Bản án về tội đánh bạc số 50/2019/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN K, TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 50/2019/HS-ST NGÀY 06/11/2019 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 06 tháng 11 năm 2019 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện K xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 49/2019/HSST ngày 23 tháng 10 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 51/QĐXXST-HS ngày 25/10/2019 đối với bị cáo :

Họ và tên Trần Văn T, sinh năm 1985.

Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: xóm 8, xã N, huyện N, tỉnh Thanh Hóa; Nghề nghiệp:

Lao động tự do; Trình độ văn hoá: 9/12; dân tộc: kinh; tôn giáo: Công Giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn L và bà Dương Thị D; có vợ là Nguyễn Thị H và 02con;

Tiền án: Bản án số 12 ngày 23/4/2018 của TAND huyện N và Bản án số 139 ngày 06/8/2018 của TAND tỉnh T xử phạt bị cáo 09 tháng tù về tội đánh bạc, mới chấp hành xong hình phạt tù ngày 05/5/2019;

Tiền sự: Quyết định số 02 ngày 02/8/2019 Công an xã N, huyện N, tỉnh Thanh Hóa xử phạt 750.000đ về hành vi đánh nhau. Đã chấp hành xong ngày 23/8/2019.

Lịch sử bản thân : Bản án số 14 ngày 25/6/2015 của TAND huyện N, tỉnh Thanh Hóa xử phạt 04 tháng tù về tội hủy hoại tài sản. Chấp hành xong ngày 30/11/2015.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú (có mặt).

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Ông Nguyễn Đức L1, sinh năm 1948; Địa chỉ: xóm 12, xã L, huyện K, tỉnh Ninh Bình (vắng mặt).

- Anh Phạm Văn T1, sinh năm 1984; Địa chỉ: xóm 7, xã Định Hóa, huyện K, tỉnh Ninh Bình (vắng mặt).

* Người làm chứng: Bà Trần Thị L2 (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau :

Khoảng 14 giờ ngày 18/8/2019, Trần Văn T đi taxi từ nhà sang xã V, huyện K để mua cá biển nhưng không gặp được chủ cá nên T đi vào nhà nghỉ H của bà Trần Thị L2 ở xóm B, xã V thuê phòng nghỉ để đợi chủ cá. Quá trình ở nhà nghỉ khi T đi qua phòng 204 thì thấy cửa mở và bên trong có 02 người đang chơi bài quỳ là ông Nguyễn Đức L1 và anh Phạm Văn T1, T liền đi vào xin đánh cùng. Quá trình chơi, T1 rủ ông L1 và T đánh bài ăn tiền thì cả hai cùng đồng ý và ngồi trên giường đánh bạc bằng hình thức chơi liêng, đặt cược mỗi ván từ 10.000đ đến 50.000đ. Cả ba người chơi đánh bạc từ 15 giờ đến 16 giờ cùng ngày thì bị Công an huyện K phát hiện lập biên bản vi phạm hành chính, thu giữ tại chiếu bạc số tiền 3.070.000đ, 01 bộ bài 52 quân. Ngoài ra thu giữ trên người các đối tượng 03 chiếc điện thoại di động các loại, thu trên người L 200.000đ nhưng số tiền này L không sử dụng vào việc đánh bạc.

Quá trình điều tra xác định Trần Văn T đã có 01 tiền án về tội đánh bạc, còn L1 và T1 chưa có tiền án, tiền sự.

Bản cáo trạng số 51/CT-VKS ngày 21/10/2019 VKSND huyện K truy tố bị cáo Trần Văn T về tội “ Đánh bạc” theo khoản 1,3 Điều 321 Bộ luật hình sự năm 2015(BLHS 2015).

Tại phiên toà đại diện VKSND huyện K, tỉnh Ninh Bình giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử ( HĐXX ):

Tuyên bố bị cáo Trần Văn T phạm tội “ Đánh bạc”.

Áp dụng khoản 1,3 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51, 36 BLHS năm 2015: Xử phạt bị cáo Trần Văn T từ 9 - 12 tháng cải tạo không giam giữ; khấu trừ từ 5%-10% thu nhập đối với bị cáo; phạt bổ sung bị cáo từ 10 – 15 triệu đồng ;

Áp dụng các quy định của pháp luật để xử lý vật chứng đã thu giữ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Trong các lời khai trước đây cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo Trần Văn T đã hoàn toàn thừa nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung cáo trạng đã nêu. Bị cáo khai, chiều ngày 18/8/2019 trong lúc bị cáo cùng L1 và T1 đánh bài quỳ vui với nhau thì T1 rủ mọi người đánh bạc ăn tiền, L1 và bị cáo đều đồng ý, sau đó cả ba người cùng nhau đánh bạc bằng hình thức đánh liêng ăn tiền mỗi ván đặt cửa 10.000đ, mức tố cao nhất là 50.000đ, chơi từ 15 giờ đến 16 giờ cùng ngày thì bị Công an huyện K phát hiện lập biên bản vi phạm hành chính, thu trên chiếu bạc số tiền 3.070.000đ là tiền bị cáo và đồng bọn dùng vào việc đánh bạc.

