TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THÁI THỤY, TỈNH THÁI BÌNH
BẢN ÁN 55/2020/HS-ST NGÀY 30/06/2020 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC
Ngày 30 tháng 6 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 45/2019/TLST-HS ngày 02 tháng 6 năm 2020 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 55/2020/QĐXXST ngày 17 tháng 6 năm 2020 đối với bị cáo :
Nguyễn Thị N1, sinh ngày 20/9/1972.
Nơi cư trú : thôn B, xã X, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.
Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 4/10; Dân tộc: Kinh; Giới tính:
Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam.
Con ông Nguyễn Đình T con bà Vũ Thị H (đều đã chết). Bị cáo có chồng là Hồ Trọng Đ, sinh năm 1970, có 03 con, con lớn sinh năm 1991, con nhỏ sinh năm 2007 đều tr tại thôn B, xã X, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình Tiền sự, Tiền án: Không Nhân thân: Còn nhỏ được gia đình nuôi ăn học hết lớp 4/10, sau đó ở nhà lao động tự do. Bị cáo bị bắt theo Quyết định truy nã ngày 02/5/2020 tại tỉnh Hải Dương. Bị cáo bị tạm giữ ngày 03/5/2020 đến ngày 06/5/2020 chuyển tạm giam, hiện đang bị tạm giam tại Trại giam công an tỉnh Thái Bình. (Có mặt)
Người làm chứng.
1. Bà: Nguyễn Thị M, sinh năm 1954 (Vắng mặt) Nơi cư trú : thôn Đ, xã Thụy X, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình
2. Chị: Nguyễn Thị N2, sinh năm 1975. (Vắng mặt) Nơi cư trú : thôn N, xã Thụy X, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình
3. Anh Hà Ngọc Đ1, sinh năm 1972. (Vắng mặt) Nơi cư trú : thôn Đ, xã Thụy X, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình
4. Anh Lê Bá G, sinh năm 1980. (Vắng mặt) Nơi cư trú : thôn B, xã Thụy X, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình
5. Chị: Lê Thị T, sinh năm 1975. (Vắng mặt) Nơi cư trú : thôn P, xã Thụy X, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình
6. Anh Nguyễn Văn Th1, sinh năm 1984. (Vắng mặt) Nơi cư trú : thôn A, xã Thụy X, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình
7. Anh Vũ Năng D1, sinh năm 1986. (Vắng mặt) Nơi cư trú : thôn P, xã Thụy X, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình
8. Anh Nguyễn Đức V (tức K), sinh năm 1983. (Vắng mặt) Nơi cư trú : thôn Đ, xã Thụy X, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình
9. Anh Nguyễn Văn D2, sinh năm 1986. (Vắng mặt) Nơi cư trú : thôn N, xã Thụy X, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình
10. Anh Lâm Tuấn A (tức L), sinh năm 1989. (Vắng mặt) Nơi cư trú : thôn V, xã X, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.
11. Anh: Lê Bá T, sinh năm 1978. (Vắng mặt) Nơi cư trú : thôn B, xã X, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.
12. Anh: Nguyễn Viết Đ2, sinh năm 1964. (Vắng mặt) Nơi cư trú : thôn B, xã Thụy X, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình
13. Anh: Đỗ Hữu Th2, sinh năm 1986. (Vắng mặt) Nơi cư trú : thôn N, xã Thụy X, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình
14. Anh: Nguyễn Đức Tr, sinh năm 1993. (Vắng mặt) Nơi cư trú : thôn Đ, Thụy X, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.
15. Ông: Nguyễn Viết Th3, sinh năm 1954. (Vắng mặt) Nơi cư trú : thôn đ, xã x, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.
