TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ T, TỈNH BÌNH DƯƠNG
BẢN ÁN 63/2022/HS-ST NGÀY 24/03/2022 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC
Ngày 24 tháng 3 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã T, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 105/2021/TLST- HS ngày 21 tháng 5 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 45/2022/QĐXXST-HS ngày 28 tháng 02 năm 2022, Quyết định hoãn phiên tòa số 17/2021/HSST-QĐ ngày 10/3/2021 đối với các bị cáo:
1. Phan Văn Th, sinh năm 1992, tại tỉnh Nghệ An; hộ khẩu thường trú: Xóm 7, xã V, huyện Y, tỉnh Nghệ An; tạm trú: Khu phố T, phường B, thành phố D, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Tài xế; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phan Văn V, sinh năm 1964 và bà Phan Thị H, sinh năm 1963;
Tiền án, tiền sự: Không;
Nhân thân: Ngày 27/9/2011, bị Tòa án nhân dân huyện Y, tỉnh Nghệ An tuyên phạt 06 tháng tù, cho hưởng án treo về tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 248 Bộ luật Hình sự. Bị cáo đã chấp hành xong ngày 30/3/2012.
Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 31/12/2020 đến ngày 09/01/2021. Bị cáo tại ngoại, có mặt.
2. Trịnh Văn Kh, sinh năm 1977, tại tỉnh Hà Nam; hộ khẩu thường trú: Xóm 13, xã K, huyện B, tỉnh Hà Nam; tạm trú: Tổ 4, khu phố V, phường H, thị xã T, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Tài xế; trình độ học vấn: 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trịnh Văn T, sinh năm 1949 và bà Đinh Thị L, sinh năm 1953; bị cáo có vợ là Nguyễn Thị L, sinh năm 1982; có 02 con: Lớn sinh năm 2010 và nhỏ sinh năm 2018; tiền án, tiền sự: Không;
Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 31/12/2020 đến ngày 09/01/2021. Bị cáo tại ngoại, có mặt.
3. Hoàng Văn Th, sinh năm 1989, tại tỉnh Quảng Bình; hộ khẩu thường trú: Thôn T, xã C, huyện Q, tỉnh Quảng Bình; tạm trú: Đường số 4, phường A, thành phố D, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hoàng Trọng T, sinh năm 1962 và bà Hoàng Thị X, sinh năm 1969, có vợ là Trần Thị B, sinh năm 1993; có 01 con sinh năm 2016; tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 31/12/2020 đến ngày 09/01/2021. Bị cáo tại ngoại, có mặt.
4. Võ Thùy L, sinh năm 1987; địa chỉ: Khu phố D, phường T, thị xã T, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Buôn bán; trình độ học vấn: 06/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Võ Văn B, sinh năm 1953 và bà Nguyễn Thị B, sinh năm 1953, có chồng là Nguyễn Thành C (đã ly hôn); có 02 con: Lớn sinh năm 2005, nhỏ sinh năm 2009; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo tại ngoại, có mặt.
Người làm chứng: Ông Lê Văn Thuần, có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Phan Văn Th, Trịnh Văn Kh và Hoàng Văn Th có mối quan hệ quen biết do cùng làm chung Công ty T tại phường K, thị xã T, tỉnh Bình Dương. Võ Thùy L là chủ quán nước giải khát 68 tại khu phố B, phường K, thị xã T, tỉnh Bình Dương.
Khoảng 10 giờ 30 phút, ngày 31/12/2020 là thời gian nghỉ trưa nên Th, Kh và Th đi bộ từ Công ty Timberland đến quán nước giải khát 68 của L để uống nước và nghỉ trưa. Tại đây, Th, Kh và Th gặp một người đàn ông (không rõ nhân thân) cũng đang uống nước nghỉ trưa tại quán. Trong lúc nói chuyện với nhau, người đàn ông này nhìn thấy trong chòi lá phía cuối của quán 68 có 01 bộ bài Tây (đã qua sử dụng) nên rủ Th, Kh và Th chơi đánh bạc được thua bằng tiền dưới hình thức chơi đánh bài phỏm, mỗi ván bài đặt cược từ 20.000 đồng đến 100.000 đồng, người Th chia bài, không có ai thu tiền xâu. Nghe vậy, Th, Kh và Th đồng ý tham gia chơi.
