên 19 số lô điểm = 102 điểm = 2.346.000 đồng; 07 số đề = 380.000 đồng; 07 số 3 càng = 180.000 đồng; 05 số xiên 2 = 130.000 đồng; 12 số xiên 3 = 110.000 đồng. Tổng số tiền khách ghi số lô, đề mà H chuyển cho T1 ngày 11/01/2022 là 3.146.000 đồng (Ba triệu một trăm bốn mươi sáu nghìn đồng). Những số lô, đề này, H nhận của khách (H không biết nhân thân, lai lịch) và nhắn trực tiếp cho T1, không ghi vào phơi.

Đến khoảng 18 giờ cùng ngày 11/01/2022, có 03 khách đến mua số lô, số đề trái phép gồm Lý A Y, Giàng A N và Lý A X. Cụ thể việc Y, N, X đã mua như sau: Giàng A N đưa cho H số tiền 3.000.000 đồng (gồm 05 tờ tiền mệnh giá 500.000 đồng, 02 tờ tiền mệnh giá 200.000 đồng và 01 tờ tiền mệnh giá 100.000 đồng) để ghi số lô điểm: 67 = 50 điểm, 86 = 50 điểm, 00 = 30 điểm, số 3 càng 680 = 10.000 đồng. H nhận tiền của N, rồi ghi các số trên vào phơi và cáp đã đóng sẵn dấu đỏ H 09-478, ghi xong H đưa cáp cho N. Số tiền 3.000.000 đồng, H đưa cho Đ cất vào túi Đ đang đeo trên người. Sau đó, Lý A Y đưa cho H 01 tờ tiền mệnh giá 500.000 đồng và ghi số lô điểm: 83, 51 mỗi số = 10 điểm và số 3 càng: 259 = 40.000 đồng. H nhận tiền, đưa cho Đ, rồi H ghi các số trên vào cáp và phơi, ghi xong H đưa cáp cho Y. Sau khi H ghi xong cho Y, Lý A X đưa cho H số tiền 1.500.000 đồng (gồm 02 tờ tiền mệnh giá 500.000 đồng, 02 tờ tiền mệnh giá 200.000 đồng và 01 tờ tiền mệnh giá 100.000 đồng), H cầm tiền rồi X nói ghi số lô 61 = 50 điểm. X có nói đánh thêm nhưng chưa nói con số nào, H ghi số 61 = 50đ vào phơi, chưa kịp ghi vào cáp thì bị tổ công tác Công an huyện Phong Thổ phát hiện và lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Trần Thị H, Chương Việt Đ, Lý A Y, Lý A X và Giàng A N về hành vi đánh bạc, thu giữ trên tay của H số tiền 1.500.000 đồng, 01 tờ cáp đã ghi để trên mặt bàn, 01 tờ phơi đề ngày 11/01/2022; thu giữ của Lý A Y, Giàng A N, Lý A X mỗi người 01 tờ cáp (X khai nhận tờ cáp này ghi các số lô, đề X mua của H vào khoảng 16 giờ 30 phút cùng ngày); thu giữ của Chương Việt Đ 03 tờ cáp và số tiền 8.585.000 đồng và một số đồ vật, tài liệu khác có liên quan.

Cơ quan điều tra đã tiến hành kiểm tra, đối chiếu tờ phơi mà H đã ghi số lô, số đề cho khách ngày 11/01/2022, xác định: H đã ghi cho khách tổng số: 12 số lô điểm = 240 điểm = 5.520.000 đồng, 24 số đề = 345.000 đồng, 123 số 3 càng = 1.785.000 đồng, 03 số xiên 2 = 95.000 đồng, 06 số xiên 3 = 185.000 đồng, 02 số xiên 4 = 70.000 đồng. Tổng 8.000.000 đồng. Trong số này H có ghi 03 số 3 càng = 4 vé lô tô loại 5.000 đồng (tổng 20.000 đồng) vé lô tô nhà nước bán cho người chơi, còn lại đều là số ghi trái phép. Như vậy, tổng số tiền đánh bạc trái phép thông qua tờ phơi ngày 11/01/2022 là 7.980.000 đồng.

