Bản án về tội đánh bạc số 64/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUẾ VÕ, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 64/2021/HS-ST NGÀY 05/05/2021 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 05 tháng 5 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 68/2021/TLST- HS ngày 09 tháng 4 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 66/2021/QĐXXST-HS ngày 23 tháng 4 năm 2021 đối với các bị cáo:

1. Đặng Văn T, sinh năm 1978 HKTT: thôn Giang Liễu, xã Phương Liễu, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh; Nghề nghiệp: Tự do; trình độ văn hoá: 02/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Con ông: Đặng Văn T, sinh năm 1956 và bà Nguyễn Thị B, sinh năm 1959; Gia đình có 05 anh, em, bị cáo là thứ nhất; có vợ và 02 con, con lớn sinh năm 1999, con thứ hai sinh năm 2002; Tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 29/01/2021 đến ngày 01/02/2021 thì áp dụng biện pháp ‘cấm đi khỏi nơi cư trú”, hiện tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.

2. Nguyễn Đình D, sinh năm 1978;

HKTT: thôn Giang Liễu, xã Phương Liễu, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh; Nghề nghiệp: Tự do; trình độ văn hoá: 12/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Con ông: Nguyễn Đình G (đã chết) và bà Nguyễn Thị Đ, sinh năm 1947; Gia đình có 05 anh, chị, em, bị cáo là con thứ năm; có vợ và 02 con, con lớn sinh năm 2001, con thứ hai sinh năm 2005; Tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 29/01/2021 đến ngày 01/02/2021 thì áp dụng biện pháp ‘cấm đi khỏi nơi cư trú”, hiện tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.

3. Nguyễn Thọ S, sinh năm 1977;

HKTT: thôn Giang Liễu, xã Phương Liễu, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh; Nghề nghiệp: Tự do; Trình độ văn hoá: 9/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Con ông: Nguyễn Thọ L (đã chết) và bà Nguyễn Thị L (đã chết); Gia đình có 03 anh, em, bị cáo là con thứ hai; có vợ và 03 con, con lớn nhất sinh năm 1999, con nhỏ nhất sinh năm 2011; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 29/01/2021 đến ngày 01/02/2021 thì áp dụng biện pháp ‘cấm đi khỏi nơi cư trú”, hiện tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.

4. Đặng Ngọc T3, sinh năm 1980;

HKTT: thôn Bách Tính, xã Nam Hồng, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định; Nghề nghiệp: Tự do; trình độ văn hoá: 7/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Con ông Đặng Ngọc H, sinh năm 1954 và bà Vũ Thị N (đã chết); gia đình có 03 anh, em, bị cáo là con thứ hai; Có vợ và 03 con, con lớn nhất sinh năm 2000, con nhỏ nhất sinh năm 2012; Tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 29/01/2021 đến ngày 01/02/2021 thì áp dụng biện pháp ‘cấm đi khỏi nơi cư trú”, hiện tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.

5. Lê Thế T1, sinh năm 1988;

HKTT: thôn 7, xã Thọ Bình, huyện Triệu Sơn, tỉnh Thanh Hóa; Nghề nghiệp: Tự do; trình độ Văn hoá: 9/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; con ông: Lê Thế H, sinh năm 1963 và bà Nguyễn Thị Th, sinh năm 1963; gia đình có 02 anh, em, bị cáo là con thứ nhất; có vợ và 02 con, con lớn sinh năm 2008, con thứ hai sinh năm 2013; Tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 29/01/2021 đến ngày 01/02/2021 thì áp dụng biện pháp ‘cấm đi khỏi nơi cư trú”, hiện tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.

6. Nguyễn Tài C, sinh năm 1981;

HKTT: thôn Giang Liễu, xã Phương Liễu, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh; Nghề nghiệp: Tự do; trình độ văn hoá: 6/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; con ông Nguyễn Tài D (đã chết) và bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1961; gia đình có 03 anh, em, bị cáo là con thứ nhất; có vợ và 02 con, con lớn sinh năm 2003, con thứ hai sinh năm 2006; Tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 29/01/2021 đến ngày 01/02/2021 thì áp dụng biện pháp ‘cấm đi khỏi nơi cư trú”, hiện tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.

7. Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1979;

HKTT: thôn Giang Liễu, xã Phương Liễu, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh; Nghề nghiệp: Tự do; trình độ văn hoá: 4/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; con ông Nguyễn Văn T (đã chết) và bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1946; gia đình có 04 anh, chị, em, bị cáo là con thứ ba; có vợ và 02 con, con lớn sinh năm 2001, con thứ hai sinh năm 2005; Tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 29/01/2021 đến ngày 01/02/2021 thì áp dụng biện pháp 'cấm đi khỏi nơi cư trú", hiện tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 20 giờ 00 phút ngày 28/01/2021, sau khi ngồi uống rượu tại nhà anh Nguyễn Viết T2 tại thôn Giang Liễu, xã Phương Liễu, huyện Quế Võ tỉnh Bắc Ninh, T mời S, Đ, D, C đến nhà đang xây của mình để thăm quan và uống nước, các đối tượng đồng ý. Sau đó T và D đi về nhà T trước. Tại đây, D gọi điện cho T3 và T1 (là bạn cùng đội thợ xây của D) đến nhà T uống nước cùng, T3 và T1 đồng ý. Đến khoảng 20 giờ 30 phút cùng ngày, S, T3, T1, Đ, C lần lượt đến nhà T. Khi đang ngồi uống nước S nói với T: “anh cho anh em làm tý liêng trên tầng 2 nhé” - ý nhờ T cho mọi người đánh bạc trên tầng 2 nhà T, T đồng ý. Sau đó, S T3, D, C, T1, Đ đi lên tầng 2 nhà T để cùng nhau đánh bạc ăn tiền dưới hình thức đánh liêng. T1 lấy 01 chiếu nhựa có sắn ở tầng 02 chải ra nền nhà và T3 lấy 01 bộ tú lơ khơ mang từ phòng trọ của mình trước đó rồi cùng T1, S, D, C, Đ đánh bạc ăn tiền theo hình thức đánh liêng. Các hình thức tính lần lượt là "Sáp", "Đồng Hoa", "Liêng", "Đĩ" cuối cùng là tính điểm cao thấp. Quy ước nếu người chơi có "Sáp" sẽ được ăn tiền của mọi người tham cược vào ván bài đó, đồng thời ăn tiền của mỗi người tham gia là 80.000 đồng (tám mươi nghìn đồng). Tiếp đến là "Đồng Hoa" người chơi sẽ được ăn tiền của người tham gia ván bài đó và đồng thời ăn tiền của tất cả nhưng người tham gia mỗi người 40.000 đồng (bốn mươi nghìn đồng). Tiếp đến là "Liêng" rồi đến "Đĩ" và cuối cùng là tính điểm, nếu điểm giống nhau thì so theo chất thứ tự từ "rô", "cơ", "tép", "bích". Các đối tượng thỏa thuận mỗi ván "Gà" 20.000 đồng (hai mươi nghìn đồng) và "Tố kịch" là 100.000 đồng (một trăm nghìn đồng).

Quá trình các đối tượng đánh bạc tại nhà T, T mang nước cho mọi người uống và đứng xem các đối tượng đánh bạc. Đến khoảng 23 giờ cùng ngày, khi S, T3, T1, D, C, Đ đang đánh bạc thì lực lượng Công an ập vào bắt quả tang, thu giữ vật chứng như sau: 01 bộ bài tú lơ khơ 52 quân, 01 chiếu nhựa màu xanh - vàng - trắng và số tiền 6.760.000 đồng (sáu triệu bẩy trăm sáu mươi nghìn đồng).

Tạm giữ của Nguyễn Đình D: 01 (một) điện thoại di động oppo màu đen đã qua sử dụng có số Imei 866468035595794; Nguyễn Văn Đ: 01 (một) điện thoại di động oppo màu xanh – trắng đã qua sử dụng có số Imei 860646044062270 và 5.000.000 đồng (năm triệu đồng); Nguyễn Tài C: 01 (một) điện thoại di động Samsung đã qua sử dụng có số Imei: 354258110033939; Nguyễn Thọ S: 800.000 đồng (tám trăm nghìn đồng); Đặng Ngọc T3: 01 (một) điện thoại di động Oppo màu đen đã qua sử dụng có số Imei 869874040204578, 01 (một) ví da màu nâu bên trong có 450.000 đồng (bốn trăm năm mươi nghìn đồng); Lê Thế T1: 01 (một) điện thoại di động Oppo màu đỏ đã qua sử dụng có số Imei 86847603312874 và 1.510.000 đồng (một triệu, năm trăm, mười nghìn đồng) (BL 93).