16. Chị: Hà Thị L, sinh năm 1976. (Vắng mặt) Nơi cư trú : thôn B xã Thụy x, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 15 giờ 30 phút ngày 30/01/2020, Nguyễn Thị M dùng nhà ở của mình cho các đối tượng Hà Ngọc Đ1, Lê Bá H, Lâm Tuấn A, Hà Thị L, Nguyễn Văn D2, Đỗ Hữu Th2, Lê Thị T1, Nguyễn Đức Tr, Nguyễn Viết đ, Lê Bá T, Vũ Năng D1, Nguyễn Văn Th1, Nguyễn Viết Th3, Nguyễn Đức v, Nguyễn Thị N2, Nguyễn Thị N1 đánh bạc sát phạt nhau bằng tiền dưới hình thức xóc đĩa. Đến khoảng 18 giờ 50 phút ngày 30/01/2020 thì bị phát hiện bắt quả tang, thu giữ tại chiếu bạc số tiền 5.700.000 đồng. Trong quá trình điều tra đã xác định N1 có tham gia đánh bạc nhưng đã về trước khi bị bắt quả tang và cầm về số tiền 400.000 đồng, N2 cầm về số tiền 600.000 đồng. Như vậy, tổng số tiền đánh bạc trong vụ án là 6.700.000 đồng. Sau khi thực hiện hành vi phạm tội, Nguyễn Thị N1 đã bỏ trốn, cơ quan điều tra đã tạm đình chỉ vụ án đối với N1, đến ngày 02/5/2020, Nguyễn Thị N1 đã bị bắt theo quyết định truy nã.
Bản cáo trạng số 52/CT- VKSTT ngày 31 tháng 5 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thái Thụy truy tố bị cáo Nguyễn Thị N1 về tội " Đánh bạc " theo quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, Bị cáo N1 trình bày: Chiều ngày 30/01/2020, bị cáo và Nguyễn Thị N2 góp tiền chung nhau để đánh bạc (N2 góp 200.000 đồng, bị cáo góp 100.000 đồng), N2 cầm tiền đặt cửa, bị cáo đứng sau nhắc nhở đặt cửa lẽ hoặc cửa chẵn. Đến khoảng 17 giờ cùng ngày, bị cáo có việc nên về trước và được N2 chia cho số tiền 400.000 đồng, đây là số tiền thắng bạc. Bị cáo biết hành vi đánh bạc là vi phạm pháp luật, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
Luận tội của Kiểm sát viên: Vẫn giữ nguyên quan điểm như đã truy tố với bị cáo về tội danh và điều luật được viện dẫn trong bản cáo trạng. Căn cứ tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị N1 phạm tội “ Đánh bạc”. Áp dụng khoản 1, 3 Điều 321, Điều 17, Điều 50, khoản 3 Điều 35, Điều 38, điểm s, i khoản 1 Điều 51, Điều 58 Bộ luật hình sự. Đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Thị N1 từ 06 tháng đến 08 tháng tù. Đề nghị phạt bổ sung là phạt tiền dưới khung của Bộ luật hình sự quy định đối với bị cáo từ 5.000.000 đồng đến 7.000.000 đồng do bị cáo thu nhập thấp, không ổn định, kinh tế gia đình khó khăn, tịch thu sung quỹ nhà nước số tiền 400.000 đồng do bị cáo phạm tội mà có, buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm Bị cáo không có ý kiến tranh luận gì và nói lời sau cùng: Bị cáo nhận tội và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau :
[1]. Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra công an huyện Thái Thụy, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dan huyện Thái Thụy, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đ ng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có khiếu nại về hành vi, các quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2]. Người làm chứng được triệu tập hợp lệ đến phiên tòa nhưng vắng mặt. Xét thấy tại giai đoạn điều tra họ đã có lời khai đầy đủ lưu trong hồ sơ vụ án nên sự vắng mặt của họ không ảnh hưởng đến việc xét xử, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án.
[3]. Về hành vi phạm tội của bị cáo: Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra và còn được chứng minh bằng các tài liệu, chứng cứ sau: Biên bản bắt người phạm tội quả tang, sơ đồ hiện trường, lời khai của những người làm chứng, biên bản quản lý vật chứng và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.
