TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN THỦY, TỈNH HÒA BÌNH
BẢN ÁN 45/2024/HS-ST NGÀY 29/09/2024 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC
Ngày 29 tháng 9 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Yên Thủy, tỉnh Hòa Bình, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 38/2024/TLST-HS ngày 12 tháng 9 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 40/2024/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 9 năm 2024 và Quyết định hoãn phiên tòa số 20/2024/HSST/QĐ ngày 24/9/2024 đối với các bị cáo:
1. Nguyễn Thị N; Tên gọi khác: Không; Sinh ngày 06 tháng 12 năm 1988; Nơi cư trú: xóm P, xã L, huyện Y, tỉnh Hòa Bình. Giới tính: Nữ; Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Chức vụ trước khi phạm tội: Không; Trình độ học vấn: 12/12; Con ông: Nguyễn Văn T (đã chết) và bà Trần Thị K; Tiền án, tiền sự: Không; có chồng là Nguyễn Duy H và 2 con; Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 09/6/2024 đến ngày 18/6/2024, được cho tại ngoại, hiện bị cáo đang chấp hành Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú của Tòa án nhân dân huyện Yên Thủy. (Có mặt tại phiên tòa)
2. Bùi Phú V; Tên gọi khác: Không; Sinh ngày 07 tháng 3 năm 1981. Nơi cư trú: xóm A, xã G, huyện G, tỉnh Ninh Bình. Giới tính: Nam. Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Nghề nghiệp: Lái xe. Chức vụ trước khi phạm tội: Không. Bị cáo là Đảng viên Đ2, hiện đã bị tạm đình chỉ sinh hoạt đảng theo Quyết định đình chỉ sinh hoạt đảng số 101/QĐ/UBKTHU ngày 12/9/2024 của Ủy ban Kiểm tra Huyện ủy huyện G, tỉnh Ninh Bình. Trình độ học vấn: 12/12. Con ông: Bùi Phú L và bà Quách Thị T1, có vợ là: Đinh Thị B và 03 con; Tiền án, tiền sự: Không. Nhân thân: Tại Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 31 ngày 04/10/2022, đã thực hiện hành vi vi phạm hành chính: Cùng đồng phạm đánh bạc bằng hình thức đánh liêng được thua bằng tiền, bị phát hiện lúc 16 giờ 35 phút ngày 09/9/2022 tại xóm G, xã G, huyện G, tỉnh Ninh Bình. Phạt tiền 1.500.000 đồng. Bị cáo đã nộp phạt ngày 6/10/2022. Bị tạm giữ từ ngày 09/6/2024 đến ngày 18/6/2024, được cho tại ngoại, hiện bị cáo đang chấp hành Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú của Tòa án nhân dân huyện Yên Thủy. (Có mặt tại phiên tòa)
3. Bùi Trọng C; Tên gọi khác: Không. Sinh ngày 18 tháng 11 năm 1978; Nơi cư trú: xóm M, xã Y, huyện Y, tỉnh Hòa Bình. Giới tính: Nam. Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Nghề nghiệp: Lái xe; Chức vụ trước khi phạm tội: Không; Trình độ học vấn: 9/12. Con ông: Bùi Đức M và bà Nguyễn Thị Thu H1; Tiền án, tiền sự: Không; Có vợ là Bùi Thị N1 và 02 con. Bị tạm giữ từ ngày 09/6/2024 đến ngày 18/6/2024, được cho tại ngoại, hiện bị cáo đang chấp hành Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú của Tòa án nhân dân huyện Yên Thủy. (Có mặt tại phiên tòa)
4. Nguyễn Văn T2; Tên gọi khác: Không. Sinh ngày 17 tháng 9 năm 1983; Nơi cư trú: khu phố Y, thị trấn H, huyện Y, tỉnh Hòa Bình; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Chức vụ trước khi phạm tội: Không; Trình độ học vấn: 12/12; Con ông: Nguyễn Văn B1 (đã chết) và bà Nguyễn Thị N2, có vợ là Nguyễn Thị Trinh L1 và 2 con; Tiền án: 01 tiền án (ngày 20/12/2019 bị Tòa án Nhân dân huyện Yên Thủy, tỉnh Hòa Bình xử phạt 42 tháng tù về tội "Đánh bạc"). Bị cáo đã chấp hành xong bản án. Ngày 23/8/2023, bị cáo chấp hành xong án phạt tù. Tính đến ngày 09/6/2024, bị cáo chưa được xóa án tích. Tiền sự: Không. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 14/6/2024 đến ngày 18/6/2024, được cho tại ngoại, hiện bị cáo đang chấp hành Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú của Tòa án nhân dân huyện Yên Thủy. (Có mặt tại phiên tòa)
5. Trần Văn T3; Tên gọi khác: Không; Sinh ngày 15 tháng 10 năm 1976; Nơi cư trú: khu phố C, thị trấn H, huyện Y, tỉnh Hòa Bình. Giới tính: Nam. Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Nghề nghiệp: Lao động tự do. Chức vụ trước khi phạm tội: Không. Trình độ học vấn: 7/12. Con ông Trần Ngọc T4 và bà Vũ Thị T5, có vợ là Hà Thị H2 và 02 con; Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 09/6/2024 đến ngày 18/6/2024, được cho tại ngoại, hiện bị cáo đang chấp hành Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú của Tòa án nhân dân huyện Yên Thủy. (Có mặt tại phiên tòa)
6. Dương Đức T6; Tên gọi khác: Không. Sinh ngày 15 tháng 4 năm 1987; Nơi cư trú: xóm L, xã L, huyện Y, tỉnh Hòa Bình. Giới tính: Nam. Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Mường. Tôn giáo: Không. Nghề nghiệp: Lao động tự do. Chức vụ trước khi phạm tội: Không. Trình độ học vấn: 09/12. Con ông Dương Đình C1 và bà Bùi Thị L2, có vợ là Bùi Thị L3 và 02 con; Tiền án, tiền sự: Không. Bị tạm giữ từ ngày 09/6/2024 đến ngày 18/6/2024, được cho tại ngoại, hiện bị cáo đang chấp hành Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú của Tòa án nhân dân huyện Yên Thủy. (Có mặt tại phiên tòa)
7. Bùi Văn K1; Tên gọi khác: Không. Sinh ngày 02 tháng 02 năm 1988. Nơi cư trú: xóm C, xã V, huyện L, tỉnh Hòa Bình. Giới tính: Nam. Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Mường. Tôn giáo: Không. Nghề nghiệp: Lao động tự do. Chức vụ trước khi phạm tội: Không. Trình độ học vấn: 07/12. Con ông Bùi Văn Đ và bà Bùi Thị C2, có vợ là Bùi Thị H3 và 01 con; Tiền án, tiền sự: Không. Bị tạm giữ từ ngày 14/6/2024 đến ngày 18/6/2024, được cho tại ngoại, hiện bị cáo đang chấp hành Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú của Tòa án nhân dân huyện Yên Thủy. (Có mặt tại phiên tòa)