Ngày 29/01/2021, Đặng Văn T đến cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Quế Võ đầu thú, khai nhận việc cho các đối tượng đánh bạc tại nhà mình Quá trình điều tra xác định: Nguyễn Đình D mang theo số tiền 1.100.000 đồng, sử dụng hết vào mục đích đánh bạc;

Nguyễn Thọ S mang theo số tiền 1.500.000 đồng, sử dụng vào mục đích đánh bạc là 700.000 đồng, số tiền còn lại không dùng vào mục đích đánh bạc;

Đặng Ngọc T3 mang theo số tiền 550.000 đồng và vay của C số tiền 1.000.000 đồng, sử dụng hết vào mục đích đánh bạc;

Lê Thế T1 mang theo số tiền 1.110.000 đồng và vay của C số tiền 500.000 đồng, sử dụng hết vào mục đích đánh bạc;

Nguyễn Tài C mang theo số tiền 2.200.000 đồng, sử dụng vào mục đích đánh bạc là 700.000 đồng, C cho T3 vay số tiền là 1.000.000 và cho T1 vay số tiền là 500.000 đồng;

Nguyễn Văn Đ mang theo số tiền là 6.200.000 đồng, sử dụng vào mục đích đánh bạc là 1.200.000 đồng, số tiền còn lại không dùng vào mục đích đánh bạc.

Với nội dung trên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Quế Võ nhận thấy hành vi phạm tội của các bị cáo đủ điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn nên ngày 02/3/2020 đã ra Quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn số: 38/QĐ-VKSQV để truy tố các bị cáo Đặng Văn T, Nguyễn Đình D, Nguyễn Thọ S, Đặng Ngọc T3, Lê Thế T1, Nguyễn Tài C và Nguyễn Văn Đ về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà hôm nay, các bị cáo Đặng Văn T, Nguyễn Đình D, Nguyễn Thọ S, Đặng Ngọc T3, Lê Thế T1, Nguyễn Tài C và Nguyễn Văn Đ đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung Quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn của Viện kiểm sát nhân dân huyện Quế Võ đã truy tố và thừa nhận Quyết định truy tố bị cáo về tội “Đánh bạc” là đúng người, đúng tội.

Trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Quế Võ thực hành quyền công tố tại phiên toà vẫn giữ nguyên Quyết định truy tố và trình bày lời luận tội, sau khi phân tích đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, cũng như qua xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo đã đề nghị Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa tuyên bố các bị cáo Đặng Văn T, Nguyễn Đình D, Nguyễn Thọ S, Đặng Ngọc T3, Lê Thế T1, Nguyễn Tài C và Nguyễn Văn Đ phạm tội “Đánh bạc”.

Đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 321, điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 65 BLHS xử phạt bị cáo: Đặng Văn T từ 09 – 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 12 đến 18 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. Miễn hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

Áp dụng khoản 1 Điều 321, điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 65 BLHS xử phạt các bị cáo: Nguyễn Thọ S, Đặng Ngọc T3, Lê Thế T1, Nguyễn Tài C và Nguyễn Văn Đ từ 06- 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 12 đến 18 tháng. Miễn hình phạt bổ sung là hình phạt tiền cho các bị cáo.

Áp dụng khoản 1,3 Điều 321, điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 65 BLHS xử phạt bị cáo: Nguyễn Văn Đ từ 06 đến 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 12 đến 18 tháng. Phạt bổ sung bị cáo từ 10.000.000đ – 15.000.000đ.