Ngày 17/01/2022, cơ quan điều tra đã tiến hành khám xét người, chỗ ở, đồ vật đối với Nguyễn Văn T1. Kết quả, Nguyễn Văn T1 đã tự giác giao nộp 01 tờ lịch ngày 11/01/2022, mặt sau tờ lịch có ghi “H 3.146N”. T1 khai nhận sau khi H nhắn tin chuyển các số lô đề, T1 đã cộng tiền và ghi chữ “H 3.146N” vào mặt sau tờ lịch ngày 11/01/2022, có nghĩa là tổng số tiền lô đề H chuyển cho T1 ngày 11/01/2022 là 3.146.000 đồng.

Toàn bộ quá trình H ghi số lô, số đề cho khách, Đ đều tham gia thu tiền, trả lại tiền cho khách. Việc H ghi số lô, số đề rồi chuyển lại cho Nguyễn Văn T1, H và Đ cũng đã có sự bàn bạc từ trước. Như vậy, tổng số tiền H và Đ đánh bạc dưới hình thức ghi số lô, số đề trái phép ngày 11/01/2022 là 11.126.000 đồng.

Ti bản Cáo trạng số: 34/CT-VKSPT, ngày 05/5/2022, của Viện kiểm sát nhân dân huyện Phong Thổ, tỉnh Lai Châu đã truy tố ra trước Tòa án nhân dân huyện Phong Thổ, tỉnh Lai Châu, để xét xử các bị cáo Trần Thị H, Chương Việt Đ về tội “Đánh bạc”, theo quy định tại khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự.

Ti phiên tòa hôm nay, các bị cáo đã thừa nhận thực hiện hành vi phạm tội đúng như nội dung Cáo trạng. Các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, không có tranh luận với luận tội của Kiểm sát viên và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

Đi diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Phong Thổ thực hành quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên Cáo trạng, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố các bị cáo Trần Thị H, Chương Việt Đ phạm tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự. Về hình phạt, áp dụng khoản 1, khoản 3 Điều 321, các điểm i, s khoản 1 Điều 51, các Điều 17, 35, 58 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Trần Thị H từ 40.000.000 (Bốn mươi triệu) đồng đến 50.000.000 (Năm mươi triệu) đồng; xử phạt bị cáo Chương Việt Đ từ 30.000.000 (Ba mươi triệu) đồng đến 40.000.000 (Bốn mươi triệu) đồng. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

Về xử lý vật chứng, căn cứ vào Điều 47 của Bộ luật Hình sự, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử xử lý số vật chứng gồm:

Tch thu hóa giá nộp ngân sách Nhà nước: 01 điện thoại Samsung J7 màu vàng, đã qua sử dụng; 01 điện thoại OPPO RENO4 màu đen, ốp lưng in hình hoa, đã qua sử dụng; 01 điện thoại OPPO A5S màu xanh, ốp lưng in hình con lợn hoạt hình, đã qua sử dụng, đã thu giữ của Trần Thị H, Chương Việt Đ, do các bị cáo đã sử dụng những tài sản này làm công cụ, phương tiện phạm tội.

Tich thu tiêu hủy: 03 tờ bảng kê bán vé xổ số của công ty xổ số kiến thiết Lai Châu; 01 quyển sổ bìa có hình ban nhạc BlackPink, nhãn Note book 72 trang, MS:2906, quyển sổ chỉ có 02 trang cuối và trang bị cuối cùng có ghi một số chữ số, ngoài ra các trang khác đều là trang trắng; 11 cuống vé xổ số lô tô loại 10.000 đồng, ký hiệu từ AHG50-015189 đến AHG50-015.199; 28 cuống vé xổ số lô tô loại 5000 đồng, ký hiệu từ EK51-020472 đến EK51-020499; 01 tập vé xổ số lô tô loại 5000 đồng, ký hiệu từ EK51-020500 đến EK51-020599 (100 tờ), trong đó 18 tờ từ ký hiệu EK51-020500 đến EK51-020517 đã được sử dụng, chỉ còn cuống vé;

