Bản án về tội đánh bạc số 62/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VĨNH YÊN, TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 62/2022/HS-ST NGÀY 04/05/2022 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 04 tháng 5 năm 2022, tại trụ sở Toà án Nhân dân thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc xét xử sơ thẩm công khai theo thủ tục rút gọn vụ án hình sự thụ lý số: 46/2022/TLST- HS ngày 08/4/2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử (theo thủ tục rút gọn) số 45/2022/QĐXXST- HS ngày 27 tháng 4 năm 2022 đối với bị cáo:

Trần Thị Kim T, sinh ngày 25/9/1984, tại Vĩnh Phúc; nơi cư trú: Tổ dân phố V N, phường T S, thành phố V Y, tỉnh Vĩnh Phúc; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn T 1 và bà Lưu Thị H; có chồng là Nguyễn Văn U và có 02 con; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 22/5/2018 Công an phường Tích Sơn, thành phố Vĩnh Yên ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với Trần Thị Kim T về hành vi “Đánh bạc”, hình thức phạt tiền, mức phạt: 1.500.000đ, ngày 23/5/2018 T đã chấp hành xong. Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 21/3/2022 đến ngày 24/3/2022 được tại ngoại (có mặt).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Anh Trần Xuân H1, sinh năm 1997; nơi cư trú: Khu hành chính 8, phường Đ Đ, thành phố V Y, tỉnh Vĩnh Phúc (vắng mặt);

- Anh Dương Văn T2, sinh năm 1967; nơi cư trú: Khu 4, thôn Đ, thị trấn Y L, huyện Y L, tỉnh Vĩnh Phúc (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 17 giờ 50 phút ngày 21/3/2022, Trần Thị Kim T làm đại lý bán vé xổ số của Công ty TNHH Một thành viên Xổ số kiến thiết Vĩnh Phúc. T ngồi bán vé xổ số tại khu vực vỉa hè vườn hoa Tích Sơn thuộc đường Hùng Vương, phường Tích Sơn, thành phố Vĩnh Yên thì có Trần Xuân H1 và Dương Văn T2 đến đặt vấn đề đánh bạc được thua bằng tiền bằng hình thức ghi số lô với T, T đồng ý. T thoả thuận với H1 và T2 giá 01 điểm lô là 23.000đ, nếu H1 và T2 trúng, T phải trả 01 điểm lô tương ứng với 80.000đ. Căn cứ để xác định trúng thưởng số lô là đối chiếu với hai số cuối của các giải từ giải đặc biệt đến giải bảy của kết quả xổ số kiến thiết Miền Bắc mở thưởng hàng ngày, nếu không ai trúng số lô thì T được hưởng số tiền H1 và T2 đã trả cho T. T ghi cho H1 các số lô 47, 74 mỗi số 65 điểm vào 01 tờ cáp giấy màu nâu (tổng là 130 điểm lô x 23.000đ = 2.990.000đ), H1 đưa cho T 2.990.000đ. Sau khi bán số lô cho H1 xong thì T2 đến chỗ T hỏi mua các số lô 67, 06 mỗi số 30 điểm; 92 là 40 điểm (tổng là 100 điểm lô x 23.000đ = 2.300.000đ), T2 đưa cho T 2.300.000đ, T cầm tiền rồi ghi các số lô T2 mua vào lòng bàn tay trái của T để so sánh kết quả thì Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Vĩnh Yên kiểm tra, phát hiện bắt quả tang.

Tang vật thu giữ: Thu của T số tiền 5.290.000đ (T vừa bán số lô cho H1 và T2); thu giữ 01 tờ cáp giấy màu nâu ghi các số lô T ghi cho H1; 01 bàn gỗ;

01 ghế nhựa và 01 bút bi xanh, đều đã cũ, đã qua sử dụng. Cơ quan Công an chụp ảnh lòng bàn tay trái của T có ghi các số lô T ghi cho T2.

Tại Quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn số 59/QĐ-VKSTP.VY ngày 15/4/2022, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc đã truy tố Trần Thị Kim T về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 của Bộ luật hình sự.

Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo T khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung Quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn đã nêu trên.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án là anh Trần Xuân H1 và anh Dương Văn T2 vắng mặt tại phiên tòa nhưng quá trình điều tra đã khai nhận như nội dung Quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn nêu trên (bút lục 58 – 64 và bút lục 71 - 75).

Tại phiên toà Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vĩnh Yên đã phân tích đánh giá tính chất, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Trần Thị Kim T phạm tội “Đánh bạc”. Áp dụng khoản 1 Điều 321; Điều 36; điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); xử phạt bị cáo T từ 12 – 15 tháng cải tạo không giam giữ, được trừ thời gian tạm giữ (ngày 21/3/2022 đến ngày 24/3/2022 ) quy đổi 3 ngày tạm giữ = 9 ngày cải tạo không giam giữ. Về hình phạt bổ sung: Áp dụng khoản 3 Điều 321 của Bộ luật hình sự: Phạt bị cáo Trần Thị Kim T 10.000.000đ (mười triệu đồng) để sung Ngân sách Nhà nước. Do bị cáo T không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định nên không khấu trừ thu nhập đối với bị cáo. Áp dụng khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự, khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu, sung Ngân sách Nhà nước số tiền 5.290.000đ do phạm tội mà có; đối với 01 tờ giấy nhỏ màu nâu ghi các số lô là tài liệu chứng cứ cần lưu giữ trong hồ sơ vụ án; tịch thu tiêu hủy: 01 bút bi màu xanh; đối với 01 bàn gỗ, 01 ghế nhựa là tài sản của bị cáo T, bị cáo không đề nghị trả lại, các tài sản này đã cũ không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

Bị cáo không bào chữa, tranh luận gì và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo thừa nhận quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vĩnh Yên truy tố đối với bị cáo Trần Thị Kim T là hoàn toàn đúng người, đúng tội. Lời khai nhận tội của bị cáo là khách quan, phù hợp lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tại Cơ quan điều tra, biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ và các tài liệu, chứng cứ khác được thu thập trong quá trình điều tra. Như vậy, có đủ căn cứ xác định:

Khoảng 17 giờ 50 phút ngày 21/3/2022 tại khu vực vỉa hè vườn hoa Tích Sơn thuộc đường Hùng Vương, phường Tích Sơn, thành phố Vĩnh Yên. Bị cáo Trần Thị Kim T có hành vi đánh bạc bằng hình thức ghi số lô với Trần Xuân H1 số tiền 2.990.000đ, Dương Văn T2 số tiền 2.300.000đ (Tổng số là 5.290.000đ) thì bị Công an thành phố Vĩnh Yên phát hiện bắt quả tang, thu giữ toàn bộ vật chứng.

Hành vi của bị cáo Trần Thị Kim T đã đủ yếu tố cấu thành tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 của Bộ luật hình sự.

Nội dung điều luật quy định:

“1. Người nào đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật trị giá từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng …, thì bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”.

[2] Xét tính chất của vụ án tuy ít nghiêm trọng nhưng hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến trật tự công cộng, gây bất bình trong quần chúng nhân dân, làm ảnh hưởng đến tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở địa phương. Vì vậy cần xử phạt bị cáo mức hình phạt nghiêm khắc mới có tác dụng răn đe, giáo dục bị cáo.

Bị cáo không bị áo dụng tiết tăng nặng nào và có các tình tiết giảm nhẹ là thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng theo quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Gia đình bị cáo có ông Trần Văn T 1 (là bố đẻ bị cáo) có công với cách mạng được tặng thưởng Huy Chương Kháng Chiến hạng nhất nên bị cáo được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Bị cáo có nơi cư trú rõ ràng, do đó việc buộc bị cáo chấp hành hình phạt tù là chưa cần thiết, cần chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa cho bị cáo được cải tạo tại địa phương cũng đủ tác dụng giáo dục, cải tạo các bị cáo trở thành người công dân có ích cho xã hội.