Áp dụng khoản 1 Điều 321, điểm i, s khoản 1,2 Điều 51, Điều 35 BLHS xử phạt bị cáo: Nguyễn Đình D từ 20.000.000đ đến 25.000.000đ Ngoài ra, đại diện VKS còn đề nghị xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Các bị cáo Đặng Văn T, Nguyễn Đình D, Nguyễn Thọ S, Đặng Ngọc T3, Lê Thế T1, Nguyễn Tài C và Nguyễn Văn Đ không tham gia tranh luận với đại diện Viện kiểm sát mà chỉ đề nghị Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa xem xét giảm nhẹ hình phạt và xin được hưởng án treo, bị cáo D xin được xử phạt bằng hình thức phạt tiền.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Quế Võ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Quế Võ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục, quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình truy tố và chuẩn bị xét xử vụ án, Viện kiểm sát nhân dân huyện Quế Võ và Tòa án nhân dân huyện Quế Võ nhận thấy vụ án có đủ điều kiện để áp dụng thủ tục rút gọn nên đã ban hành Quyết định áp dụng thủ tục rút gọn. Ngày 16/4/2021, Tòa án nhân dân huyện Quế Võ đã ban hành Quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục rút gọn. Ngày 23/4/2021, Tòa án mở phiên tòa để xét xử các bị cáo với tội danh mà VKSND huyện Quế Võ đã truy tố các bị cáo. Tuy nhiên, do bị cáo Đặng Văn T vắng mặt không có lý do nên HĐXX đã quyết định hoãn phiên tòa. Như vậy, vụ án không đủ điều kiện để áp dụng thủ tục rút gọn nên ngày 23/4/2021, TAND huyện Quế Võ đã ban hành Quyết định hủy bỏ quyết định áp dụng thủ tục rút gọn để xét xử vụ án theo thủ tục thông thường. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, các bị cáo và đại diện VKS đều không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận tội của các bị cáo tại cơ quan điều tra và tại phiên toà ngày hôm nay phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, phù hợp với thời gian, địa điểm, vật chứng thu được tại hiện trường và các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, thể hiện: Vào khoảng từ 20 giờ 30 phút đến 23 giờ ngày 28/01/2021, bị cáo Đặng Văn T đã cho phép các bị cáo Nguyễn Đình D, Nguyễn Thọ S, Đặng Ngọc T3, Lê Thế T1, Nguyễn Tài C và Nguyễn Văn Đ đánh bạc bằng hình thức đánh liêng tại khu vực tầng 2 nhà riêng của bị cáo T ở thôn Giang Liễu, xã Phương Liễu, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh, số tiền thu tại chiếu bạc các bị cáo dùng để đánh bạc là 6.760.000đ. Do đó, hành vi của các bị cáo Đặng Văn T, Nguyễn Văn Đ, Nguyễn Thọ S, Nguyễn Tài C, Lê Thế T1, Nguyễn Đình D, và Đặng Ngọc T3 đã phạm tội “Đánh bạc” được quy định tại khoản 1 Điều 321 BLHS đúng như Quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn của VKSND huyện Quế Võ.

[3] Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm tới an ninh trật tự công cộng được pháp luật bảo vệ. Các bị cáo đều nhận thức được hành vi chứa chấp đánh bạc và đánh bạc là vi phạm pháp luật, song vì hám lợi các bị cáo vẫn cố tình thực hiện hành vi phạm tội, số tiền của từng bị cáo dùng vào việc đánh bạc không lớn nhưng lại gây mất trật tự trị an ở địa phương, gây bất bình trong quần chúng nhân dân. Hành vi phạm tội của các bị cáo chẳng những làm gia tăng tệ nạn cờ bạc trong cộng đồng dân cư, mà còn ảnh hưởng xấu đến cuộc sống bình thường của nhiều gia đình khi có con em, người thân đam mê cờ bạc và là một trong những nguyên nhân làm phát sinh các loại tội phạm khác. Vì vậy, cần phải xử lý nghiêm các bị cáo bằng luật hình sự mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[4] Xét vai trò, tính chất, mức độ phạm tội của các bị cáo, Hội đồng xét xử nhận thấy: Đây là vụ án đồng phạm nhưng mang tính chất giản đơn, không có người đứng ra tổ chức hay có sự phân công chuẩn bị công cụ, phương tiện từ trước và không có sự bàn bạc, câu kết chặt chẽ với nhau trong quá trình thực hiện tội phạm. Xét vai trò của từng bị cáo thì thấy:

Bị cáo Đặng Văn T mặc dù không tham gia đánh bạc nhưng đã cho các bị cáo đánh bạc tại nhà mình. Do số tiền và số người tham gia không đủ yếu tố cấu thành tội “Tổ chức đánh bạc và gá bạc” nhưng bị cáo phải chịu trách nhiệm đồng phạm cùng các bị cáo khác về tội “Đánh bạc”. Do vậy, bị cáo có vai trò cao hơn các bị cáo khác trong vụ án nên cần xử phạt bị cáo mức hình phạt nghiêm khắc hơn so với các bị cáo khác.