[4]. Như vậy đủ căn cứ để xác định: Khoảng 15 giờ 30 ph t ngày 30/01/2020, Nguyễn Thị M dùng nhà ở của mình cho các đối tượng Hà Ngọc Đ1, Lê Bá H, Lâm Tuấn A, Hà Thị L, Nguyễn Văn D2, Đỗ Hữu Th2, Lê Thị T1, Nguyễn Đức Tr, Nguyễn Viết đ, Lê Bá T, Vũ Năng D1, Nguyễn Văn Th1, Nguyễn Viết Th3, Nguyễn Đức v, Nguyễn Thị N2, Nguyễn Thị N1 đánh bạc sát phạt nhau bằng tiền dưới hình thức xóc đĩa. Đến khoảng 18 giờ 50 ph t ngày 30/01/2020 thì bị phát hiện bắt quả tang, thu giữ tại chiếu bạc số tiền 5.700.000 đồng. Trước khi cơ quan điều tra khi phát hiện và bắt quả tang Nguyễn Thị N2 và Nguyễn Thị N1 đã về trước, Nhùng có cầm về số tiền 600.000 đồng, N1 cầm về số tiền 400.000 đồng là tiền sử dụng trong quá trình đánh bạc. Tổng số tiền các đối tượng sử dụng đánh bạc là 6.700.000 đồng. Bị cáo N1 là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi đánh bạc sát phạt lẫn nhau bằng tiền, tạo thu nhập bất hợp pháp là vi phạm pháp luật nhưng vẫn thực hiện với lỗi cố ý. Vì vậy hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Đánh bạc” được quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự. Do đó cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân huyện Thái Thụy truy tố bị cáo là có căn cứ, đ ng pháp luật.
Điều 321. Tội Đánh bạc 1.Người nào đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật có giá trị từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 5.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc hành vi quy định tại Điều 322 của bộ luật này hoặc đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 322 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng [5]. Đây là vụ án đồng phạm giản đơn, các bị cáo Nguyễn Thị M, Hà Ngọc Đ1, Lê Bá H, Lâm Tuấn A, Hà Thị L, Nguyễn Văn D2, Đỗ Hữu Th2, Lê Thị T1, Nguyễn Đức Tr, Nguyễn Viết đ, Lê Bá T, Vũ Năng D1, Nguyễn Văn Th1, Nguyễn Viết Th3, Nguyễn Đức v, Nguyễn Thị N2 bị đưa ra xét xử và đã bị xử phạt theo bản án số 47/2020/HSST ngày 15/6/2020. Bị cáo N1 trực tiếp đánh bạc nhưng đã về trước khi bị bắt quả tang và có cầm về số tiền 400.000 đồng nên giữ vai trò thấp trong vụ án.
[6]. Về tính chất mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thấy: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến trật tự công cộng, ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an ở địa phương, sau khi phạm tội bị cáo đã bỏ trốn, cơ quan điều tra đã ra quyết định truy nã, gây khó khăn trong việc điều tra, truy tố và xét xử. Vì vậy cần phải quyết định một hình tù cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên được hưởng các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại các điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, vì vậy cần giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo [7]. Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo đánh bạc sát phạt nhau bằng tiền nên cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền để răn đe bị cáo. Tuy nhiên bị cáo làm nghề lao động tự do, thu nhập thấp, hoàn cảnh gia đình khó khăn. Để đảm bảo việc bị cáo thi hành án nên cần thiết áp dụng dưới khung hình phạt tiền đối với bị cáo.
[8]. Về xử lý vật chứng của vụ án: Những vật chứng, tài sản thu giữ ngày 30/01/2020 tại chiếu bạc và số tiền 600.000 đồng N2 mang về sau khi đánh bạc đã được giải quyết tại bản án số 47/2020/HSST ngày 15/6/2020.
Đối với bị cáo N1, sau khi đánh bạc, khi ra về có cầm số tiền 400.000 đồng, đây là tiền do phạm tội mà có nên cần tịch thu nộp vào ngân sách nhà nước.
[9].Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
1.Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Thị N1 phạm tội " Đánh bạc "
2. Về hình phạt: Căn cứ khoản 1, 3 Điều 321, Điều 17, Điều 38, khoản 3 Điều 35, Điều 50, điểm s, i khoản 1 Điều 51, Điều 58 Bộ luật hình sự.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị N1 06 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 03/5/2020.
Phạt bổ sung bị cáo 3.000.000 đồng., số tiền phạt này để sung công quỹ nhà nước.
3. Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm b khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.
Tịch thu bị cáo Nguyễn Thị N1 số tiền 400.000 đồng nộp vào ngân sách nhà nước.
4. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 về Án phí, Lệ phí Tòa án.
Bị cáo Nguyễn Thị N1 phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm .
5. Về quyền kháng cáo bản án: Căn cứ Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự:
Bị cáo có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, ngày 30/6/2020.
Bản án về tội đánh bạc số 55/2020/HS-ST
Số hiệu: | 55/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thái Thụy - Thái Bình |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 30/06/2020 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về