Bản án 48/2021/HS-ST về tội đánh bạc

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THANH THỦY, TỈNH PHÚ THỌ

BẢN ÁN 48/2021/HS-ST NGÀY 29/10/2021 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Trong ngày 29 tháng 10 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện dân huyện T, tỉnh Phú Thọ mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 45 /2021/TLST-HS ngày 01 tháng 10 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 103/2021/QĐXXST- HS ngày 14 tháng 10 năm 2021 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Phùng Công Đ; Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam;

- Sinh ngày: 18/11/1983 tại huyện T, Phú Thọ;

- Nơi ĐKHKTT: Khu 1, thị trấn TT, huyện T, tỉnh Phú Thọ;

- Chỗ ở hiện nay: Khu 1, thị trấn TT, huyện T, tỉnh Phú Thọ;

- Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không;

- Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 2/12.

- Bố đẻ: Phùng Công Đ – Đã chết; Mẹ đẻ: Phạm Thị N – Sinh năm 1934.

- Anh chị em ruột: gia đình có 4 anh chị em, bị cáo là thứ 4;

- Vợ: Nguyễn Thị S, sinh năm 1990.

- Con: Có 2 con, lớn sinh năm 2012; nhỏ sinh năm 2016.

- Tiền án, tiền sự: Không Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 24/7/2021, đến ngày 29/7/2021 được hủy bỏ biện pháp tạm giữ. Hiện bị cáo đang chấp hành Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú tại thị trấn T, huyện T, tỉnh Phú Thọ.(Có mặt).

2. Họ và tên: Nguyễn Hữu H; Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam;

- Sinh ngày: 29/12/1983 tại huyện T, tỉnh Phú Thọ;

- Nơi ĐKHKTT: Khu 1, thị trấn TT, huyện T, tỉnh Phú Thọ;

- Chỗ ở hiện nay: Khu 1, thị trấn TT, huyện T, tỉnh Phú Thọ;

- Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Công giáo;

- Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 9/12.

- Bố: Nguyễn Văn V, sinh năm 1958. - Mẹ: Nguyễn Thị M, sinh năm 1960.

- Anh, chị, em ruột: gia đình có 4 anh em; bị cáo là thứ nhất;

- Vợ: Phạm Thị Thuý T – Sinh năm 1982.

- Con: Có 3 con, lớn nhất sinh năm 2007, nhỏ nhất sinh năm 2019;

- Tiền án, Tiền sự: Không - Lịch sử bản thân: Ngày 25/01/2011, H1 bị Công an huyện T xử phạt hành chính số tiền 1.500.000đ về hành vi vu cáo làm ảnh hưởng đến uy tín của cá nhân.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 24/7/2021, đến ngày 29/7/2021 được hủy bỏ biện pháp tạm giữ. Hiện bị cáo đang chấp hành Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú tại thị trấn T, huyện T, tỉnh Phú Thọ. (Có mặt).

3. Họ và tên: Nguyễn Văn H; - Tên gọi khác: Không; - Giới tính: Nam;

- Sinh ngày: 20/9/1979 tại huyện T, Phú Thọ;

- Nơi ĐKHKTT: Khu 1, thị trấn TT, huyện T, tỉnh Phú Thọ;

- Chỗ ở hiện nay: Khu 1, thị trấn TT, huyện T, tỉnh Phú Thọ;

- Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Công giáo;

- Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 3/12.

- Bố: Con ngoài giá thú; Mẹ: Nguyễn Thị D – Sinh năm 1959.

- Vợ: Nguyễn Thị T – Sinh năm 1978. Đã ly hôn.

- Con: Có 2 con, lớn sinh năm 2008; nhỏ sinh năm 2013.

- Tiền án, Tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 24/7/2021, đến ngày 29/7/2021 được hủy bỏ biện pháp tạm giữ. Hiện bị cáo đang chấp hành Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú tại thị trấn T, huyện T, tỉnh Phú Thọ. (Có mặt).

4. Họ và tên: Nguyễn Anh H; Tên gọi khác: không;- Giới tính: Nam;

- Sinh ngày: 02/5/1983 tại huyện T, Phú Thọ;

- Nơi ĐKHKTT: Khu 1, thị trấn TT, huyện T, tỉnh Phú Thọ;

- Chỗ ở hiện nay: Khu 8, xã H1g Xá, huyện T, tỉnh Phú Thọ;

- Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Công giáo;

- Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 6/12.