01 chiếc kéo bằng kim loại, chuôi bằng nhựa màu xanh, kích thước 19x7,5cm (chỗ rộng nhất), phần lưỡi bằng kim loại dài; 02 chiếc bút mực màu xanh, không có nhãn mác; 10 tờ cáp lô đề làm bằng giấy trắng có dòng kẻ, kích thước 8x8cm, chưa ghi, có đóng dấu chữ H 09-478 bằng mực đỏ; 10 tờ cáp lô đề làm bằng giấy trắng có dòng kẻ, kích thước 4x8cm, chưa ghi, có đóng dấu chữ H 09-478 bằng mực đỏ;

07 tờ cáp lô đề đã ghi, có đóng dấu đỏ H 09-478; 01 túi giả da màu nâu, loại túi đeo chéo; 01 con dấu mực đỏ, khắc chữ H 09-478. 01 tờ phơi đề bằng giấy A4 đã viết trên 02 mặt, các mặt có ghi ngày 11/01/2022 và các chữ số, thu giữ của Trần Thị H; 01 tờ lịch ngày 11/01/2022, mặt sau có ghi “H 3.146N”; 01 chiếc bàn nhựa màu xanh kích thước 70 x 50 x 54 cm và 04 chiếc ghế nhựa loại ghế tựa, kích thước 70 x 45 x 45 cm, do đây là những vật chứng liên quan đến hành vi phạm tội của các bị cáo và không còn giá trị sử dụng.

Trả lại cho bị cáo Trần thị H: 01 hợp đồng đại lý xổ số, số 09.478/HDĐL giữa Công ty xổ số kiến thiết Lai Châu với Trần Thị H, do đây là hợp đồng đại lý xổ số được ký kết hợp pháp giữa các bên và chưa hết hiệu lực.

Truy thu của các bị cáo số tiền đánh bạc trái phép: 11.126.000 đồng.

Số tiền 10.085.000 đồng thu giữ được của Trần Thị H và Chương Việt Đ, là tiền do các bị cáo ghi lô, ghi đề trái phép mà có tiền thu nhập hợp pháp của gia đình bị cáo, đã được giám định và kết luận là tiền thật. Do xác định số tiền các bị cáo đánh bạc trái phép cần phải truy thu nộp ngân sách Nhà nước nên giữ lại số tiền 10.085.000 đồng để đảm bảo thi hành án. Các bị cáo có nghĩa vụ nộp đủ số tiền truy thu còn thiếu là:

1.041.000 đồng.

Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự theo quy định của pháp luật .

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, quá trình tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Phong Thổ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Phong Thổ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã th ực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Giai đoạn chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa, các bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều phù hợp với qui định của pháp luật.

Nhng người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa đều đã có lời khai trong quá trình điều tra, được thu thập theo đúng trình tự, thủ tục tố tụng và không có yêu cầu gì thêm nên Hội đồng xét xử giải quyết vụ án theo quy định tại Điều 292 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[2] Về chứng cứ, hành vi mà các bị cáo đã thực hiện:

Li nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai của các bị cáo, lời khai của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án trong quá trình điều tra, truy tố, biên bản bắt người phạm tội quả tang và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó, có đủ cơ sở để khẳng định: Vào ngày 11/01/2022, tại bản Pô Tô, xã Huổi Luông, huyện Phong Thổ, tỉnh Lai Châu, các bị cáo Trần Thị H và Chương Việt Đ đã có hành vi ghi lô, ghi đề trái phép, cụ thể như sau: Hồi 18 giờ 00 phút, ngày 11/01/2022, khi Trần Thị H và Chương Việt Đ đang có hành vi đánh bạc bằng hình thức ghi số lô, đề trái quy định nhà nước, được thua bằng tiền với anh Lý A Y, Lý A X và Giàng A N thì bị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Phong Thổ phát hiện, bắt quả tang, thu giữ 01 phơi đề ngày 11/01/2022, trong đó thể hiện H đã ghi cho khách 12 số lô điểm, 24 số đề, 123 số 3 càng, 03 số xiên 2, 06 số xiên 3, 02 số xiên 4, trái quy định của Nhà nước với tổng số tiền là 7.980.000 đồng và toàn bộ vật chứng của vụ án. Ngoài ra, trong ngày 11/01/2022, thông qua mạng xã hội Zalo, Trần Thị H và Chương Việt Đ còn nhận ghi số lô, đề trái phép và chuyển cho Nguyễn Văn T1 19 số lô điểm; 07 số đề; 07 số 3 càng; 05 số xiên 2 và 12 số xiên 3 với tổng số tiền là 3.146.000 đồng để hưởng hoa H.

Như vậy, tổng số tiền Trần Thị H và Chương Việt Đ dùng để đánh bạc trái phép ngày 11/01/2022 là 11.126.000 đồng.

Đây là vụ án đồng phạm, tính chất đồng phạm giản đơn, trong đó bị cáo Trần Thị H là người khởi xướng và thực hành; bị cáo Chương Việt Đ vừa là người thực hành vừa là người giúp sức.

Quá trình điều tra, những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án khai nhận sự việc đúng như lời khai của bị cáo và phù hợp với các chứng cứ và các tình tiết khác của vụ án. Về trách nhiệm dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không phải thực hiện nghĩa vụ gì, không có yêu cầu gì.

Các bị cáo là những người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an trên địa bàn. Các bị cáo nhận thức được rõ việc làm của mình là vi phạm pháp luật, bị Nhà nước nghiêm cấm nhưng vẫn cố ý thực hiện. Hành vi của các bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Đánh bạc” theo qui định tại khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Phong Thổ truy tố các bị cáo về tội “Đánh bạc” theo qui định tại khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

Nhng tình tiết liên quan đến vụ án:

Đi với Lý A Y đã dùng số tiền tham gia đánh bạc là 500.000 đồng; Lý A X dùng số tiền tham gia đánh bạc là 1.285.000 đồng; Giàng A N dùng số tiền tham gia đánh bạc là 3.000.000 đồng. Do số tiền dùng để đánh bạc của mỗi người này đều dưới 5.000.000 đồng và cả 03 người đều chưa có tiền án, tiền sự về hành vi đánh bạc hay tổ chức đánh bạc nên không cấu thành tội phạm. Cơ quan điều tra đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với Lý A Y, Lý A X, Giàng A N về hành vi “Mua số lô, số đề” theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Nghị định 144/2022/NĐ- CP, ngày 31/12/2021, của Chính phủ.

Đi với Nguyễn Văn T1: Ngày 11/01/2022, Tuyên đã có hành vi mua lại các số lô, số đề trái phép của Trần Thị H với số tiền 3.146.000 đồng. Do số tiền đánh bạc dưới 5.000.000 đồng và Tuyên chưa có tiền án, tiền sự về hành vi đánh bạc hay tổ chức đánh bạc nên không cấu thành tội phạm. Cơ quan điều tra đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với Nguyễn Văn Tuyên về hành vi làm chủ lô, đề theo quy định tại điểm a khoản 5 Điều 28 của Nghị định 144/2022/NĐ-CP, ngày 31/12/2021, của Chính phủ.