Đối với các bị cáo còn lại là Nguyễn Thọ S, Nguyễn Đình D, Đặng Ngọc T3, Lê Thế T1, Nguyễn Tài C và Nguyễn Văn Đ đều cùng tham gia đánh bạc với số tiền đánh bạc mặc dù có sự chênh lệch nhưng không đánh kể nên cần xác định các bị cáo có vai trò ngang nhau.

Xét nhân thân của các bị cáo thì thấy, các bị cáo đều không có tình tiết tăng nặng, trách nhiệm hình sự, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, quá trình điều tra và tại phiên tòa đều thành khẩn khai báo, nên các bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 BLHS, riêng bị cáo T đã ra đầu thú nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 BLHS. Các bị cáo đều là thợ xây, có nhân thân và nơi cư trú rõ ràng nên HĐXX thấy không cần cách ly các bị cáo khỏi xã hội mà cho các bị cáo giáo dục, cải tạo tại địa phương cũng đủ để giáo dục, ren đe, cải tạo các bị cáo trở thành người có ích cho xã hội và cũng thể hiện tính khoan hồng của pháp luật. Riêng bị cáo Nguyễn Đình D đã tự nguyện nộp số tiền 10.000.000đ trước khi xét xử nên cần cho bị cáo được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 BLHS. Qua xem xét tính chất, mức độ phạm tội cũng như nhân thân của bị cáo, HĐXX nhận thấy chỉ cần áp dụng hình phạt C bằng tiền cũng đủ cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người công dân tốt có ích cho xã hội.

Về hình phạt bổ sung: Các bị cáo Đặng Văn T, Lê Thế T1, Đặng Ngọc T3, Nguyễn Thọ S và Nguyễn Tài C đều có đơn xin miễn giảm hình phạt bổ sung, có xác nhận tại địa phương có hoàn cảnh khó khăn nên cần miễn hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với các bị cáo. Riêng bị cáo Đ không có đơn xin miễn giảm hình phạt bổ sung nên cần phạt bị cáo một khoản tiền nhất định để thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật. Không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo D do đã áp dụng hình phạt C là hình phạt tiền.

[5] Về vật chứng của vụ án:

- Tịch thu sung ngân sách nhà nước toàn bộ số tiền các bị cáo dùng để đánh bạc là 6.760.000đ thu tại chiếu bạc và số tiền 1.510.000đ của bị cáo T1 là tiền các bị cáo có được sau khi đánh bạc.

- Tịch thu tiêu hủy 01 bộ bài tú lơ khơ và 01 chiếu nhựa màu vàng xanh trắng đã qua sử dụng do không còn giá trị sử dụng.

- Trả lại cho của Nguyễn Đình D: 01 (một) điện thoại di động oppo màu đen đã qua sử dụng; Đặng Ngọc T3: 01 (một) điện thoại di động Oppo màu đen đã qua sử dụng, 01 (một) ví da màu nâu và số tiền 450.000đ; Lê Thế T1: 01 (một) điện thoại di động Oppo màu đỏ đã qua sử dụng; Nguyễn Văn Đ 01 (một) điện thoại di động oppo màu xanh – trắng đã qua sử dụng và 5.000.000 đồng (năm triệu đồng); Nguyễn Tài C 01 (một) điện thoại di động Samsung đã qua sử dụng; Nguyễn Thọ S số tiền 800.000 đồng (tám trăm nghìn đồng). Do không dùng vào mục đích phạm tội nhưng cần tạm giữ để bảo đảm việc thi hành án.

[6] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo qui định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Các bị cáo Đặng Văn T, Nguyễn Văn Đ, Nguyễn Thọ S, Nguyễn Tài C, Lê Thế T1, Nguyễn Đình D, và Đặng Ngọc T3 phạm tội “Đánh bạc”.