- Bố: Nguyễn Ngọc N – Đã chết; - Mẹ: Nguyễn Thị T – Đã chết;

- Anh, chị, em ruột: gia đình có 8 anh chị em; bị cáo là thứ 8;

- Vợ: Nguyễn Thị M – Sinh năm 1986.

- Con: Có 3 con, lớn nhất sinh năm 2008; nhỏ nhất sinh năm 2020;

- Tiền án, tiền sự: Không;

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 24/7/2021, đến ngày 29/7/2021 được hủy bỏ biện pháp tạm giữ. Hiện bị cáo đang chấp hành Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú tại xã H1g Xá, huyện T, tỉnh Phú Thọ.(Có mặt).

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Chị Nguyễn Thị S, sinh năm 1990.

Địa chỉ: Khu 1, thị trấn T, huyện T, tỉnh Phú Thọ. (Vắng mặt).

Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Hữu H: Bà Nguyễn Thị S - Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Phú Thọ.(Có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 00 giờ 20 phút ngày 24/7/2021, Công an huyện T phối hợp cùng Công an thị trấn T bắt quả tang tại nhà ở của Phùng Công Đ – Sinh năm 1983, ở Khu 1, thị trấn TT, huyện T các đối tượng đang đánh bạc bằng hình thức đánh ba cây ăn tiền gồm: Phùng Công Đ – chủ nhà, Nguyễn Hữu H – Sinh năm 1983, ở Khu 1, thị trấn TT; Nguyễn Anh H – Sinh năm 1983, ở khu 8 xã H1g Xá, huyện T và Nguyễn Văn H – Sinh năm 1979, ở Khu 1, thị trấn TT. Thu giữ tại nơi các đối tượng đánh bạc 36 quân bài tú lơ khơ từ A đến 9;

01 chiếu cói màu đỏ đã cũ và số tiền 10.500.000đ. Kiểm tra người Đường tạm giữ số tiền 90.000đ tại túi quần bên phải. Kiểm tra người Học tạm giữ số tiền 6.000.000đ ở cạp quần sau bên phải. Kiểm tra người H1 tạm giữ số tiền 90.000 đ ở túi quần bên phải cùng 01 ĐTDĐ nhãn hiệu Redmi màu đen lắp sim số 0977.250.xxx và 0358.202.xxx. Kiểm tra người H tạm giữ 01 ĐTDĐ Iphone X màu đen lắp sim số 0972.556.xxx.

Cơ quan CSĐT Công an huyện T đã ra Lệnh khám xét khẩn cấp chỗ ở của Phùng Công Đ ở Khu 1 thị trấn T. Tại biên bản khám xét hồi 01 giờ 15 phút ngày 24/7/2021 tại nhà ở của Đường: tạm giữ bên trong két sắt phòng ngủ của Phùng Công Đ số tiền 69.800.000đ.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và đưa các đối tượng cùng toàn bộ tài liệu, chứng cứ có liên quan về trụ sở Công an huyện để điều tra làm rõ. Tại Cơ quan điều tra, các đối tượng khai nhận hành vi phạm tội như sau:

Khoảng 19 giờ 30 phút ngày 23/7/2021, Phùng Công Đ, Nguyễn Hữu H, Nguyễn Anh H và Nguyễn Văn H ăn cơm uống rượu tại nhà của Đường ở Khu 1 thị trấn T. Đến khoảng 21 giờ 30 phút, sau khi uống rượu xong, Đường, H1, H và Học ngồi uống nước tại phòng khách nhà Đường. Tại đây, Đường rủ mọi người “làm tý ” (tức là đánh bạc) thì mọi người đều đồng ý. H1 cầm bộ bài tú lơ khơ 36 quân từ A đến 9 để ở trên kệ tủ tivi xuống rồi cùng Đường, H, Học ngồi trên chiếu trải sẵn tại nền nhà gian phòng khách đánh ba cây ăn tiền. Các đối tượng thống nhất cách thức chơi như sau: Dùng bộ bài tú lơ khơ gồm 36 quân (từ quân A đến quân 9). Một người cầm chương (tức người chia bài) chia đều cho mỗi người chơi 03 quân bài. Su khi nhận bài của mình, người chơi lên bài tính điểm để so sánh với bài của người cầm chương, ai đánh riêng lẻ với nhau thì tuỳ ý. Nếu ai có tổng điểm 03 quân bài cao hơn của người làm chương thì sẽ được ăn tiền của người làm chương, và ngược lại nếu tổng điểm 03 quân bài thấp hơn của người làm chương thì sẽ phải trả tiền cho người làm chương. Mức đặt cược của mỗi người chơi với người làm chương là 50.000đ/ván. Cách tính điểm là lấy số của 03 quân bài cộng với nhau để lấy tổng (quân A tính là 01 điểm, các quân còn lại thì điểm tương ứng với số trên quân bài). Nếu ai có tổng điểm của 03 quân bài là trên 10 điểm thì điểm của người đó được tính là hàng đơn vị của tổng điểm. Nếu ai có tổng điểm 03 quân bài là 20 điểm thì điểm của người đó được tính là 10 điểm. Nếu người chơi có bài cùng số điểm thì so sánh đến giá trị quân bài theo thứ tự A>9>8>...>3>2, nếu cùng giá trị quân bài thì xét chất của các quân bài với nhau lần lượt theo thứ tự từ cao xuống thấp là Rô, Cơ, Tép, Bích để xác định thắng thua. Quá trình chơi thì người làm chương có thể thay đổi ngẫu nhiên, nếu ai có tổng điểm 03 quân bài là 10 điểm thì sẽ là người làm chương ở ván bài tiếp theo. Các đối tượng đánh bạc đến 00 giờ 20 phút thì lực lượng Công an huyện T phát hiện bắt quả tang và thu giữ toàn bộ số tang vật nêu trên.

Về số tiền các đối tượng tham gia đánh bạc, các đối tượng khai nhận như sau: Đuờng sử dụng số tiền 4.590.000đ, H sử dụng số tiền 5.000.000đ, Học sử dụng số tiền 5.000.000đ và H1 sử dụng số tiền 2.000.000đ. Cơ quan Công an thu giữ tại nơi đánh bạc và trên người các đối tượng đánh bạc tổng số tiền 16.680.000đ. Tuy nhiên, đối với số tiền 90.000đ thu giữ ở túi quần của H1, H1 khai nhận không sử dụng số tiền trên vào mục đích đánh bạc. Do đó, xác định tổng số tiền các đối tượng sử dụng vào mục đích đánh bạc là 16.590.000đ.

Căn cứ hành vi phạm tội của Phùng Công Đ, Nguyễn Hữu H, Nguyễn Anh H và Nguyễn Văn H, ngày 29/7/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T đã Quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với Phùng Công Đ, Nguyễn Hữu H, Nguyễn Anh H và Nguyễn Văn H về tội “Đánh bạc” theo quy định tại Khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự. Tại Cơ quan CSĐT Công an huyện T Phùng Công Đ, Nguyễn Hữu H, Nguyễn Anh H và Nguyễn Văn H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội đánh bạc của mình dưới hình thức đánh “Ba cây” ngày 24/7/2021.

Tại bản cáo trạng số 45/CT- VKSTT ngày 01 tháng 10 năm 2021, của Viện kiểm sát nhân dân huyện T, tỉnh Phú Thọ truy tố các bị cáo Phùng Công Đ, Nguyễn Hữu H, Nguyễn Anh H và Nguyễn Văn H về tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa hôm nay các bị cáo Phùng Công Đ, Nguyễn Hữu H, Nguyễn Anh H và Nguyễn Văn H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã truy tố.

Tại phiên toà hôm nay Kiểm sát viên - Viện kiểm sát nhân dân huyện T vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố các bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:

* Căn cứ vào khoản 1 Điều 321; Điểm i, s khoản 1 Điều 51; khoản 1, 2, 5 Điều 65 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Phùng Công Đ.

* Căn cứ vào khoản 1 Điều 321; Điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 36 Bộ luật Hình sự đối với các bị cáo Nguyễn Hữu H, Nguyễn Anh H, Nguyễn Văn H .

1. Tuyên bố: Các bị cáo Phùng Công Đ, Nguyễn Hữu H, Nguyễn Anh H, Nguyễn Văn H phạm tội "Đánh bạc”.

2. Xử phạt:

- Bị cáo Phùng Công Đ từ 09 tháng tù đến 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 18 tháng đến 24 tháng, thời hạn thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. Giao bị cáo Phùng Công Đ cho Ủy ban nhân dân thị trấn T, huyện T, tỉnh Phú Thọ và gia đình giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách. Trong trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì việc giám sát và giáo dục bị cáo được thực hiện theo Khoản 1 Điều 92 Luật thi hành án hình sự.

Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo Phùng Công Đ.

- Bị cáo Nguyễn Hữu H từ 18 đến 24 tháng cải tạo không giam giữ. Được trừ thời gian đã bị tạm giữ là 05 ngày (từ ngày 24/7/2021 đến ngày 29/7/2021) quy đổi bằng 15 ngày cải tạo không giam giữ. Bị cáo còn phải chấp hành từ 17 tháng 15 ngày đến 23 tháng 15 ngày cải tạo không giam giữ. Thời hạn cải tạo không giam giữ tính từ ngày UBND thị trấn T, huyện T, tỉnh Phú Thọ nhận được Quyết định thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ và Bản án. Miễn hình phạt bổ sung, miễn khấu trừ thu nhập cho bị cáo Nguyễn Hữu H.

- Bị cáo Nguyễn Văn H từ 12 đến 15 tháng cải tạo không giam giữ. Được trừ thời gian đã bị tạm giữ là 05 ngày (từ ngày 24/7/2021 đến ngày 29/7/2021) quy đổi bằng 15 ngày cải tạo không giam giữ. Bị cáo còn phải chấp hành từ 11 tháng 15 ngày đến 14 tháng 15 ngày cải tạo không giam giữ. Thời hạn cải tạo không giam giữ tính từ ngày UBND thị trấn T, huyện T, tỉnh Phú Thọ nhận được Quyết định thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ và Bản án.

Miễn hình phạt bổ sung, miễn khấu trừ thu nhập cho bị cáo Nguyễn Văn H.

- Bị cáo Nguyễn Anh H từ 12 đến 15 tháng cải tạo không giam giữ. Được trừ thời gian đã bị tạm giữ là 05 ngày (từ ngày 24/7/2021 đến ngày 29/7/2021) quy đổi bằng 15 ngày cải tạo không giam giữ. Bị cáo còn phải chấp hành từ 11 tháng 15 ngày đến 14 tháng 15 ngày cải tạo không giam giữ. Thời hạn cải tạo không giam giữ tính từ ngày UBND xã H1g Xá, huyện T, tỉnh Phú Thọ nhận được Quyết định thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ và Bản án.

Miễn hình phạt bổ sung, miễn khấu trừ thu nhập cho bị cáo Nguyễn Anh H.

3. Về vật chứng: Căn cứ điểm a, b khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Tịch thu để sung Ngân sách Nhà nước số tiền 16.590.000đồng(mười sáu triệu năm trăm chín mươi nghìn đồng) là số tiền các bị cáo sử dụng để đánh bạc.

- Tịch thu tiêu hủy: 36 quân bài tú lơ khơ từ A đến 9; 01 chiếu cói màu đỏ đã cũ.

(Vật chứng trên hiện Chi cục thi hành án dân sự huyện T đang quản lý, theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 18/10/2021).

- Xác nhận quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an huyện T đã trả lại cho Nguyễn Hữu H 01 điện thoại di động nhãn hiệu Redmi màu đen lắp sim số 0977.250.xxx và 0358.202.xxx; Trả lại cho Nguyễn Anh H 01 ĐTDĐ Iphone X màu đen lắp sim số 0972.556.xxxlà hợp pháp.

- Xác nhận quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an huyện T đã trả lại cho chị Nguyễn Thị S (là vợ của Phùng Công Đ) số tiền 69.800.000đồng đã thu giữ tại buồng ngủ nhà Phùng Công Đ khi khám xét khẩn cấp là hợp pháp.

- Trả lại cho bị cáo H1 số tiền 90.000đ nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Hữu H trình bày: Bị cáo đã phạm tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 BLHS. Bản cáo trạng số 45/CT-VKSTT ngày 01/10/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện T, tỉnh Phú Thọ truy tố bị cáo Nguyễn Hữu H là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; Nhất trí với các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà đại diện Viện kiểm sát đã đưa ra. Đề nghị HĐXX xem xét cho bị cáo được hưởng mức án nhẹ nhất.