8. Nguyễn Khắc D; Tên gọi khác: Không. Sinh ngày 19 tháng 10 năm 1979. Nơi cư trú: khu phố H, thị trấn H, huyện Y, tỉnh Hòa Bình. Giới tính: Nam. Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Nghề nghiệp: Lao động tự do. Chức vụ trước khi phạm tội: Không. Trình độ học vấn: 9/12. Con ông Nguyễn Khắc S (đã chết) và bà Trần Thị D1, có vợ là Trịnh Thị Thu H4 và 02 con. Bị tạm giữ từ ngày 14/6/2024 đến ngày 18/6/2024, được cho tại ngoại, hiện bị cáo đang chấp hành Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú của Tòa án nhân dân huyện Yên Thủy. (Có mặt tại phiên tòa)
9. Dương Thị Lệ T7; Tên gọi khác: Không. Sinh ngày 22 tháng 6 năm 1990. Nơi cư trú: khu phố Y, thị trấn H, huyện Y, tỉnh Hòa Bình. Giới tính: Nữ. Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Nghề nghiệp: Lao động tự do. Chức vụ trước khi phạm tội: Không. Trình độ học vấn: 12/12. Con ông: Dương Xuân B2 và bà Trần Thị T8, có chồng là Phạm Văn D2 và 01 con; Tiền án, tiền sự: Không. Bị tạm giữ từ ngày 09/6/2024 đến ngày 18/6/2024, được cho tại ngoại, hiện bị cáo đang chấp hành Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú của Tòa án nhân dân huyện Yên Thủy. (Có mặt tại phiên tòa) 10. Đinh Văn P; Tên gọi khác: Không; Sinh ngày 19 tháng 5 năm 1976. Nơi cư trú: xóm P, xã L, huyện Y, tỉnh Hòa Bình. Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do. Chức vụ trước khi phạm tội: Không. Trình độ học vấn: 07/12. Con ông Đinh Văn V1 và bà Bùi Thị Đ1, có vợ là Phạm Thị T9 và 02 con. Tiền án, tiền sự: Không. Bị tạm giữ từ ngày 09/6/2024 đến ngày 18/6/2024, được cho tại ngoại, hiện bị cáo đang chấp hành Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú của Tòa án nhân dân huyện Yên Thủy. (Có mặt tại phiên tòa) + Người bào chữa cho các bị cáo Nguyễn Thị N, Bùi Phú V, Nguyễn Văn T2, Trần Văn T3, Dương Đức T6 và Bùi Trọng C:
Ông Nguyễn Hồng T10; Sinh năm: 1988. (Có mặt tại phiên tòa) Bà Trần Thị L4; Sinh năm: 1996. (Có mặt tại phiên tòa) Luật sư Công ty L6 thuộc Đoàn Luật sư Thành phố H.
+ Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
Anh Nguyễn Duy H; sinh năm 1981 (Vắng mặt) Địa chỉ: Xóm Đ, xã P, huyện L, tỉnh Hòa Bình
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào sáng ngày 09/6/2024, Dương Thị Lệ T7 đi xe bus từ nhà lên nhà của Nguyễn Thị N tại xóm P, xã L, huyện Y, tỉnh Hòa Bình để làm việc tại cơ sở kinh doanh dịch vụ làm đẹp (S) của N. Khi đến nơi, T7 thấy có N và chồng là anh Nguyễn Duy H. T7 ngồi nói chuyện với N và H một lúc thì H rủ T7 chơi bài lá (bộ bài 52 quân) nhưng chỉ chơi vui chứ không được thua bằng tiền. Một lúc sau có Trần Văn T3 điều khiển xe ô tô BKS: 28A-102.xx đến nhà N chơi. Thấy có người đến, N sử dụng điện thoại di động nhắn tin qua ứng dụng Zalo rủ Bùi Phú V đến nhà N để đánh bạc và V đồng ý. Đến khoảng 10 giờ 00 phút cùng ngày, V điều khiển xe ô tô BKS: 35A-096.xx đến nhà N. Tiếp đó, Bùi Trọng C điều khiển xe ô tô BKS: 28A-208.5x đến nhà N chơi. Tại đây, T3, T7, V và C rủ nhau đánh bạc được thua bằng tiền dưới hình thức đánh Phỏm ngay tại nền gạch khu vực phòng khách của nhà N, còn H không chơi nên đi vào trong phòng nằm. Cả 4 người thống nhất luật chơi theo cách đánh phỏm với cách thức như sau: Bộ bài 52 (Năm mươi hai) quân sẽ chia đều cho bốn người, mỗi người 09 (Chín) lá bài, riêng người đánh đầu tiên được chia 10 lá bài, các lá bài còn lại sẽ xếp chồng để giữa chiếu cho mọi người lần lượt bốc và đánh xoay vòng cho đến khi hết bài. Người có 10 lá bài đánh cho người kế bên một lá, người kế bên có thể "Ăn" để tạo "Phỏm" hoặc bốc một lá bài trên chiếu, sau đó đánh ra 01 lá bài kế tiếp, cứ như thế cho đến khi hết ván. Ván bài kết thúc khi có người "Ù", nếu không có ai "ù" thì hạ "Phỏm" tính điểm. Sau khi ván bài kết thúc, mỗi người sẽ tính điểm của mình bằng cách cộng điểm của các quân bài lại với nhau, ai có số điểm ít nhất là người thắng. Điểm được tính từ 01 đến 13 tương ứng với các lá bài: Lá bài có chữ A là 01 điểm, lá bài có số từ 02 đến 10 tính theo số trên bài, lá bài có chữ J là 11 điểm, chữ Q là 12 điểm và chữ K là 13 điểm. "Phỏm" là phải có từ 03 lá bài trở lên cùng chất hoặc cùng số, chữ với nhau. Cách thức được thua bằng tiền được 04 người thỏa thuận thống nhất như sau: Người về bét (thứ 4) là người có tổng điểm trên bài cao nhất thì thua số tiền: 30.000 đ (ba mươi nghìn đồng), người về ba là người có tổng điểm trên bài cao thứ hai thì thua số tiền: 20.000 đ (hai mươi nghìn đồng), người nhì là người có tổng điểm trên bài cao thứ ba thì thua số tiền: 10.000 đ (mười nghìn đồng), người về nhất là người có tổng điểm trên bài thấp nhất sẽ được hết số tiền của 3 (Ba) người chơi trong ván, người bị "cháy" (hay còn gọi là "Móm", tức là không có "Phỏm") sẽ bị thua số tiền 40.000 đ (bốn mươi nghìn đồng), người nào bài "ù" sẽ thắng mỗi người chơi còn lại số tiền 50.000 đ (năm mươi nghìn đồng). Trong lúc T3, T7, V và C đang đánh bạc thì N tiếp tục sử dụng điện thoại di động nhắn tin cho Nguyễn Văn T2 rủ T2 lên nhà N để đánh bạc. Quá trình đánh bạc, những người chơi lấy tiền từ trong chiếu bạc ra 150.000đ (một trăm năm mươi nghìn đồng) đưa cho N để N đi mua đồ nấu cho tất cả cùng ăn trưa.