Đến khoảng 11 giờ 45 phút cùng ngày, nhận được tin báo, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã T, tỉnh Bình Dương tiến hành kiểm tra, phát hiện, bắt quả tang các đối tượng trên đang đánh bạc được thua bằng tiền. Công an đã đưa Th, Kh và Th về trụ sở làm việc. Riêng người đàn ông (không rõ nhân thân) tham gia đánh bạc cùng với Th, Kh và Th đã trốn thoát trong quá trình Công an bắt quả tang. Công an thu giữ tại chiếu bạc số tiền tang là 4.600.000 đồng, 01 bộ bài Tây đã qua sử dụng. Ngoài ra, Công an thị xã T còn thu giữ tiền có liên quan gồm:
- Số tiền 3.500.000 đồng, trong đó có 1.500.000 đồng dùng vào mục đích đánh bạc do Trịnh Văn Kh giao nộp;
- Số tiền 5.500.000 đồng, trong đó có 2.500.000 đồng dùng vào mục đích đánh bạc do Phan Văn Th giao nộp;
- Số tiền 100.000 đồng dùng vào mục đích đánh bạc do Hoàng Văn Th giao nộp;
Quá trình điều tra, các bị cáo khai nhận như sau:
- Phan Văn Th khai: Tham gia đánh bạc cùng với Kh, Th và một người đàn ông (không rõ nhân thân) tại quán nước 68 do L làm chủ. Th mang theo số tiền 6.600.000 đồng và sử dụng số tiền 3.600.000 đồng để đánh bạc, còn lại số tiền 3.000.000 đồng không sử dụng đánh bạc. Quá trình đánh bạc đến khi bị bắt quả tang Th thua số tiền 300.000 đồng, cầm trên tay số tiền 800.000 đồng ném vào chiếu bạc, bị thu giữ trên người số tiền 5.500.000 đồng, trong đó có số tiền 2.500.000 đồng dùng vào mục đích đánh bạc.
- Trịnh Văn Kh khai: Tham gia đánh bạc cùng với Th, Th và một người đàn ông (không rõ nhân thân) tại quán nước 68 do L làm chủ. Kh mang theo số tiền 4.200.000 đồng và sử dụng số tiền 2.200.000 đồng để đánh bạc, còn lại số tiền 2.000.000 đồng không sử dụng đánh bạc. Quá trình đánh bạc đến khi bị bắt quả tang Kh Th được số tiền 100.000 đồng, cầm trên tay số tiền 800.000 đồng ném vào chiếu bạc, bị thu giữ trên người số tiền 3.500.000 đồng, trong đó có số tiền 1.500.000 đồng dùng vào mục đích đánh bạc.
- Hoàng Văn Th khai: Tham gia đánh bạc cùng với Kh, Th và một người đàn ông (không rõ nhân thân) tại quán nước 68 do L làm chủ. Th mang theo số tiền 600.000 đồng và sử dụng toàn bộ số tiền này để đánh bạc. Quá trình đánh bạc đến khi bị bắt quả tang Th thua số tiền 500.000 đồng, bị thu giữ trên người số tiền 100.000 đồng dùng vào mục đích đánh bạc.
- Võ Thùy L khai: L là chủ quán nước giải khát 68, ngày 31/12/2020, L biết Th, Kh, Th và người đàn ông (không rõ nhân thân) vào quán 68 để uống nước và đánh bạc. L có nói với Th, Kh, Th và người đàn ông (không rõ nhân thân) không được chơi đánh bạc trong quán nhưng Th, Kh, Th và người đàn ông (không rõ nhân thân) vẫn tiếp tục chơi đánh bạc. Sau đó, L để mặc cho họ tiếp tục chơi đánh bạc đến khi lực lượng Công an đến phát hiện, bắt quả tang.
Căn cứ vào biên bản bắt người phạm tội quả tang và lời khai của các bị cáo xác định tổng số tiền sử dụng để đánh bạc là 8.700.000 đồng.