Căn cứ vào hồ sơ vụ án, các tài liệu và chứng cứ được thẩm tra tại phiên toà; Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, ý kiến của người bào chữa, lời khai của các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử (HĐXX) nhận định như sau:

[1] Về tố tụng:

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện T, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện T, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt không có lý do. Kiểm sát viên, các bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử tiếp tục xét xử vắng mặt người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Xét thấy người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã có lời khai thể hiện trong hồ sơ và việc vắng mặt của họ không gây trở ngại cho việc xét xử vụ án nên Hội đồng xét xử căn cứ Điều 292 Bộ luật tố tụng hình sự để tiếp tục xét xử vụ án là phù hợp.

[2] Về nội dung:

[2.1] Tại phiên tòa các bị cáo Phùng Công Đ, Nguyễn Hữu H, Nguyễn Anh H và Nguyễn Văn H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung cáo trạng đã nêu, thừa nhận nội dung cáo trạng truy tố là đúng, không oan sai. Lời khai nhận của các bị cáo tại Cơ quan điều tra và lời khai tại phiên toà hôm nay đều thống nhất với nhau, phù hợp với nội dung vụ án và phù hợp với vật chứng thu giữ. Như vậy khẳng định:

Ngày 24/7/2021, tại nhà ở của Phùng Công Đ – Sinh năm 1983, ở Khu 1 thị trấn T, huyện T, các bị can Phùng Công Đ; Nguyễn Anh H – Sinh năm 1983; Nguyễn Hữu H – Sinh năm 1983 và Nguyễn Văn H – Sinh năm 1979, cùng có HKTT tại Khu 1 thị trấn T, huyện T đã có hành vi Đánh bạc trái phép bằng hình thức đánh “ba cây” được thua bằng tiền với tổng số tiền sử dụng vào mục đích đánh bạc là 16.590.000đ.

Hành vi của các bị cáo đã phạm vào tội “đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự.

Khoản 1, Điều 321 Bộ luật hình sự quy định:

“ 1. Người nào đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật trị giá từ 5.000.000đồngđến dưới 50.000.000đồng hoặc dưới 5.000.000đồng nhưng đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc hành vi quy định tại Điều 322 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 322 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 20.000.000đồng đến 100.000.000đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”.

[2.2] Xét nhân thân của bị cáo và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thấy rằng:

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra các bị cáo đều“Thành khẩn khai báo” và đều “ Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng”. Nên các bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào theo quy định tại Điều 52 BLHS.

Xét tính chất vụ án là ít nghiêm trọng, hành vi phạm tội của các bị cáo gây mất trật tự trị an ở địa phương, ảnh hưởng đến sự ổn định kinh tế gia đình, là nguồn gốc phát sinh nhiều tệ nạn xã hội khác. Do vậy cần phải xét xử nghiêm minh đối với các bị cáo để có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

Đối với bị cáo Phùng Công Đ là chủ nhà, là người rủ rê mọi người tham gia đánh bạc nên mức hình phạt sẽ cao hơn các bị cáo khác. Tuy nhiên bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, không có tiền án, tiền sự, có nơi cư trú rõ ràng nên chỉ cần áp dụng hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo cho bị cáo cải tạo tại cộng đồng cũng có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung .

Đối với bị cáo Nguyễn Hữu H có lịch sử bản thân: Ngày 25/01/2011, H1 bị Công an huyện T xử phạt hành chính số tiền 1.500.000đ về hành vi vu cáo làm ảnh hưởng đến uy tín của cá nhân. Bị cáo đã chấp hành xong khoản tiền phạt năm 2011 nên xác định bị cáo có nhân thân tốt nên không nhất thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội chỉ cần áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ có sự giám sát, giáo dục của chính quyền địa phương cũng đủ điều kiện để cải tạo giáo dục các bị cáo trở thành người có ích cho xã hội. Tuy nhiên khi xem xét quyết định hình phạt đối với bị cáo cũng cần xử phát mức án cao hơn các bị cáo khác Đối với các bị cáo Nguyễn Anh H, Nguyễn Văn H có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nơi cư trú ổn định, nên không nhất thiết phải cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội chỉ cần áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ có sự giám sát, giáo dục của chính quyền địa phương cũng đủ điều kiện để cải tạo giáo dục các bị cáo trở thành người có ích cho xã hội.

[2.3]Về hình phạt bổ sung:

Theo xác minh của cơ quan điều tra thì các bị cáo đều không có tài sản gì riêng, là lao động tự do thu nhập không ổn định nên miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo Đường và miễn hình phạt bổ sung miễn khấu trừ thu nhập cho các bị cáo H1, H, Học là phù hợp.