Đến khoảng 13 giờ 00 phút cùng ngày khi T3, T7, V và C đang đánh bạc thì T2 đến, ngay sau đó Nguyễn Khắc D điều khiển xe ô tô BKS: 28A-184.xx đến nhà N chơi và ngồi xem các đối tượng trên đánh bạc, một lúc sau Dương Đức T6 cũng đến. Lúc này thấy có đông người nên tất cả cùng rủ nhau đánh bạc được thua bằng tiền dưới hình thức đánh L5. Tất cả thống nhất luật chơi bài Liêng với mức đặt cược ban đầu (đóng gà) là 20.000 đ (hai mươi nghìn đồng), người chơi sau khi xem bài thì được tố với mức tiền cao nhất không quá 100.000 đ (một trăm nghìn đồng). Cứ như vậy, những người trên đánh với nhau liên tục hết lượt này đến lượt khác. Đến khoảng 15 giờ 30 phút cùng ngày có Đinh Văn P đến và cùng tham gia đánh bạc. Khoảng 5 phút sau thì có Bùi Văn K1 cũng đến nhà N và tham gia đánh bạc cùng với những người này. Quá trình đánh bạc những người chơi lấy 80.000 đ (tám mươi nghìn đồng) trên chiếu bạc đưa cho N đi mua hoa quả cho tất cả cùng ăn. Một lúc sau V và T3 không chơi nữa nên đứng dậy ra ghế ngồi uống nước, sau đó T7 thua hết tiền nên cũng đi về nhà. Đến khoảng 16 giờ cùng ngày khi những người trên đang đánh bạc thì lực lượng Công an huyện Y đến kiểm tra. Do cửa nhà Nguyễn Thị N vẫn đang khóa trong nên các đối tượng đã tận dụng thời gian cất giấu tiền vào trong người, thu dọn những bộ bài sử dụng để đánh bạc sau đó mới mở cửa cho lực lượng Công an vào kiểm tra. Lúc này T2, P, K1 và T6 đi ra cửa sau rồi bỏ trốn, còn lại N, T3, V, C và D có mặt tại hiện trường.
Tại bản cáo trạng số: 39/CT-VKS-YT ngày 09/9/2024, Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Thủy đã truy tố các bị cáo Nguyễn Thị N, Bùi Phú V, Bùi Trọng C, Nguyễn Văn T2, Nguyễn Khắc D, Trần Văn T3, Dương Đức T6, Bùi Văn K1, Dương Thị Lệ T7 và Đinh Văn P về tội "Đánh bạc" theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự.
Thực hành quyền công tố tại phiên tòa, sau khi xem xét đánh giá toàn diện nội dung vụ án, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Trình bày quan điểm và luận tội: Giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:
a) Về trách nhiệm hình sự:
* Về tội danh: Đề nghị HĐXX tuyên bố các bị cáo Nguyễn Thị N, Bùi Phú V, Bùi Trọng C, Nguyễn Văn T2, Nguyễn Khắc D, Trần Văn T3, Dương Đức T6, Bùi Văn K1, Dương Thị Lệ T7 và Đinh Văn P phạm tội "Đánh bạc".
* Hình phạt chính:
+ Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, khoản 1, khoản 2, Điều 51; Điều 17, Điều 58, Điều 38 Bộ luật Hình sự. Tuyên bị cáo Nguyễn Thị N từ 12 tháng đến 14 tháng tù và trừ thời gian tạm giữ.
Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2, Điều 51; Điểm h, khoản 1 Điều 52, Điều 17; Điều 58; Điều 38 Bộ luật Hình sự. Tuyên bị cáo Nguyễn Văn T2 từ 12 tháng đến 14 tháng tù, và trừ thời gian tạm giữ.
Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, khoản 1, khoản 2, Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 38 Bộ luật Hình sự. Tuyên bị cáo Bùi Phú V từ 10 tháng đến 12 tháng tù, và trừ thời gian tạm giữ.
Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 38 Bộ luật Hình sự đối với các bị cáo Bùi Trọng C, Trần Văn T3, Dương Đức T6. Tuyên bị cáo Bùi Trọng C, Trần Văn T3, Dương Đức T6, từ 08 tháng đến 10 tháng tù và trừ thời gian tạm giữ.
Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 65 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Bùi Văn K1 từ 06 tháng đến 08 tháng tù cho hưởng án treo.
Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s, khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 36 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Nguyễn Khắc D từ 12 tháng đến 15 tháng cải tạo không giam giữ.
Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s, khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 35 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Dương Thị Lệ T7 và Đinh Văn P phạt tiền các bị cáo từ 20.000.000đ đến 25.000.000đ.
b) Về hình phạt bổ sung: Căn cứ khoản 3, Điều 321, Điều 35 của Bộ luật Hình sự: Xử phạt bổ sung đối với bị cáo Nguyễn Thị N, Bùi Phú V, Bùi Trọng C, Nguyễn Văn T2, Nguyễn Khắc D, Trần Văn T3, Dương Đức T6, Bùi Văn K1 mỗi bị cáo từ 10.000.000đ đến 15.000.000đ. Đối với bị cáo Dương Thị Lệ T7 và Đinh Văn P đã áp dụng hình phạt chính là hình phạt tiền, vì vậy không đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung.
c) Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 46, 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự:
Tịch thu, sung công quỹ nhà nước số tiền 10.710.000 đồng là tiền các bị cáo sử dụng để đánh bạc. Tịch thu tiêu hủy: 07 bộ tú lơ khơ 52 quân.
Truy thu số tiền 230.000đ là số tiền đánh bạc bị cáo Nguyễn Thị N đã sử dụng để mua đồ ăn, hoa quả.
Tịch thu, phát mại xung quỹ nhà nước: 01 điện thoại di động nhãn hiệu iPhone 11 Pro Max của Nguyễn Thị N, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo Reno5 màu đen của Bùi Phú V, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo A71 của Nguyễn Văn T2, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo A55 của Bùi Văn K1.
d) Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết 326 ngày 30/12/2016 buộc các bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
Phần tranh luận:
Các bị cáo Bùi Văn K1, Nguyễn Khắc D, Dương Thị Lệ T7 và Đinh Văn P nhất trí với bản luận tội và không tranh luận.
Bị cáo Nguyễn Thị N, Bùi Phú V, Nguyễn Văn T2, Trần Văn T3, Dương Đức T6 và Bùi Trọng C có ý kiến tranh luận không đồng ý với ý kiến buộc tội của đại diện Viện kiểm sát, các bị cáo không tham gia đánh bạc, bị cáo N có ý kiến không ai đánh bạc tại nhà bị cáo. Các bị cáo không phạm tội.
+ Người bào chữa cho các bị cáo Nguyễn Thị N, Bùi Phú V, Nguyễn Văn T2, Trần Văn T3, Dương Đức T6 và Bùi Trọng C trình bày bản luận cứ và đề nghị:
Về tố tụng: Cơ quan điều tra, điều tra viên và Viện kiểm sát, kiểm sát viên có nhiều vi phạm trong quá trình thực hiện các thủ tục tố tụng trong việc khám nghiệm hiện trường không đúng quy định, không thu giữ được chứng cứ vật chất, các biên bản lấy lời khai cùng một thời gian nhưng cùng một điều tra viên và kiểm sát viên thực hiện nhiều hoạt động điều tra trong cùng thời điểm, ngoài ra chỉ căn cứ vào chứng cứ duy nhất là lời khai của bị cáo để buộc tội, kiểm sát viên có nhiều vi phạm trong quá trình lấy lời khai, các vi phạm trên đã vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, việc ghi âm rời rạc nhiều câu hỏi nhưng trong biên bản ghi chỉ một câu hỏi, cơ quan điều tra không bắt quả tang, đang có 6/10 bị cáo kêu oan đề nghị Hội đồng xét xử trả hồ sơ điều tra bổ sung làm rõ có hay không có hành vi phạm tội của các bị cáo Nguyễn Thị N, Bùi Phú V, Nguyễn Văn T2, Trần Văn T3, Dương Đức T6 và Bùi Trọng C.