Đối với người đàn ông (không rõ nhân thân) có hành vi tham gia đánh bạc được thua bằng tiền cùng với Phan Văn Th, Trịnh Văn Kh, Hoàng Văn Th đã bỏ trốn khi lực lượng Công an bắt quả tang. Quá trình điều tra, xác minh đến nay chưa xác định được nhân thân, địa chỉ của người đàn ông này nên Cơ quan điều tra sẽ tiếp tục xác minh làm rõ để xử lý sau.
Tại bản Cáo trạng số 50/CT-VKS ngày 14/02/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã T quyết định: Truy tố các bị cáo Phan Văn Th, Trịnh Văn Kh, Hoàng Văn Th và Võ Thùy L về tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, Kiểm sát viên trình bày quan điểm: Giữ nguyên quan điểm truy tố đối với các bị cáo như nội dung cáo trạng. Về tình tiết giảm nhẹ: Các bị cáo Kh, Th và L phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; quá trình điều tra, truy tố, xét xử có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; riêng bị cáo Th có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải và có ông nội, ông ngoại là người có công với cách mạng. Về hình phạt: Do số tiền đánh bạc không lớn, các bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ nên áp dụng hình phạt tiền cũng đủ răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung. Tuy nhiên, cần xem xét vai trò của từng bị cáo để có mức hình phạt phù hợp. Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố các bị cáo phạm tội “Đánh bạc” và xử phạt các bị cáo như sau:
- Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Phan Văn Th từ 40.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng.
- Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Trịnh Văn Kh từ 30.000.000 đồng đến 40.000.000 đồng.
- Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Hoàng Văn Th và Võ Thùy L mỗi bị cáo từ 25.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng.
Về xử lý vật chứng: Đề nghị tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước số tiền đánh bạc 8.700.000 đồng; hoàn trả số tiền không dùng để đánh bạc cho bị cáo Kh và bị cáo Th; tịch thu tiêu hủy đối với 01 bộ bài Tây (52 lá) là công cụ phạm tội.
Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội như trên, không trình bày ý kiến tranh luận.
Lời nói sau cùng của các bị cáo: Các bị cáo hối hận về hành vi của mình, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để các bị cáo có điều kiện làm việc nuôi sống gia đình.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.
[2] Đối với người đàn ông tham gia đánh bạc cùng các bị cáo, do chưa xác định được lai lịch, đã bỏ trốn nên Cơ quan điều tra sẽ tiếp tục điều tra, xử lý sau là đúng quy định.
[3] Tại phiên tòa, các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như cáo trạng đã truy tố. Lời khai nhận của các bị cáo phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ khác trong hồ sơ vụ án. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Ngày 31/12/2020, tại quán nước 68 thuộc khu phố B, phường K, thị xã T, các bị cáo Phan Văn Th, Trịnh Văn Kh, Hoàng Văn Th đã có hành vi đánh bạc được thua bằng tiền với hình thức “đánh bài phỏm”. Bị cáo Võ Thùy L cho các bị cáo sử dụng địa điểm do mình quản lý để đánh bạc được thua bằng tiền. Tổng số tiền dùng vào mục đích đánh bạc là 8.700.000 đồng. Các bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Hành vi của các bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội Đánh bạc theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự. Do đó, cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã T truy tố các bị cáo theo tội danh và khung hình phạt như trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
[4] Hành vi phạm tội của các bị cáo đã xâm phạm trật tự công cộng và nếp sống văn minh xã hội. Hiện nay, tình hình đánh bạc được thua bằng tiền đang diễn ra ngày càng nhiều và phức tạp, do đó cần có hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của từng bị cáo để răn đe, giáo dục các bị cáo và phòng ngừa chung trong nhân dân. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử xem xét toàn diện tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của các bị cáo, vai trò đồng phạm, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của từng bị cáo để có hình phạt tương xứng, cá thể hóa tội phạm.
[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
[6] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo Trịnh Văn Kh, Hoàng Văn Th và Võ Thùy L phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Riêng bị cáo Phan Văn Th có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn được địa phương xác nhận, có ông nội tên Phan Văn Dục và ông ngoại tên Phan Đức Hóa có công với cách mạng được tặng thưởng huân chương kháng chiến hạng Ba nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
[7] Về hình phạt áp dụng: Vụ án có đồng phạm giản đơn, số tiền dùng để đánh bạc không lớn; các bị cáo không có tiền án, tiền sự; đã biết ăn năn hối cải; có nhiều tình tiết giảm nhẹ nên áp dụng hình phạt tiền cũng đủ răn đe, giáo dục các bị cáo và phòng ngừa chung, đồng thời thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.