[2.4] Về vật chứng:

- Tịch thu để sung Ngân sách Nhà nước số tiền 16.590.000 đồng (mười sáu triệu năm trăm chín mươi nghìn đồng) là số tiền các bị cáo sử dụng để đánh bạc.

- Tịch thu tiêu hủy: 36 quân bài tú lơ khơ từ A đến 9; 01 chiếu cói màu đỏ đã cũ.

- Đối với số tiền 69.800.000đồng đã thu giữ tại buồng ngủ nhà Phùng Công Đ khi khám xét khẩn cấp, quá trình điều tra xác định: Số tiền này là tiền tích cóp của chị Hà Thị Mậu (là chị dâu của Phùng Công Đ) gửi nhờ nhà Phùng Công Đ không liên quan gì đến hành vi đánh bạc của Đường. Vì vậy Cơ quan điều tra đã trả lại số tiền trên cho chị Soan (là vợ của Phùng Công Đ) là phù hợp với quy định của pháp luật.

- Đối với số tiền 90.000đ thu giữ ở túi quần của H1 không liên quan đến hành vi đánh bạc nên trả lại cho bị cáo H1 nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án là phù hợp.

- Xác nhận quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an huyện T đã trả lại cho Nguyễn Hữu H 01 điện thoại di động nhãn hiệu Redmi màu đen lắp sim số 0977.250.xxx và 0358.202.xxx; Trả lại cho Nguyễn Anh H 01 ĐTDĐ Iphone X màu đen lắp sim số 0972.556.xxxlà hợp pháp.

[2.5] Về án phí và quyền kháng cáo: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm. Các bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

[2.6] Đề nghị của đại diện VKSND huyện T tại phiên tòa phù hợp với nhận định của HĐXX nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

* Căn cứ vào khoản 1 Điều 321; Điểm i, s khoản 1 Điều 51; khoản 1, 2, 5 Điều 65 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Phùng Công Đ.

* Căn cứ vào khoản 1 Điều 321; Điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 36 Bộ luật Hình sự đối với các bị cáo Nguyễn Hữu H, Nguyễn Anh H, Nguyễn Văn H .

1. Tuyên bố: Các bị cáo Phùng Công Đ, Nguyễn Hữu H, Nguyễn Anh H, Nguyễn Văn H phạm tội "Đánh bạc”.

2. Xử phạt:

- Bị cáo Phùng Công Đ 09 (Chín) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 18(Mười tám) tháng, thời hạn thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. Giao bị cáo Phùng Công Đ cho Ủy ban nhân dân thị trấn T, huyện T, tỉnh Phú Thọ và gia đình giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách. Trong trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì việc giám sát và giáo dục bị cáo được thực hiện theo Khoản 1 Điều 92 Luật thi hành án hình sự.

“ Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo”.

Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo Phùng Công Đ.

Hủy bỏ Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số 45/2021/LCĐKNCT-TA ngày 01/10/2021 của Tòa án nhân dân huyện T đối với bị cáo Đường.

- Bị cáo Nguyễn Hữu H 18 (Mười tám) tháng cải tạo không giam giữ. Được trừ thời gian đã bị tạm giữ là 05 ngày (từ ngày 24/7/2021 đến ngày 29/7/2021) quy đổi bằng 15 ngày cải tạo không giam giữ. Bị cáo còn phải chấp hành 17 (Mười bẩy) tháng 15 (Mười lăm) ngày cải tạo không giam giữ. Thời hạn cải tạo không giam giữ tính từ ngày UBND thị trấn T, huyện T, tỉnh Phú Thọ nhận được Quyết định thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ và Bản án. Giao bị cáo H1 cho UBND thị trấn T, huyện T, tỉnh Phú Thọ giám sát, giáo dục trong thời gian chấp hành hình phạt, gia đình bị cáo H1 có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giáo dục bị cáo.

Miễn hình phạt bổ sung, miễn khấu trừ thu nhập cho bị cáo Nguyễn Hữu H.

Hủy bỏ Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số 45/2021/LCĐKNCT-TA ngày 01/10/2021 của Tòa án nhân dân huyện T đối với bị cáo H1.