Đi với hành vi bán số lô, số đề của Trần Thị H và Chương Việt Đ từ ngày 06/01/2022 đến ngày 10/01/2022, do H và Đ không nhớ rõ số tiền bán số lô, số đề và số tiền thu lời từ việc bán số lô, số đề trái phép là bao nhiêu. Việc mua, bán lô, đề trái phép được H ghi chung với tiền chi tiêu của gia đình mà không thể xác định cụ thể số tiền H, Đ đã ghi lô, đề trái phép trong những ngày này. Ngoài lời khai của các bị cáo, không có tài liệu gì khác chứng minh nên không đủ căn cứ để xử lý hình sự về hành vi đánh bạc các ngày nêu trên. Cơ quan điều tra đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với Trần Thị H và Chương Việt Đ về hành vi làm chủ lô, đề theo quy định tại điểm a khoản 5 Điều 28 của Nghị định 144/2022/NĐ-CP, ngày 31/12/2021, của Chính phủ.

Quá trình kiểm tra điện thoại thu giữ của bị cáo Trần Thị H và Chương Việt Đ, xác định có một số nội dung tin nhắn liên quan đến hoạt động ghi số lô, số đề và bán vé xổ số Nhà nước như sau:

Chị Lê Thị T2, sinh năm 1989, trú tại bản Cầu Phà, xã Pa Tần, huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu nhắn tin cho H để mua vé xổ số Nhà nước. Lời khai của Thu và bị cáo H phù hợp với nhau nên hành vi Lê Thị Thu không trái pháp luật.

Anh Lường Văn H1, sinh năm 1989, trú tại Bản Nậm Pậy, thị trấn Phong Thổ, huyện Phong Thổ, tỉnh Lai Châu khai nhận không có mối quan hệ gì với Chương Việt Đ và không biết lý do vì sao có nội dung tin nhắn: “A Đ ơi e là Hạ Shipper ne. A ck tiền Lô cho e 5triu dk k e nợ nhiều quá ngta đòi e quá” đến số điện thoại của Đ. Đ cũng khai nhận không quen biết anh Hạ, không biết vì sao anh Hạ lại nhắn tin với nội dung như vậy. Ngoài tin nhắn nêu trên, không có tài liệu gì khác chứng minh anh Hạ có tham gia đánh bạc hay không, nên không đủ cơ sở để xử lý đối với anh Lường Văn Hạ.

Đi với các tài khoản Zalo có tên Thúy Hằng, Ngọc Việt Khuê, Trung Thủy và những người đến mua số lô, số đề trực tiếp: Do các bị cáo Đ, H không biết nhân thân, lai lịch của những người này nên không có cơ sở để điều tra làm rõ.

[3] Về tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự:

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Các bị cáo phạm tội lần đầu, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho các bị cáo theo quy định tại các điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[4] Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm do hành vi của các bị cáo gây ra cho xã hội, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự, Hội đồng xét xử xét thấy các bị cáo phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội do hành vi phạm tội của các bị cáo gây ra không lớn, không cần phải cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội nhưng cần phải có hình phạt tương xứng, đủ để cải tạo và nâng cao ý thức tôn trọng pháp luật cho các bị cáo, đồng thời để góp phần răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

[5] Về xử lý vật chứng: Căn cứ quy định tại Điều 47 của Bộ luật Hình sự, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, xử lý vật chứng của vụ án gồm:

01 điện thoại Samsung J7 màu vàng, đã qua sử dụng; 01 điện thoại OPPO RENO4 màu đen, ốp lưng in hình hoa, đã qua sử dụng; 01 điện thoại OPPO A5S màu xanh, ốp lưng in hình con lợn hoạt hình, đã qua sử dụng, đã thu giữ của Trần Thị H, Chương Việt Đ. Do các bị cáo sử dụng những tài sản này làm công cụ, phương tiện phạm tội nên cần tịch thu hóa giá, nộp ngân sách Nhà nước.

01 hợp đồng đại lý xổ số, số 09.478/HDĐL giữa Công ty xổ số kiến thiết Lai Châu với Trần Thị H. Do đây là hợp đồng đại lý xổ số được các bên ký kết hợp pháp và đang còn hiệu lực nên cần trả lại cho bị cáo Trần Thị H.