[8] Xét vai trò đồng phạm và mức hình phạt đối với từng bị cáo: Đây là vụ án có đồng phạm giản đơn, không có việc tổ chức, bàn bạc, thống nhất giữa các bị cáo. Trong đó, bị cáo Hoàng Văn Th, bị cáo Trịnh Văn Kh và bị cáo Phan Văn Th thực hiện tội phạm với vai trò thực hành, tham gia đánh bạc; bị cáo Võ Thùy L thực hiện tội phạm với vai trò giúp sức, cho các bị cáo khác sử dụng địa điểm của mình quản lý để đánh bạc (không quyết liệt ngăn cản). Các bị cáo Th, Th, Kh có vai trò đồng phạm như nhau nhưng bị cáo Th từng bị xử phạt về tội đánh bạc (đã được xóa án tích) nay lại phạm tội đánh bạc nên mức phạt cao nhất; bị cáo Kh sử dụng số tiền đánh bạc nhiều hơn bị cáo Th nên mức hình phạt cao hơn bị cáo Th. Riêng bị cáo L có vai trò giúp sức, cho mượn địa điểm và không tham gia đánh bạc, không thu lợi từ việc đánh bạc của các bị cáo khác nên mức phạt của bị cáo L thấp hơn các bị cáo còn lại.
[9] Về xử lý vật chứng, biện pháp tư pháp: Đối với số tiền đánh bạc 8.700.000 đồng phải tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước; đối với 01 bộ bài Tây (52 lá) là công cụ phạm tội phải tịch thu tiêu hủy. Đối với số tiền 3.000.000 đồng của Phan Văn Th không sử dụng để đánh bạc và số tiền 2.000.000 đồng của Trịnh Văn Kh không sử dụng để đánh bạc nên hoàn trả cho các bị cáo.
[10] Đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa về tội danh, biện pháp xử lý vật chứng và hình phạt đối với các bị cáo là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.
[11] Về án phí hình sự sơ thẩm: Các bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố các bị cáo: Phan Văn Th, Trịnh Văn Kh, Hoàng Văn Th và Võ Thùy L phạm tội “Đánh bạc”.
2. Về hình phạt:
2.1. Căn cứ khoản 1 Điều 321; Điều 35; Điều 58; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Phan Văn Th 40.000.000 đồng (Bốn mươi triệu đồng).
2.2. Căn cứ khoản 1 Điều 321; Điều 35; Điều 58; điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Trịnh Văn Kh 35.000.000 đồng (Ba mươi lăm triệu đồng).
2.3. Căn cứ khoản 1 Điều 321; Điều 35; Điều 58; điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Hoàng Văn Th 30.000.000 đồng (Ba mươi triệu đồng).
2.4. Căn cứ khoản 1 Điều 321; Điều 35; Điều 58; điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Võ Thùy L 25.000.000 đồng (Hai mươi lăm triệu đồng).
3. Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp: Căn cứ Điều 46, 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.
- Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước số tiền 8.700.000 đồng (Tám triệu bảy trăm nghìn đồng) theo ủy nhiệm chi ngày 09/6/2021.
- Tịch thu, tiêu hủy: 01 (Một) bộ bài Tây 52 lá đã qua sử dụng;
- Hoàn trả cho bị cáo Phan Văn Th số tiền 3.000.000 đồng, hoàn trả cho bị cáo Trịnh Văn Kh số tiền 2.000.000 đồng (theo ủy nhiệm chi ngày 09/6/2021).
(Theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 09/6/2021).
4. Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Các bị cáo: Phan Văn Th, Trịnh Văn Kh, Hoàng Văn Th và Võ Thùy L mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
5. Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, 333 Bộ luật Tố tụng Hình sự Các bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội đánh bạc số 63/2022/HS-ST
Số hiệu: | 63/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Thủ Dầu Một - Bình Dương |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 24/03/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về