TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VÂN ĐỒN, TỈNH QUẢNG NINH
BẢN ÁN 42/2023/HS-ST NGÀY 29/09/2023 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC
Trong ngày 29 tháng 9 năm 2023, tại Tòa án nhân dân huyện V Đ, tỉnh Quảng Ninh xét xử sơ thẩm, công khai vụ án hình sự thụ lý số: 29/2023/TLST-HS ngày 24 tháng 7 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 31/2023/ QĐXXS- HS ngày 04 tháng 9 năm 2023; Quyết định hoãn phiên tòa số: 02/2023/HSST-QĐ ngày 18/9/2023 đối với các bị cáo:
1. Trương Văn T, sinh ngày 14/4/1975, tại thành phố C Ph, tỉnh Quảng Ninh; nơi cư trú: thôn Kh M, xã Đ K, huyện V Đ, tỉnh Quảng Ninh; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hoá (học vấn): lớp 02/12; dân tộc: Sán Dìu; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trương Văn L và bà Tô Thị L; có vợ là Trần Thị Th và 02 con; tiền án, tiền sự: không; bị bắt, tạm giữ ngày 20/3/2023, bị tạm giam từ ngày 29/3/2023 đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Quảng Ninh. Có mặt.
2. Trương Tiến H, sinh ngày 14/4/1979, tại huyện V Đ, tỉnh Quảng Ninh; nơi thường trú: thôn B L, xã Đ K, huyện V Đ, tỉnh Quảng Ninh; nơi ở hiện tại: thôn Kh M, xã Đ K, huyện V Đ, tỉnh Quảng Ninh; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hoá (học vấn): lớp 04/12; dân tộc: Sán Dìu; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trương Minh Th và bà Hoàng Thị Ng; vợ, con: chưa có; tiền án, tiền sự: không; bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” từ ngày 28/3/2023 cho đến khi kết thúc phiên tòa; hiện tại ngoại. Có mặt.
3. Điệp Văn H1, sinh ngày 13/01/1983, tại huyện V Đ, tỉnh Quảng Ninh; nơi cư trú: thôn Kh Ng, xã Đ K, huyện V Đ, tỉnh Quảng Ninh; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hoá (học vấn): lớp 9/12; dân tộc: Sán Dìu; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Điệp Văn N và bà Ngô Thị Ng; vợ, con: chưa có; tiền án, tiền sự: không; nhân thân: Ngày 28/12/2000 bị Tòa án nhân dân huyện V Đ, tỉnh Quảng Ninh xử phạt 06 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 tháng về tội “ Trộm cắp tài sản”. Ngày 25/12/2007 bị Tòa án nhân dân huyện V Đ, tỉnh Quảng Ninh xử phạt 24 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Chấp hành xong bản án ngày 31/12/2008; bị bắt, tạm giữ từ ngày 20/3/2023 đến ngày 29/3/2023; bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” cho đến khi kết thúc phiên tòa; hiện tại ngoại. Có mặt.
4. Cao Kim H2, sinh ngày 02/9/1972, tại thị xã Q Y, tỉnh Quảng Ninh; nơi cư trú: thôn K V, xã Đ X, huyện V Đ, tỉnh Quảng Ninh; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hoá (học vấn): lớp 05/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Cao Kim N và bà Phạm Thị S; có vợ là Phạm Thị Tr và 02 con; tiền án, tiền sự: không; nhân thân: Ngày 14/5/2013 bị Tòa án nhân dân huyện V Đ, tỉnh Quảng Ninh xử phạt 06 tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 tháng về tội đánh bạc. Chấp hành xong bản án ngày 14/5/2014; bị bắt, tạm giữ từ ngày 20/3/2023 đến 29/3/2023; bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” cho đến khi kết thúc phiên tòa; hiện tại ngoại. Có mặt.
5. Vũ Kim T1, sinh ngày 21/11/1969, tại huyện Q Ph, tỉnh Thái Bình; nơi cư trú: thôn thôn Kh Ng, xã Đ K, huyện V Đ, tỉnh Quảng Ninh; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hoá (học vấn): lớp 10/10; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vũ Kim B và bà Nguyễn Thị Q; có vợ là Trương Thị L và 04 con; tiền án, tiền sự: không; nhân thân: Ngày 12/11/1991 bị Tòa án nhân dân huyện C Ph (nay là huyện V Đ), tỉnh Quảng Ninh xử phạt 12 tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách 24 tháng về tội Trộm cắp tài sản xã hội chủ nghĩa. Chấp hành xong bản án ngày 12/11/1993; bị bắt, tạm giữ từ ngày 20/3/2023 đến 29/3/2023; bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” cho đến khi kết thúc phiên tòa; hiện tại ngoại. Có mặt.
6. Trương Văn L, sinh ngày 28/8/1978, tại thành phố C Ph, tỉnh Quảng Ninh; nơi cư trú: thôn 3, xã C H, thành phố C Ph, tỉnh Quảng Ninh; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hoá (học vấn): lớp 04/12; dân tộc: Sán Dìu; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trương Văn L và bà Tô Thị L; có vợ là Phùng Thị T và 02 con; tiền án, tiền sự: không; bị bắt, tạm giữ từ ngày 20/3/2023 đến ngày 29/3/2023; bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”cho đến khi kết thúc phiên tòa;hiện tại ngoại.Có mặt.