Các bị cáo Nguyễn Thị N, Bùi Phú V, Nguyễn Văn T2, Trần Văn T3, Dương Đức T6 và Bùi Trọng C nhất trí với ý kiến của người bào chữa đề nghị Hội đồng xét xử trả hồ sơ để điều tra bổ sung.
Đại diện Viện kiểm sát tranh luận đối đáp với ý kiến của các bị cáo và người bào chữa:
Đối với đề nghị của các bị cáo Nguyễn Thị N, Bùi Phú V, Nguyễn Văn T2, Trần Văn T3, Dương Đức T6 và Bùi Trọng C về việc các bị cáo không tham gia đánh bạc, bị cáo N có ý kiến không ai đánh bạc tại nhà bị cáo. Đại diện Viện kiểm sát thấy rằng: Sau khi sự việc đánh bạc bị phát hiện các bị cáo đã có văn bản xin đầu thú, việc đầu thú là tự nguyện. Trong quá trình điều tra, các bị cáo đã thành khẩn khai báo sự việc được ghi âm, ghi hình tại phiên tòa hôm nay đã trình chiếu toàn bộ các lời khai được ghi âm, ghi hình cho thấy các bị cáo khai báo hoàn toàn tự nguyện, không bị ép cung, nhục hình, các lời khai này phù hợp với lời khai của các bị cáo khác trong vụ án đã thành khẩn khai báo là bị cáo Bùi Văn K1, bị cáo Nguyễn Khắc D, bị cáo Dương Thị Lệ T7, bị cáo Đinh Văn P. Tại phiên tòa, bị cáo K1, D, T7 và P xác nhận và nhận dạng đúng các bị cáo Nguyễn Thị N, Bùi Phú V, Nguyễn Văn T2, Trần Văn T3, Dương Đức T6 và Bùi Trọng C cùng tham gia đánh bạc tại nhà Nguyễn Thị N với số tiền đánh bạc là 10.940.000đ (Mười triệu chín trăm bốn mươi nghìn đồng). Vì vậy có đủ cơ sở kết luận các bị cáo Nguyễn Thị N, Bùi Phú V, Nguyễn Văn T2, Trần Văn T3, Dương Đức T6 và Bùi Trọng C phạm tội đánh bạc, đại diện Viện kiểm sát không chấp nhận ý kiến tranh luận của các bị cáo Nguyễn Thị N, Bùi Phú V, Nguyễn Văn T2, Trần Văn T3, Dương Đức T6 và Bùi Trọng C. Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố và luận tội.
Đối với ý kiến tranh luận của người bào chữa cho các bị cáo Nguyễn Thị N, Bùi Phú V, Nguyễn Văn T2, Trần Văn T3, Dương Đức T6 và Bùi Trọng C về nội dung có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng và đề nghị trả hồ sơ để điều tra bổ sung Đại diện Viện kiểm sát thấy rằng: Về việc trong một số bản cung khi cơ quan điều tra và Viện kiểm sát tiến hành lấy lời khai trong đó trùng giờ, hoặc người ghi lời khai, người lấy lời khai chưa ký các văn bản hoặc không ghi thời điểm kết thúc của việc lấy lời khai, việc khám nghiệm hiện trường có sai sót trong việc ghi người tham gia khám nghiệm hiện trường, thấy rằng có sai sót. Tuy có những sai sót nêu trên nhưng trên thực tế hoạt động thu thập chứng cứ lấy lời khai, khám nghiệm hiện trường vẫn được tiến hành theo đúng thủ tục tố tụng. Tại phiên tòa hôm nay, Điều tra viên được yêu cầu đến phiên tòa đã có ý kiến giải thích và làm rõ những nội dung trên. Đại diện Viện kiểm sát khẳng định những sai sót trên không vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.
Việc kiểm sát viên không bám sát việc lấy lời khai, không tham gia lấy lời khai do trong quá trình điều tra và truy tố các bị cáo không có ý kiến kêu oan, khiếu nại hoạt động điều tra, theo quy định tại khoản 4, Điều 183 Bộ luật Tố tụng hình sự, kiểm sát viên nhận thấy không cần thiết phải hỏi cung bị can, các hoạt động điều tra đều được cơ quan điều tra tiến hành đúng quy định và được Kiểm sát viên kiểm sát chặt chẽ theo khoản 5, Điều 88 Bộ luật Tố tụng hình sự. Vì vậy, Viện kiểm sát giữ nguyên ý kiến đã nêu trong bản luận tội.
Về nội dung đề nghị xem xét các bị cáo bị mớm cung trong quá trình điều tra, xét thấy các bị cáo tuy không bị bắt quả tang nhưng khi sự việc bị phát hiện đã tự nguyện ra đầu thú, nội dung đầu thú khai nhận đầy đủ rõ ràng diễn biến quá trình thực hiện hành vi phạm tội, phù hợp với các lời khai khác có trong hồ sơ vụ án đồng thời quá trình điều tra lấy lời khai đã được ghi âm, ghi hình lại diễn biến sự việc, tại phiên tòa hôm nay đã công khai trình chiếu lại toàn bộ nội dung lấy lời khai, phù hợp với lời khai của các bị cáo đã thành khẩn khai báo. Vì vậy không có căn cứ xác định các bị cáo bị ép cung, mớm cung trong quá trình điều tra, vì vậy Viện kiểm sát giữ nguyên ý kiến bản luận tội.
Về việc ghi âm, ghi hình việc lấy lời khai của Cơ quan điều tra đã tuân thủ đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự và Thông tư liên tịch số 03/2018/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BQP ngày 01/02/2018 quy định về việc ghi âm ghi hình trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử.
Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Thị N, Bùi Phú V, Nguyễn Văn T2, Trần Văn T3, Dương Đức T6 và Bùi Trọng C tranh luận:
Qua ý kiến tranh luận của đại diện Viện kiểm sát, người bào chữa thấy rằng những vi phạm của cơ quan điều tra và Viện kiểm sát là vi phạm nghiêm trọng vì vậy đề nghị Hội đồng xét xử xem xét trả hồ sơ để điều tra bổ sung.
Đại diện Viện kiểm sát tranh luận: Về nội dung tranh luận của người bào chữa, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm.
Bị cáo Nguyễn Văn T2 tranh luận: Do các bị cáo thiếu hiểu biết, đại diện Viện kiểm sát cho rằng những vi phạm tố tụng trong vụ án là nhỏ nhưng đối với các bị cáo đây là những vi phạm lớn đề nghị xem xét.