Lời nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và người làm chứng và phù hợp với các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án như biên bản vi phạm hành chính, biên bản tiếp nhận nguồn tin về tội phạm, biên bản giao nhận vật chứng...

Như vậy, đã có đủ cơ sở kết luận bị cáo Trần Văn T là người đang có tiền án về tội đánh bạc chưa được xóa án tích, nay lại tiếp tục có hành vi đánh bạc được thua bằng tiền với người khác, do đó bị cáo Trần Văn T đã phạm tội “ Đánh bạc” quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự.

[2] Hành vi phạm tội của bị cáo mang tính chất nghiêm trọng và nguy hiểm cho xã hội, là tệ nạn xã hội cần phải loại trừ. Mặc dù bị cáo mới bị Tòa án huyện N và Tòa án tỉnh Thanh Hóa xử phạt 09 tháng tù về hành vi đánh bạc, mới chấp hành xong ngày 05/5/2019 chưa được xóa án tích, nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học để tự sửa chữa bản thân, lại còn tiếp tục thực hiện hành vi đánh bạc dưới hình thức đánh liêng được thua bằng tiền vì vậy cần phải xử lý bị cáo bằng biện pháp hình sự mới có tác dụng giáo dục, cải tạo bị cáo và góp phần giữ vững ổn định trật tự xã hội trên địa bàn.

[3] Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình giải quyết vụ án bị cáo khai báo thành khẩn và tỏ thái độ ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015.

[5] Xét nhân thân, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo như đã phân tích ở trên, HĐXX xét thấy: mặc dù bị cáo không có tình tiết tăng nặng và số tiền dùng vào việc đánh bạc không lớn, tuy chưa đến mức phải cách ly xã hội nhưng cũng cần buộc bị cáo phải chịu hình phạt cải tạo không giam giữ đồng thời cần phải khấu trừ thu nhập và phạt tiền bổ sung đối với bị cáo mới đủ điều kiện để cải tạo.

Trong vụ án này, Nguyễn Đức L1 và Phạm Văn T1 có hành vi đánh bạc với bị cáo T, nhưng tổng số tiền dùng vào việc đánh bạc là 3.070.000đ chưa đủ định lượng về tội đánh bạc; Cả L1 và T1 đều chưa có tiền án, tiền sự về hành vi đánh bạc, tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc nên chưa đủ điều kiện để truy tố về tội đánh bạc, Công an huyện K đã ra quyết định xử phạt hành chính đối với những người này là đúng quy dịnh của pháp luật.

[5] Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp: Quá trình giải quyết vụ án, cơ quan điều tra đã trả lại cho Nguyễn Đức L1 200.000đ và 01 điện thoại di động Nokia 130, trả cho Phạm Văn T1 01 điện thoại di động Mobell, còn số tiền 3.070.000đ là tiền bị cáo và đồng bọn dùng vào việc phạm tội, cần tịch thu sung quỹ nhà nước; Đối với bộ tú lơ khơ 52 quân bị cáo dùng làm công cụ phạm tội và là vật không còn giá trị sử dụng vì vậy cần tịch thu cho tiêu hủy; Chiếc điện thoại di động Oppo thu giữ của bị cáo không liên quan đến hành vi phạm tội cần trả lại cho bị cáo nhưng cần tiếp tục quản lý để đản bảo thi hành án.

[6] Về án phí: Bị cáo Trần Văn T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[7] Quá trình điều tra, truy tố, xét xử vụ án, Điều tra viên và Kiểm sát viên đã thực hiện hành vi tố tụng hoàn toàn hợp pháp theo đúng quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên :

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Trần Văn T phạm tội “ Đánh bạc”.

+ Áp dụng khoản 1,3 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 36 BLHS năm 2015:

Xử phạt bị cáo Trần Văn T 12 tháng cải tạo không giam giữ; khấu trừ 5% thu nhập hàng tháng đối với bị cáo trong thời gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ để sung quỹ nhà nước; phạt bổ sung bị cáo Trần Văn T số tiền 15 triệu đồng sung quỹ nhà nước. Thời hạn cải tạo không giam giữ của bị cáo Tiến tính từ ngày UBND xã N, huyện N, tỉnh Thanh Hóa nơi bị cáo cư trú nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án.

Giao bị cáo Trần Văn T cho UBND xã N, huyện N, tỉnh Thanh Hóa giám sát giáo dục trong thời gian cải tạo không giam giữ; gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.

+ Áp dụng Điều 47 BLHS; Căn cứ Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 năm 2015:

- Tịch thu số tiền 3.070.000đ là tiền bị cáo và đồng bọn đã dùng vào việc phạm tội để sung quỹ nhà nước;

- Tịch thu bộ tú lơ khơ 52 quân là vật bị cáo dùng làm công cụ phạm tội và là vật không có giá trị sử dụng cho tiêu hủy.

- Trả lại cho bị cáo Trần Văn T 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Oppo nhưng cần tiếp tục quản lý để đảm bảo thi hành án.

+Căn cứ Điều 136 BLTTHS năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, buộc bị cáo Trần Văn T phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án được thực hiện theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người có quyền và nghĩa vụ thi hành án có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Án xử sơ thẩm công khai bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

34
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội đánh bạc số 50/2019/HS-ST

Số hiệu:50/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kim Sơn - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;