Số tiền các bị cáo đánh bạc trái phép là: 11.126.000 đồng, là khoản thu lợi bất chính từ việc phạm tội nên cần truy thu nộp ngân sách Nhà nước.

Số tiền 10.085.000 đồng thu giữ được của các bị cáo, đã được giám định và kết luận là tiền thật. Đây là tiền các bị cáo có được từ việc ghi số lô, số đề trái phép và nguồn thu nhập khác. Do xác định số tiền đánh bạc trái phép cần truy thu của các bị cáo là: 11.126.000 đồng nên giữ lại số tiền 10.085.000 đồng để đảm bảo thi hành án. Các bị cáo có nghĩa vụ nộp đủ số tiền truy thu còn thiếu là: 1.041.000 đồng.

Toàn bộ vật chứng khác của vụ án gồm: 03 tờ bảng kê bán vé xổ số của công ty xổ số kiến thiết Lai Châu; 01 quyển sổ bìa có hình ban nhạc BlackPink, nhãn Note book 72 trang, MS:2906, quyển sổ chỉ có 02 trang cuối và trang bị cuối cùng có ghi một số chữ số, ngoài ra các trang khác đều là trang trắng; 11 cuống vé xổ số lô tô loại 10.000 đồng, ký hiệu từ AHG50 -015189 đến AHG50- 015.199; 28 cuống vé xổ số lô tô loại 5000 đồng, ký hiệu từ EK51-020472 đến EK51-020499; 01 tập vé xổ số lô tô loại 5000 đồng, ký hiệu từ EK51 -020500 đến EK51-020599 (100 tờ), trong đó 18 tờ từ ký hiệu EK51 -020500 đến EK51- 020517 đã được sử dụng, chỉ còn cuống vé; 01 chiếc kéo bằng kim lo ại, chuôi bằng nhựa màu xanh, kích thước 19x7,5cm (chỗ rộng nhất), phần lưỡi bằng kim loại dài; 02 chiếc bút mực màu xanh, không có nhãn mác; 10 tờ cáp lô đề làm bằng giấy trắng có dòng kẻ, kích thước 8x8cm, chưa ghi, có đóng dấu chữ H 09- 478 bằng mực đỏ; 10 tờ cáp lô đề làm bằng giấy trắng có dòng kẻ, kích thước 4x8cm, chưa ghi, có đóng dấu chữ H 09-478 bằng mực đỏ; 07 tờ cáp lô đề đã ghi, có đóng dấu đỏ H 09-478; 01 túi giả da màu nâu, loại túi đeo chéo; 01 con dấu mực đỏ, khắc chữ H 09-478; 01 tờ phơi đề bằng giấy A4 đã viết trên 02 mặt, các mặt có ghi ngày 11/01/2022 và các chữ số; 01 tờ lịch ngày 11/01/2022, mặt sau có ghi “H 3.146N”; 01 chiếc bàn nhựa màu xanh kích thước 70 x 50 x 54 cm và 04 chiếc ghế nhựa loại ghế tựa, kích thước 70 x 45 x 45 cm. Do đây là những vật chứng liên quan đến hành vi phạm tội của các bị cáo, hiện không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

[6] Về án phí: Căn cứ Điều 135, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, các bị cáo Trần Thị H, Chương Việt Đ phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1, Điều 321; các điểm i, s khoản 1 Điều 51; các Điều 17, 35, 47, 58, của Bộ luật Hình sự; các Điều 106, 135, 136, 331, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án,

Tuyên bố:

1. Các bị cáo Trần Thị H Chương Việt Đ phạm tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Trần Thị H: 40.000.000 (Bốn mươi triệu) đồng, nộp ngân sách Nhà nước.

Xử phạt bị cáo Chương Việt Đ: 30.000.000 (Ba mươi triệu) đồng, nộp ngân sách Nhà nước.