Đại diện Viện kiểm sát tranh luận đối đáp với ý kiến của bị cáo Nguyễn Văn T2:
Về việc vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng theo quy định tại Thông tư liên tịch số: 02/2017/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BQP ngày 22/12/2017 đã được quy định rõ, so sánh với những vi phạm về tố tụng như đã nêu trên thì những vi phạm này không phải là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, đây không phải là căn cứ để trả hồ sơ điều tra bổ sung.
Các bị cáo Nguyễn Khắc D, Bùi Văn K1, Dương Thị Lệ T7 và Đinh Văn P nói lời sau cùng, các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như bản cáo trạng đã nêu, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo để các bị cáo có cơ hội sửa chữa sai lầm trở thành người tốt có ích cho gia đình và xã hội.
Các bị cáo Bùi Phú V, Nguyễn Văn T2, Trần Văn T3, Dương Đức T6 và Bùi Trọng C nói lời sau cùng, các bị cáo không tham gia đánh bạc, không phạm tội. Bị cáo Nguyễn Thị N nói lời sau cùng, trong ngày 09/6/2024 không ai đánh bạc tại nhà bị cáo, bị cáo không phạm tội.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Y, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Y, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và truy tố các bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi tố tụng của Cơ quan điều tra, của điều tra viên, của Viện kiểm sát và kiểm sát viên.
Tại phiên tòa, các bị cáo Bùi Văn K1, Nguyễn Khắc D, Dương Thị Lệ T7 và Đinh Văn P nhất trí với việc tiến hành điều tra của Cơ quan điều tra, của điều tra viên, của Viện kiểm sát và Kiểm sát viên.
Các bị cáo Nguyễn Thị N, Bùi Phú V, Nguyễn Văn T2, Trần Văn T3, Dương Đức T6 và Bùi Trọng C và người bào chữa cho các bị cáo có ý kiến Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Y, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Y, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.
Điều tra viên tại phiên tòa có ý kiến trình bày: Quá trình điều tra được thực hiện đúng theo trình tự thủ tục của Bộ luật Tố tụng hình sự, Cơ quan điều tra đã ghi âm, ghi hình, theo đúng trình tự hướng dẫn của Thông tư liên tịch số 03/2018/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BQP ngày 01/02/2018 quy định về việc ghi âm ghi hình trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử. Các bị cáo thời điểm này đang được tại ngoại, không có việc ép cung, mớm cung, các bị cáo có Đơn đầu thú và trình bày toàn bộ hành vi vi phạm. Các biên bản làm việc và hỏi cung qua nghiên cứu hồ sơ cũng có thiếu sót trong quá trình thiết lập văn bản thể hiện trong việc ghi thời gian bắt đầu và thời gian kết thúc, tuy nhiên việc tiến hành hoạt động điều tra thực tế vẫn diễn ra và được thực hiện theo đúng trình tự thủ tục Bộ luật Tố tụng hình sự.
Hội đồng xét xử nhận thấy: Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát và Kiểm sát viên đã thông báo, giải thích đầy đủ về quyền và nghĩa vụ cho các bị cáo, đồng thời trong suốt quá trình tố tụng các bị cáo đã nhận thức rõ và ký nhận đầy đủ mọi văn bản tố tụng, đặc biệt sau mỗi lời khai các bị cáo đều ký xác nhận đã đọc lại lời khai và công nhận lời khai là đúng, điều này thể hiện ý thức đầy đủ của các bị cáo. Tuy nhiên trong quá trình tố tụng, Điều tra viên, Kiểm sát viên có những thiếu sót như thời gian lấy lời khai trùng giờ, người ghi lời khai, người lấy lời khai chưa ký các văn bản hoặc không ghi thời điểm kết thúc của việc lấy lời khai. Việc khám nghiệm hiện trường có thiếu sót trong việc ghi người tham gia khám nghiệm hiện trường chưa đúng thành phần. Tuy vậy những thiếu sót này không làm thay đổi nội dung vụ việc và hành vi vi phạm pháp luật của các bị cáo, đồng thời mọi thủ tục điều tra vẫn tiến hành liên tục, trên thực tế hoạt động thu thập chứng cứ lấy lời khai, khám nghiệm hiện trường vẫn được thực hiện theo đúng trình tự, thủ tục Bộ luật Tố tụng hình sự quy định, đảm bảo quyền lợi cho các bị cáo. Đối chiếu hướng dẫn tại Thông tư liên tịch số: 02/2017/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BQP ngày 22/12/2017 và Điều 280 Bộ luật Tố tụng hình sự, đây không phải là những vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, không làm thay đổi bản chất vụ án, các bị cáo cũng không xuất trình được tài liệu chứng cứ gì xác định bị ép cung, mớm cung, vì vậy không có căn cứ để xem xét trả hồ sơ điều tra bổ sung.
Đối với người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt và có lời khai tại Cơ quan điều tra nên việc vắng mặt không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án, nên Hội đồng xét xử căn cứ Điều 292 và Điều 293 Bộ luật Tố tụng Hình sự vẫn tiếp tục xét xử theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.
[2] Về tội danh:
Xét lời khai của các bị cáo Nguyễn Khắc D, Bùi Văn K1, Dương Thị Lệ T7 và Đinh Văn P đều thừa nhận hành vi phạm tội của mình như Cáo trạng đã truy tố, xét lời khai tại phiên tòa phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với Đơn đầu thú, Biên bản người phạm tội ra đầu thú, biên bản thu giữ vật chứng và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó, Viện kiểm sát truy tố đối với các bị cáo là có căn cứ đúng pháp luật.
Đối với các bị cáo Bùi Phú V, Nguyễn Văn T2, Trần Văn T3, Dương Đức T6 và Bùi Trọng C, tại phiên tòa không thừa nhận hành vi, các bị cáo cho rằng không tham gia đánh bạc, không có hành vi phạm tội. Nguyễn Thị N tại phiên tòa khai, vào ngày 09/6/2024 không có ai đánh bạc tại nhà bị cáo, bị cáo không có hành vi phạm tội.
Căn cứ vào lời khai của các bị cáo Nguyễn Khắc D, Bùi Văn K1, Dương Thị Lệ T7 và Đinh Văn P trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay. Căn cứ vào lời khai của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan. Căn cứ vào Đơn đầu thú, Biên bản người phạm tội ra đầu thú, Biên bản thu giữ vật chứng, các bản tự khai, biên bản lấy lời khai và các file ghi âm, ghi hình quá trình lấy lời khai, thu thập chứng cứ của các bị cáo Nguyễn Thị N, Bùi Phú V, Nguyễn Văn T2, Trần Văn T3, Dương Đức T6 và Bùi Trọng C đã được trình chiếu công khai tại phiên tòa hôm nay, có đủ cơ sở kết luận:
Trong khoảng thời gian từ 10 giờ 00 phút đến 16 giờ 00 phút ngày 09/6/2024 tại nhà riêng của Nguyễn Thị N ở Phố S, xã L, huyện Y, các bị cáo Bùi Phú V, Bùi Trọng C, Nguyễn Văn T2, Nguyễn Khắc D, Trần Văn T3, Dương Đức T6, Bùi Văn K1, Dương Thị Lệ T7 và Đinh Văn P đã có hành vi đánh bạc sát phạt được thua bằng tiền dưới hình thức đánh “Phỏm” và đánh “Liêng”. Quá trình này, Nguyễn Thị N sử dụng số tiền 230.000đ trong số tiền các bị cáo đánh bạc để nấu cơm cũng như mua hoa quả cho tất cả cùng ăn, đồng thời nhắn tin rủ Bùi Phú V và Nguyễn Văn T2 đến nhà N để đánh bạc, đối với Bùi Văn K1 chủ động gọi điện đến hỏi N có ai đánh bạc không để K1 đến chơi. Tổng số tiền các bị cáo sử dụng để đánh bạc là 10.940.000đ (Mười triệu chín trăm bốn mươi nghìn đồng), trong đó bao gồm cả số tiền 230.000đ các bị cáo đưa cho bị cáo N để nấu cơm và mua hoa quả.