Áp dụng khoản 1 Điều 321, điểm i, s khoản 1,2 Điều 51, Điều 65 BLHS; Điều 136 BLTTHS; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án, xử phạt: Bị cáo Đặng Văn T 09 (Chín) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 18 (Mười tám) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Áp dụng khoản 1 Điều 321, điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 65 BLHS; Điều 136 BLTTHS; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án, xử phạt:

- Bị cáo Nguyễn Thọ S 07 (Bảy) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 14 (Mười bốn) tháng tình từ ngày tuyên án sơ thẩm.

- Bị cáo Lê Thế T1 07 (Bảy) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 14 (Mười bốn) tháng tình từ ngày tuyên án sơ thẩm.

- Bị cáo Đặng Ngọc T3 07 (Bảy) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 14 (Mười bốn) tháng tình từ ngày tuyên án sơ thẩm.

- Bị cáo Nguyễn Tài C 07 (Bảy) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 14 (Mười bốn) tháng tình từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Áp dụng khoản 1,3 Điều 321, điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 65 BLHS; Điều 136 BLTTHS; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án, xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn Đ 07 (Bảy) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 14 (Mười bốn) tháng tình từ ngày tuyên án sơ thẩm. Phạt bổ sung bị cáo số tiền 10.000.000đ (Mười triệu đồng) sung ngân sách nhà nước.

Áp dụng khoản 1 Điều 321, điểm i, s khoản 1,2 Điều 51, Điều 35 BLHS; Điều 136 BLTTHS; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án, xử phạt: bị cáo Nguyễn Đình D số tiền 20.000.000đ (Hai mươi triệu đồng chẵn). Xác nhận bị cáo đã nộp số tiền 10.000.000đ (Mười triệu đồng) tại biên lai số 0006102 ngày 23/4/2021 tại Chi cục THADS huyện Quế Võ. Bị cáo còn phải nộp tiếp số tiền 10.000.000đ (Mười triệu đồng).

Giao các bị cáo Đặng Văn T, Nguyễn Thọ S, Nguyễn Tài C và Nguyễn Văn Đ cho UBND xã Phương Liễu, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Giao bị cáo Đặng Ngọc T3 cho UBND xã Nam Hồng, huyện Nam Trực, tình Nam Định giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Giao bị cáo Lê Thế T1 cho UBND xã Thọ Bình, huyện Triệu Sơn, tỉnh Thanh Hóa giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Các bị cáo phải thực hiện các nghĩa vụ trong thời gian thử thách theo quy định của Luật thi hành án hình sự. Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của Luật thi hành án hình sự.

Về vật chứng vụ án: Áp dụng Điều 47 BLHS; Điều 106 BLTTHS:

- Tịch thu sung ngân sách nhà nước toàn bộ số tiền các bị cáo dùng để đánh bạc là 6.760.000đ thu tại chiếu bạc và số tiền 1.510.000đ của bị cáo T1 là tiền bị cáo có được sau khi đánh bạc.

- Tịch thu tiêu hủy 01 bộ bài tú lơ khơ và 01 chiếu nhựa màu vàng xanh trắng đã qua sử dụng do không còn giá trị sử dụng.

- Trả lại cho Nguyễn Đình D 01 (một) điện thoại di động oppo màu đen đã qua sử dụng có số Imei 866468035595794; Nguyễn Văn Đ 01 (một) điện thoại di động oppo màu xanh – trắng đã qua sử dụng có số Imei 860646044062270 và 5.000.000 đồng (năm triệu đồng); Nguyễn Tài C 01 (một) điện thoại di động Samsung đã qua sử dụng có số Imei: 354258110033939; Nguyễn Thọ S số tiền 800.000 đồng (tám trăm nghìn đồng); Đặng Ngọc T3: 01 (một) điện thoại di động Oppo màu đen đã qua sử dụng có số Imei 869874040204578, 01 (một) ví da màu nâu và số tiền 450.000đ; Lê Thế T1: 01 (một) điện thoại di động Oppo màu đỏ đã qua sử dụng có số Imei 86847603312874, nhưng cần tạm giữ để bảo đảm thi hành án. (Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 08/4/2021 giữa Công an huyện Quế Võ và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quế Võ).

Về án phí: Các bị cáo Đặng Văn T, Nguyễn Văn Đ, Nguyễn Thọ S, Nguyễn Tài C, Lê Thế T1, Nguyễn Đình D, và Đặng Ngọc T3, mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo có mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

24
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội đánh bạc số 64/2021/HS-ST

Số hiệu:64/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quế Võ - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;