2. Xử lý vật chứng:

Tịch thu hóa giá nộp ngân sách Nhà nước: 01 điện thoại Samsung J7 màu vàng, đã qua sử dụng; 01 điện thoại OPPO RENO4 màu đen, ốp lưng in hình hoa, đã qua sử dụng; 01 điện thoại OPPO A5S màu xanh, ốp lưng in hình con lợn hoạt hình, đã qua sử dụng, đã thu giữ của Trần Thị H, Chương Việt Đ.

Tịch thu số tiền 10.085.000 đồng đã thu giữ của Chương Việt Đ để đảm bảo thi hành án cho khoản truy thu.

Truy thu của các bị cáo Trần Thị H, Chương Việt Đ số tiền đánh bạc trái phép là: 11.126.000 đồng. Sau khi trừ đi số tiền đảm bảo thi hành án là 10.085.000 đồng, các bị cáo phải nộp thêm số tiền cần truy thu là: 1.041.000 đồng.

Trả lại cho bị cáo Trần Thị H: 01 hợp đồng đại lý xổ số, số 09.478/HDĐL giữa Công ty xổ số kiến thiết Lai Châu với Trần Thị H.

Tịch thu tiêu hủy các vật chứng còn lại của vụ án, gồm: 03 tờ bảng kê bán vé xổ số của công ty xổ số kiến thiết Lai Châu; 01 quyển sổ bìa có hình ban nhạc BlackPink, nhãn Note book 72 trang, MS:2906, q uyển sổ chỉ có 02 trang cuối và trang bị cuối cùng có ghi một số chữ số, ngoài ra các trang khác đều là trang trắng; 11 cuống vé xổ số lô tô loại 10.000 đồng, ký hiệu từ AHG50 - 015189 đến AHG50-015.199; 28 cuống vé xổ số lô tô loại 5000 đồng, ký hiệu từ EK51-020472 đến EK51-020499; 01 tập vé xổ số lô tô loại 5000 đồng, ký hiệu từ EK51-020500 đến EK51-020599 (100 tờ), trong đó 18 tờ từ ký hiệu EK51-020500 đến EK51-020517 đã được sử dụng, chỉ còn cuống vé; 01 chiếc kéo bằng kim loại, chuôi bằng nhựa màu xanh, kích thước 19x7,5cm (chỗ rộng nhất), phần lưỡi bằng kim loại dài; 02 chiếc bút mực màu xanh, không có nhãn mác; 10 tờ cáp lô đề làm bằng giấy trắng có dòng kẻ, kích thước 8x8cm, chưa ghi, có đóng dấu chữ H 09-478 bằng mực đỏ; 10 tờ cáp lô đề làm bằng giấy trắng có dòng kẻ, kích thước 4x8cm, chưa ghi, có đóng dấu chữ H 09-478 bằng mực đỏ; 07 tờ cáp lô đề đã ghi, có đóng dấu đỏ H 09-478; 01 túi giả da màu nâu, loại túi đeo chéo; 01 con dấu mực đỏ, khắc chữ H 09-478; 01 tờ phơi đề bằng giấy A4 đã viết trên 02 mặt, các mặt có ghi ngày 11/01/2022 và các chữ số; 01 tờ lịch ngày 11/01/2022, mặt sau có ghi “H 3.146N”; 01 chiếc bàn nhựa màu xanh kích thước 70 x 50 x 54 cm và 04 chiếc ghế nhựa loại ghế tựa, kích thước 70 x 45 x 45 cm, đã thu giữ của Trần Thị H, Chương Việt Đ, Nguyễn Văn Tuyên; các vỏ hộp và các phong bì niêm phong cũ .

(Tn bộ vât chứng hiện đang được lưu tại Kho vật chứng của Chi cục thi hành án dân sự huyện Phong Thổ, tỉnh Lai Châu).

3. Về án phí:

Bị cáo Trần Thị H phải nộp 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo Chương Việt Đ phải nộp 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Các bị cáo được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

276
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội đánh bạc số 65/2022/HS-ST

Số hiệu:65/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phong Thổ - Lai Châu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;