Xét các bị cáo đều có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, song vì muốn thu lời bất chính nên Bùi Phú V, Bùi Trọng C, Nguyễn Văn T2, Nguyễn Khắc D, Trần Văn T3, Dương Đức T6, Bùi Văn K1, Dương Thị Lệ T7 và Đinh Văn P đã thực hiện việc đánh “Phỏm”, đánh “Liêng” được thua bằng tiền với tổng số tiền sử dụng để đánh bạc là 10.940.000đ (Mười triệu chín trăm bốn mươi nghìn đồng). Đối với Nguyễn Thị N có hành vi cho mượn nhà đồng thời trao đổi, rủ rê, lôi kéo Bùi Phú V, Nguyễn Văn T2 và Bùi Văn K1 đến để đánh bạc đồng thời giúp sức các bị cáo trong việc phục vụ cơm ăn, hoa quả. Vì vậy có đủ cơ sở kết luận các bị cáo Nguyễn Thị N, Nguyễn Văn T2, Bùi Phú V, Bùi Trọng C, Trần Văn T3, Dương Đức T6, Nguyễn Khắc D, Bùi Văn K1, Dương Thị Lệ T7 và Đinh Văn P phạm tội “Đánh bạc” căn cứ khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố đối với các bị cáo là có căn cứ đúng pháp luật, không oan.
[3] Về tính chất, mức độ của hành vi phạm tội:
Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, gây mất an ninh trật tự tại địa phương, tuy nhiên các bị cáo phạm tội mang tính chất nhất thời, xuất phát từ việc các bị cáo nghĩ rằng có thể kiếm tiền mà không cần lao động. Hành vi của các bị cáo không chỉ gây thiệt hại về kinh tế của bản thân và gia đình của các bị cáo mà còn là nguyên nhân dẫn đến các loại tội phạm khác. Vì vậy, việc đưa các bị cáo ra truy tố và xét xử là cần thiết, đồng thời phải có hình phạt nghiêm khắc tương xứng với tính chất, mức độ, hậu quả mà các bị cáo đã gây ra, đồng thời có tác dụng răn đe đối với các bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung.
[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của các bị cáo:
- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Các bị cáo Nguyễn Khắc D, Bùi Văn K1, Dương Thị Lệ T7 và Đinh Văn P sau khi phạm tội đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, bị cáo Dương Thị Lệ T7 hiện đang mang thai 9 tuần, 4 ngày theo Giấy ra viện ngày 23/9/2024 của Trung tâm y tế huyện Y, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, s, n, khoản 1, Điều 51 Bộ luật Hình sự tương ứng với từng bị cáo.
Các bị cáo Nguyễn Thị N, Bùi Phú V, Nguyễn Văn T2, Trần Văn T3, Dương Đức T6 và Bùi Trọng C tuy quá trình điều tra và truy tố thành khẩn khai báo nhưng tại phiên tòa hôm nay đồng loạt không thừa nhận hành vi phạm tội mặc dù đã có đầy đủ chứng cứ để chứng minh, vì vậy Hội đồng xét xử xét thấy các bị cáo không được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Trong vụ án, trừ bị cáo Nguyễn Văn T2 ra, các bị cáo còn lại đều phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Tất cả các bị cáo đã ra đầu thú, bị cáo Bùi Phú V có bố là ông Bùi Phú L là bệnh binh, hiện đang hưởng chế độ thương bệnh binh, bản thân bị cáo năm 2011 được Cục thống kê tỉnh N tặng Giấy khen, bị cáo Nguyễn Văn T2 có bố đẻ là ông Nguyễn Văn B1 được tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng 3, bị cáo Trần Văn T3 năm 2019 được Sở nông nghiệp và phát triển nông thôn thành phố H vinh danh và có bố là ông Trần Ngọc T4 là người có công với cách mạng, bị cáo Nguyễn Khắc D có bố đẻ được tặng Huân chương chiến sỹ giải phóng, bị cáo Bùi Văn K1 có bố đẻ là ông Bùi Văn Đ là người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học hiện đang được hưởng chế độ, bị cáo Đinh Văn P có bố đẻ là ông Đinh Văn V1 được Chủ tịch UBND tỉnh H tặng Bằng khen vì có thành tích tham gia kháng chiến chống Mỹ. Đây là các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i, khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự tương ứng với từng bị cáo khi lượng hình.
- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo Nguyễn Thị N, Bùi Phú V, Bùi Trọng C, Nguyễn Khắc D, Trần Văn T3, Dương Đức T6, Bùi Văn K1, Dương Thị Lệ T7 và Đinh Văn P không có tình tiết tăng nặng. Đối với bị cáo Nguyễn Văn T2 có 01 tiền án, tại bản án số 45/2019/HSST ngày 20/12/2019 Tòa án nhân dân huyện Yên Thủy đã xử phạt 42 (Bốn mươi hai) tháng tù về tội đánh bạc, bị cáo chấp hành xong hình phạt ngày 23/8/2023, chưa được xóa án tích, vì vậy phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự tái phạm căn cứ điểm h, khoản 1, Điều 52 Bộ luật Hình sự.
- Về nhân thân của các bị cáo: Các bị cáo Nguyễn Thị N, Bùi Trọng C, Nguyễn Khắc D, Trần Văn T3, Dương Đức T6, Bùi Văn K1, Dương Thị Lệ T7 và Đinh Văn P có nhân thân tốt, không có tiền án tiền sự.
Đối với bị cáo Bùi Phú V có nhân thân xấu, tại Quyết định Xử phạt vi phạm hành chính số 31/QĐ-XPHC ngày 04/10/2022 của Công an xã G, huyện G, tỉnh Ninh Bình đã xử phạt bị cáo Bùi Phú V bằng hình thức phạt tiền 1.500.000đ, chấp hành xong ngày 06/10/2022.