[3] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đều hợp pháp.

[4] Đối với những người liên quan đến vụ án: Trần Xuân H1 đánh bạc với bị cáo số tiền 2.990.000đ và Dương Văn T2 đánh bạc với bị cáo số tiền 2.300.000đ. Tuy nhiên, số tiền H1 và T2 sử dụng vào việc đánh bạc có giá trị dưới 5.000.000đ, bản thân H1, T2 chưa bị kết án về hành vi tổ chức đánh bạc, đánh bạc, gá bạc, chưa bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi tổ chức đánh bạc, đánh bạc, gá bạc nên hành vi của H1 và T2 chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự. Ngày 10/4/2022, Công an thành phố Vĩnh Yên ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với Trần Xuân H1 và Dương Văn T2 với mức phạt mỗi người 200.000đ là đúng quy định pháp luật.

[5] Về hình phạt bổ sung: Áp dụng khoản 3 Điều 321 Bộ luật hình sự phạt bị cáo T 10.000.000 (mười triệu) đồng để sung Ngân sách Nhà nước.

Theo khoản 3 Điều 36 của Bộ luật hình sự thì người phạm tội còn có thể bị khấu trừ thu nhập. Tại phiên tòa xác định bị cáo T không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định nên Hội đồng xét xử miễn khấu trừ thu nhập đối với bị cáo.

[6] Về vật chứng:

Đối với số tiền 5.290.000đ thu giữ của bị cáo T, quá trình điều tra xác định là tiền H1 và T2 sử dụng để đánh bạc với bị cáo nên cần tịch thu, sung Ngân sách Nhà nước;

Đối với 01 tờ giấy nhỏ màu nâu ghi các số lô là chứng cứ vụ án cần lưu giữ trong hồ sơ;

Đối với 01 bút bi màu xanh là vật chứng của vụ án cần tịch thu tiêu hủy;

Đối với 01 bàn gỗ và 02 ghế nhựa là tài sản của bị cáo T, tại phiên tòa bị cáo không đề nghị được trả lại các tài sản này, các tài sản này đều đã cũ không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Trần Thị Kim T phạm tội: “Đánh bạc”.

2. Về Điều luật áp dụng và hình phạt: Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 36 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Xử phạt bị cáo Trần Thị Kim T 01 (một) năm 03 (ba) tháng cải tạo không giam giữ, được trừ thời gian tạm giữ (ngày 21/3/2022 đến ngày 24/3/2022) quy đổi 3 ngày tạm giữ = 9 ngày cải tạo không giam giữ. Bị cáo T phải chấp hành 01 (một) năm 02 (hai) tháng 21 (hai mươi mốt) ngày cải tạo không giam giữ. Thời hạn cải tạo không giam giữ tính từ ngày cơ quan, tổ chức nhận được bản án và quyết định Thi hành án.

Giao bị cáo Trần Thị Kim T cho Ủy ban nhân dân phường Tích Sơn, thành phố Vĩnh Yên giám sát, giáo dục. Gia đình bị cáo T có trách nhiệm phối hợp với Ủy ban nhân dân phường Tích Sơn trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.

3.Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1, 2 Điều 47 của Bộ luật hình sự, khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu, sung Ngân sách Nhà nước số tiền 5.290.000đ (năm triệu hai trăm chín mươi nghìn đồng); tịch thu, tiêu huỷ: 01 bút bi màu xanh, 01 bàn gỗ và 02 ghế nhựa (Đặc điểm vật chứng như biên bản giao, nhận vật chứng ngày 20 tháng 4 năm 2022 và biên lai nộp tiền vào tài khoản ngày 20/4/2022 ).

4.Về hình phạt bổ sung: Phạt tiền bị cáo Trần Thị Kim T 10.000.000đ (mười triệu đồng) để sung Ngân sách Nhà nước.

5.Về án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội: Bị cáo Trần Thị Kim T phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

6.Về quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được Bản án hoặc Bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

244
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội đánh bạc số 62/2022/HS-ST

Số hiệu:62/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vĩnh Yên - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;