- Bị cáo Nguyễn Văn H 12 (Mười hai) tháng cải tạo không giam giữ. Được trừ thời gian đã bị tạm giữ là 05 ngày (từ ngày 24/7/2021 đến ngày 29/7/2021) quy đổi bằng 15 ngày cải tạo không giam giữ. Bị cáo còn phải chấp hành 11 (Mười một) tháng 15 (Mười lăm) ngày cải tạo không giam giữ. Thời hạn cải tạo không giam giữ tính từ ngày UBND thị trấn T, huyện T, tỉnh Phú Thọ nhận được Quyết định thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ và Bản án. Giao bị cáo Học cho UBND thị trấn T, huyện T, tỉnh Phú Thọ giám sát, giáo dục trong thời gian chấp hành hình phạt, gia đình bị cáo Học có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giáo dục bị cáo.

Miễn hình phạt bổ sung, miễn khấu trừ thu nhập cho bị cáo Nguyễn Văn H.

Hủy bỏ Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số 45/2021/LCĐKNCT-TA ngày 01/10/2021 của Tòa án nhân dân huyện T đối với bị cáo Học.

- Bị cáo Nguyễn Anh H 12 (Mười hai) tháng cải tạo không giam giữ. Được trừ thời gian đã bị tạm giữ là 05 ngày (từ ngày 24/7/2021 đến ngày 29/7/2021) quy đổi bằng 15 ngày cải tạo không giam giữ. Bị cáo còn phải chấp hành 11 (Mười một) tháng 15 (Mười lăm) ngày cải tạo không giam giữ. Thời hạn cải tạo không giam giữ tính từ ngày UBND xã H1g Xá, huyện T, tỉnh Phú Thọ nhận được Quyết định thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ và Bản án. Giao bị cáo H cho UBND xã H1g Xá, huyện T, tỉnh Phú Thọ giám sát, giáo dục trong thời gian chấp hành hình phạt, gia đình bị cáo H có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giáo dục bị cáo.

Miễn hình phạt bổ sung, miễn khấu trừ thu nhập cho bị cáo Nguyễn Anh H.

Hủy bỏ Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số 45/2021/LCĐKNCT-TA ngày 01/10/2021 của Tòa án nhân dân huyện T đối với bị cáo H.

Các bị cáo Nguyễn Hữu H, Nguyễn Anh H, Nguyễn Văn H phải thực hiện một số công việc lao động phục vụ cộng đồng trong thời gian cải tạo không giam giữ .Thời gian lao động phục vụ cộng đồng không quá 04 giờ trong 01 ngày và không quá 05 ngày trong 01 tuần theo các quy định về cải tạo không giam giữ tại Điều 36- BLHS. Người bị kết án cải tạo không giam giữ phải thực hiện những nghĩa vụ quy định tại Luật thi hành án hình sự.

3. Về vật chứng: Căn cứ điểm a, b khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Tịch thu để sung Ngân sách Nhà nước số tiền 16.590.000đồng(mười sáu triệu năm trăm chín mươi nghìn đồng) là số tiền các bị cáo sử dụng để đánh bạc.

- Tịch thu tiêu hủy: 36 quân bài tú lơ khơ từ A đến 9; 01 chiếu cói màu đỏ đã cũ.

(Vật chứng trên hiện Chi cục thi hành án dân sự huyện T đang quản lý, theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 18/10/2021).

- Xác nhận quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an huyện T đã trả lại cho Nguyễn Hữu H 01 điện thoại di động nhãn hiệu Redmi màu đen lắp sim số 0977.250.xxx và 0358.202.xxx; Trả lại cho Nguyễn Anh H 01 ĐTDĐ Iphone X màu đen lắp sim số 0972.556.xxx là hợp pháp.

- Xác nhận quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an huyện T đã trả lại cho chị Nguyễn Thị S (là vợ của Phùng Công Đ) số tiền 69.800.000đồng đã thu giữ tại buồng ngủ nhà Phùng Công Đ khi khám xét khẩn cấp là hợp pháp.

- Trả lại cho bị cáo H1 số tiền 90.000đồng nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

4. Về án phí: Căn cứ vào khoản 2, Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự . Điểm a, Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

Các bị cáo Phùng Công Đ, Nguyễn Hữu H, Nguyễn Anh H, Nguyễn Văn H mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

5.Về quyền kháng cáo: Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án các bị cáo có mặt được quyền kháng cáo Bản án, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo Bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai tại trụ sở UBND nơi họ cư trú để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

45
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 48/2021/HS-ST về tội đánh bạc

Số hiệu:48/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thanh Thuỷ - Phú Thọ
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/10/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;