[5] Về ý kiến, quan điểm của người bào chữa bảo vệ quyền lợi cho các bị cáo Nguyễn Thị N, Nguyễn Văn T2, Bùi Phú V, Bùi Trọng C, Trần Văn T3, Dương Đức T6. Hội đồng xét xử nhận thấy:
Đối với ý kiến các bị cáo không bị bắt quả tang, có dấu hiệu ép cung, mớm cung trong quá trình điều tra, thấy rằng tuy các bị cáo không bị bắt quả tang nhưng sau khi phạm tội đã tự nguyện viết đơn xin ra đầu thú, nội dung trong đơn đầu thú, biên bản tiếp nhận người ra đầu thú phù hợp với nội dung trong quá trình điều tra, phù hợp với lời khai của các bị cáo Nguyễn Khắc D, Bùi Văn K1, Dương Thị Lệ T7 và Đinh Văn P, bên cạnh đó khi tiến hành lấy lời khai, cơ quan điều tra đã tiến hành ghi âm, ghi hình cho thấy không có dấu hiệu ép cung, mớm cung cho các bị cáo, tại phiên tòa các bị cáo đều xác nhận nội dung ghi âm, ghi hình đối với các bị cáo là đúng, còn nguyên chữ ký niêm phong. Đối với ý kiến biên bản khám nghiệm hiện trường, các buổi hỏi cung cùng một điều tra viên làm việc với nhiều bị cáo trong một khung giờ đối với các bị cáo vi phạm thủ tục tố tụng, Kiểm sát viên không tham gia lấy lời khai nhưng ký biên bản, đây là những vi phạm về tố tụng tuy nhiên không phải vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, Điều tra viên, Kiểm sát viên cần rút kinh nghiệm nghiêm túc.
Những ý kiến, quan điểm nêu trên của người bào chữa cho các bị cáo Nguyễn Thị N, Bùi Phú V, Nguyễn Văn T2, Trần Văn T3, Dương Đức T6 và Bùi Trọng C không phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử, vì vậy không được chấp nhận.
Đối với ý kiến tranh luận của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Thủy đối với các bị cáo Nguyễn Thị N, Nguyễn Văn T2, Bùi Phú V, Bùi Trọng C, Trần Văn T3, Dương Đức T6 và người bào chữa cho các bị cáo Nguyễn Thị N, Nguyễn Văn T2, Bùi Phú V, Bùi Trọng C, Trần Văn T3, Dương Đức T6 đã trình bày tại phiên tòa. Thấy lời luận tội cũng như ý kiến tranh luận của Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Thủy, tỉnh Hòa Bình về tội danh và áp dụng các điều luật cũng như đề nghị mức hình phạt, về xử lý vật chứng là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[6] Về hình phạt chính:
Trong vụ án này, Nguyễn Thị N là người đã sử dụng nơi ở của mình cho các bị cáo đánh bạc được thua bằng tiền, đồng thời nhắn tin rủ rê lôi kéo bị cáo V, bị cáo T2, và báo cho bị cáo K1 biết có đánh bạc để các bị cáo đến tham gia đánh bạc, trong quá trình các bị cáo khác đánh bạc N đã phục vụ đồ ăn, vì vậy bị cáo đóng vai trò chính. Đối với bị cáo Nguyễn Văn T2 phạm tội thuộc trường hợp tái phạm, bị cáo Bùi Phú V có nhân thân xấu đã từng bị xử lý hành chính năm 2022 về hành vi đánh bạc nhưng không lấy đó làm bài học mà tiếp tục lún sâu vào con đường phạm tội. Đối với các bị cáo Bùi Trọng C, Trần Văn T3 và Dương Đức T6, mặc dù phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nhưng cần xử phạt nghiêm khắc để giáo dục phòng ngừa chung trước tình hình diễn biến các vụ việc đánh bạc đang diễn biến phức tạp trên địa bàn. Các bị cáo Nguyễn Thị N, Nguyễn Văn T2, Bùi Phú V, Bùi Trọng C, Trần Văn T3, Dương Đức T6 tại phiên tòa không thành khẩn, không ăn năn hối cải mặc dù đã đầy đủ chứng cứ để chứng minh, vì vậy cần buộc các bị cáo Nguyễn Thị N, Nguyễn Văn T2, Bùi Phú V, Bùi Trọng C, Trần Văn T3, Dương Đức T6 phải sống cách ly khỏi xã hội một thời gian mới đủ điều kiện cải tạo thành người có ích cho gia đình và xã hội.
Đối với bị cáo Bùi Văn K1 và Nguyễn Khắc D, thấy rằng các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, thấy không cần buộc các bị cáo sống cách ly khỏi xã hội mà chỉ cần giao cho chính quyền địa phương giám sát cũng đủ điều kiện cải tạo thành người tốt cho xã hội, vì vậy cần áp dụng Điều 65 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo K1 và Điều 36 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo D khi lượng hình.
Đối với bị cáo Dương Thị Lệ T7 và bị cáo Đinh Văn P tham gia đánh bạc với số tiền không lớn, bị cáo T7 là phụ nữ đang mang thai cần ổn định sức khỏe và tâm lý, bị cáo P có số tiền đánh bạc thấp nhất, các bị cáo đà thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng Hội đồng xét xử thấy chỉ cần áp dụng hình phạt chính là phạt tiền đối với các bị cáo Dương Thị Lệ T7 và Đinh Văn P cũng đủ răn đe và phòng ngừa.
[7] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy các bị cáo Nguyễn Thị N, Nguyễn Văn T2, Bùi Phú V, Bùi Trọng C, Nguyễn Khắc D, Trần Văn T3, Dương Đức T6, Bùi Văn K1, thực hiện việc đánh bạc nhằm mục đích ăn thua, thu lời bất chính vì vậy cần áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền để sung quỹ Nhà nước. Đối với bị cáo Dương Thị Lệ T7 và Đinh Văn P lẽ ra cũng cần áp dụng hình phạt bổ sung tuy nhiên đã áp dụng hình phạt chính là hình phạt tiền vì vậy không áp dụng hình phạt bổ sung.
[8] Về vật chứng của vụ án:
- Số tiền số tiền 10.710.000d đồng là tiền do các bị cáo dùng để đánh bạc đã thu giữ được cần tịch thu sung quỹ Nhà nước. Đối với 07 bộ bài loại 52 lá trong đó có 04 bộ đã sử dụng và 03 bộ chưa sử dụng cần tịch thu xuất hủy;
Đối với số tiền 230.000đ là tiền các bị cáo sử dụng để đánh bạc đà đưa cho bị cáo Nguyễn Thị N đi mua đồ ăn phục vụ cho các bị cáo tiếp tục đánh bạc vì vậy cần truy thu từ bị cáo Nguyễn Thị N để sung quỹ Nhà nước.
Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 11 Pro Max của Nguyễn Thị N, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo Reno5 màu đen của Bùi Phú V, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo A71 của Nguyễn Văn T2, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo A55 của Bùi Văn K1 là các điện thoại các bị cáo sử dụng để liên lạc với nhau để đến đánh bạc vì vậy cần tịch thu phát mại sung quỹ Nhà nước.
[9] Về án phí: Các bị cáo bị kết án phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
[10] Về quyền kháng cáo: Các bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo quy định tại Điều 331 và Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố các Nguyễn Thị N, Nguyễn Văn T2, Bùi Phú V, Bùi Trọng C, Trần Văn T3, Dương Đức T6, Bùi Văn K1, Nguyễn Khắc D, Dương Thị Lệ T7 và Đinh Văn P phạm tội “Đánh bạc”.
Căn cứ khoản 1, Điều 321; điểm i, khoản 1, khoản 2, Điều 51; Điều 38, Điều 17, Điều 58 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị N 12 (Mười hai) tháng tù, được trừ thời gian tạm giữ là 09 (chín) ngày, còn phải chấp hành 11 (mười một) tháng 21 (hai mốt) ngày. Thời hạn tù tính từ ngày chấp hành án.
Căn cứ khoản 1, Điều 321, khoản 2, Điều 51, điểm h, khoản 1, Điều 52, Điều 38, Điều 17, Điều 58 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T2 12 (mười hai) tháng tù, được trừ thời gian tạm giữ là 04 (bốn) ngày, còn phải chấp hành 11 (mười một) tháng 26 (hai sáu) ngày. Thời hạn tù tính từ ngày chấp hành án.
Căn cứ khoản 1, Điều 321; điểm i, khoản 1, khoản 2, Điều 51; Điều 38, Điều 17, Điều 58 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Bùi Phú V 11 (Mười một) tháng tù, được trừ thời gian tạm giữ là 09 (chín) ngày, còn phải chấp hành 10 (mười) tháng 21 (hai mốt) ngày. Thời hạn tù tính từ ngày chấp hành án.
Căn cứ khoản 1, Điều 321; điểm i, khoản 1, khoản 2, Điều 51; Điều 38, Điều 17, Điều 58 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Bùi Trọng C, Trần văn T3 và Dương Đức T6. Xử phạt bị cáo Bùi Trọng C 08 (T1) tháng tù, được trừ thời gian tạm giữ là 09 (chín) ngày, còn phải chấp hành 07 (bảy) tháng 21 (hai mốt) ngày. Thời hạn tù tính từ ngày chấp hành án.
Xử phạt bị cáo Trần Văn T3 08 (T1) tháng tù, được trừ thời gian tạm giữ là 09 (chín) ngày, còn phải chấp hành 07 (bảy) tháng 21 (hai mốt) ngày. Thời hạn tù tính từ ngày chấp hành án.
Xử phạt bị cáo Dương Đức T6 08 (T1) tháng tù, được trừ thời gian tạm giữ là 09 (chín) ngày, còn phải chấp hành 07 (bảy) tháng 21 (hai mốt) ngày. Thời hạn tù tính từ ngày chấp hành án.
Căn cứ khoản 1, Điều 321; điểm i, s khoản 1, khoản 2, Điều 51; Điều 65, Điều 17, Điều 58 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Bùi Văn K1 07 (bảy) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 14 (mười bốn) tháng tính từ ngày tuyên án, ngày 29/9/2024.
Giao bị cáo Bùi Văn K1 cho UBND xã V, huyện L, tỉnh Hòa Bình giám sát giáo dục trong thời gian chấp hành án.
Trường hợp bị cáo Bùi Văn K1 thay đổi nơi cư trú thì được thực hiện theo quy định tại Điều 92 Luật Thi hành án hình sự.
Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo có vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật Hình sự.
Căn cứ khoản 1, Điều 321; điểm i, s khoản 1, khoản 2, Điều 51; Điều 36, Điều 17, Điều 58 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Khắc D 12 (mười hai) tháng cải tạo không giam giữ. Thời hạn cải tạo không giam giữ tính từ ngày Cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện nhận được Quyết định thi hành án và bản án. Miễn khấu trừ thu nhập đối với bị cáo. Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân thị trấn H, huyện Y, tỉnh Hòa Bình quản lý, giáo dục trong thời gian chấp hành hình phạt. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát giáo dục bị cáo. Bị cáo phải thực hiện những nghĩa vụ quy định tại Điều 99 Luật Thi hành án hình sự.
Trường hợp bị cáo Nguyễn Khắc D vắng mặt hoặc thay đổi nơi cư trú thì được thực hiện theo quy định tại Điều 100 Luật Thi hành án hình sự.
Căn cứ khoản 1 Điều 321, điểm i, s, n khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 17, Điều 58, Điều 35 Bộ luật Hình sự; Xử phạt bị cáo: Dương Thị Lệ T7 25.000.000đ (Hai mươi lăm triệu đồng) tiền Ngân hàng N3, sung quỹ Nhà nước.
Căn cứ khoản 1 Điều 321, điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 17, Điều 58, Điều 35 Bộ luật Hình sự; Xử phạt bị cáo Đinh Văn P 22.000.000đ (Hai mươi hai triệu đồng) tiền Ngân hàng N3, sung quỹ Nhà nước.
2. Hình phạt bổ sung: Căn cứ khoản 3, Điều 321, Điều 35 của Bộ luật Hình sự:
Xử phạt bổ sung đối với bị cáo Nguyễn Thị Ngọc 15.000.000đ (Mười lăm triệu đồng), phạt bổ sung đối với bị cáo Nguyễn Văn T2 14.000.000đ (Mười bốn triệu đồng), phạt bổ sung đối với bị cáo Bùi Phú V 13.000.000đ (Mười ba triệu đồng), phạt bổ sung đối với các bị cáo Bùi Trọng C, Trần Văn T3, Dương Đức T6 mỗi bị cáo 12.000.000đ (Mười hai triệu đồng), phạt bổ sung đối với bị cáo Bùi Văn K1 11.000.000đ (Mười một triệu đồng), phạt bổ sung đối với bị cáo Nguyễn Khắc D 10.000.000đ (Mười triệu đồng).
3. Xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 46, Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015:
- Tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 10.710.000đ (Mười triệu bảy trăm mười nghìn đồng).
- Tịch thu tiêu hủy: 07 (bảy) bộ bài loại 52 lá bài, trong đó có 04 bộ đã sử dụng, còn lại 03 bộ chưa sử dụng.
- Tịch thu phát mại sung quỹ Nhà nước 04 điện thoại cụ thể: 01 điện thoại di động nhãn hiệu iPhone 11 Pro Max của Nguyễn Thị N, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo Reno5 màu đen của Bùi Phú V, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo A71 của Nguyễn Văn T2, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo A55 của Bùi Văn K1. Tình trạng vật chứng có đặc điểm mô tả cụ thể tại biên bản giao nhận vật chứng số 40 ngày 16/9/2024 và ủy nhiệm chi ngày 23/9/2024 giữa Cơ quan điều tra Công an huyện Y và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Yên Thủy.
Truy thu từ bị cáo Nguyễn Thị N số tiền 230.000đ là tiền vật chứng các bị cáo sử dụng đánh bạc để sung quỹ Nhà nước.
4. Án phí: Căn cứ Điều 135, Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc các bị cáo Nguyễn Thị N, Bùi Phú V, Bùi Trọng C, Nguyễn Văn T2, Nguyễn Khắc D, Trần Văn T3, Dương Đức T6, Bùi Văn K1, Dương Thị Lệ T7 và Đinh Văn P mỗi bị cáo phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.
5. Quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự. Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, các bị cáo có quyền làm đơn kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Hòa Bình. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết công khai.
Bản án về tội đánh bạc số 45/2024/HS-ST
Số hiệu: | 45/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Yên Thủy - Hoà Bình |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 29/09/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về