7. Phùng Văn H3, sinh ngày 20/11/1978, tại huyện V Đ, tỉnh Quảng Ninh; nơi cư trú: thôn Kh Ng, xã Đ K, huyện V Đ, tỉnh Quảng Ninh; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hoá (học vấn): lớp 7/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phùng Văn Ch và bà Trần Thị Ng; có vợ là Điệp Thị H và 02 con; tiền án, tiền sự: không; bị bắt, tạm giữ từ ngày 20/3/2023 đến ngày 29/3/2023; bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” cho đến khi kết thúc phiên tòa; hiện tại ngoại. Có mặt.
8. Trần Văn D, sinh ngày 06/8/1975, tại huyện V Đ, tỉnh Quảng Ninh; nơi cư trú: thôn Kh Ng, xã Đ K, huyện V Đ, tỉnh Quảng Ninh; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hoá (học vấn): lớp 2/12; dân tộc: Sán Dìu; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Đăng Kh và bà Tô Thị Q; có vợ là Trương Thị L và 03 con; tiền án, tiền sự: không; Bị bắt, tạm giữ từ ngày 20/3/2023 đến ngày 29/3/2023; bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” cho đến khi kết thúc phiên tòa; hiện tại ngoại. Có mặt.
9. Đinh Văn T2, sinh ngày 21/01/1986, tại huyện V Đ, tỉnh Quảng Ninh; nơi cư trú: thôn Kh M, xã Đ K, huyện V Đ, tỉnh Quảng Ninh; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hoá (học vấn): lớp 4/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đinh Văn Ph và bà Hoàng Thị X; có vợ là Tô Thị H và 02 con; tiền án, tiền sự: không; bị bắt, tạm giữ từ ngày 20/3/2023 đến ngày 29/3/2023; bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” cho đến khi kết thúc phiên tòa; hiện tại ngoại. Có mặt.
10. La Văn B, sinh ngày 28/ 7/1938, tại huyện V Đ, tỉnh Quảng Ninh; nơi cư trú: thôn B L, xã Đ K, huyện V Đ, tỉnh Quảng Ninh; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hoá (học vấn): lớp 2/10; dân tộc: Sán Dìu; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông La Văn Ch và bà Tạ Thị L; có vợ là Điệp Thị Th và 08 con; tiền án, tiền sự: không; bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” từ ngày 28/3/2023 cho đến khi kết thúc phiên tòa; hiện tại ngoại. Vắng mặt (có đơn xin xét xử vắng mặt)
11. Nguyễn Văn H4, sinh ngày 07/7/1974, tại huyện V Đ, tỉnh Quảng Ninh; nơi cư trú: thôn B L, xã Đ K, huyện V Đ, tỉnh Quảng Ninh; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hoá (học vấn): lớp 12/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Thành Ng và bà Phạm Thị Nh; có vợ là Trương Thụy T và 02 con; tiền án, tiền sự: không; bị bắt, tạm giữ từ ngày 20/3/2023 đến ngày 29/3/2023; bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” cho đến khi kết thúc phiên tòa; hiện tại ngoại. Có mặt.
12. Đinh Văn Ph, sinh ngày 17/12/1990, tại huyện V Đ, tỉnh Quảng Ninh; nơi cư trú: thôn Kh M, xã Đ K, huyện V Đ, tỉnh Quảng Ninh; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hoá (học vấn): lớp 4/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đinh Văn H và bà Điệp Thị Ng; vợ, con: chưa có; tiền án, tiền sự: không; Bị bắt, tạm giữ từ ngày 20/3/2023 đến ngày 29/3/2023; bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” cho đến khi kết thúc phiên tòa; hiện tại ngoại. Có mặt.
13. Cù Văn Đ, sinh ngày 11/5/1969, tại huyện Th Ng, thành phố Hải Phòng; nơi cư trú: thôn B L, xã Đ K, huyện V Đ, tỉnh Quảng Ninh; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hoá (học vấn): lớp 6/10; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Cù Văn N và bà Nguyễn Thị C; có vợ là Phạm Thị Ch và 02 con; tiền án, tiền sự: không; bị bắt, tạm giữ từ ngày 20/3/2023 đến ngày 29/3/2023; bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” cho đến khi kết thúc phiên tòa; hiện tại ngoại. Có mặt
14. Điệp Văn X, sinh ngày 01/9/1981, tại huyện V Đ, tỉnh Quảng Ninh; nơi cư trú: thôn Kh Ng, xã Đ K, huyện V Đ, tỉnh Quảng Ninh; nghề nghiệp: Công nhân, Công ty Cổ phần than Mông D; trình độ văn hoá (học vấn): lớp 12/12; dân tộc: Sán Dìu; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Điệp Văn N và bà Ngô Thị Ng; có vợ là Vũ Thị H và 02 con; tiền án, tiền sự: không; bị bắt, tạm giữ từ ngày 20/3/2023 đến ngày 29/3/2023; bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” cho đến khi kết thúc phiên tòa; hiện tại ngoại. Có mặt
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: bà Trần Thị Th; nơi cư trú: thôn Kh M, xã Đ K, huyện V Đ, tỉnh Quảng Ninh. Có mặt
Người làm chứng: anh Trương Tiến A; nơi cư trú: thôn Kh M, xã Đ K, huyện V Đ, tỉnh Quảng Ninh. Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 12 giờ ngày 19/3/2023, Trương Văn T, Trương Văn H, Phùng Văn H3, Điệp Văn H1 và La Văn B cùng ngồi chơi, uống nước trong phòng cạnh phòng kho nhà của T ở thôn Kh M, xã Đ K, huyện V Đ. Ngồi uống nước được khoảng 30 phút, thì T rủ Trương H, Phùng H3, H1 và B đánh bạc dưới hình thức xóc đĩa, được thua bằng tiền thì mọi người đồng ý. Lúc này, T lấy 01 chiếc kéo và 01 bộ bài tú lơ khơ 52 quân bài đưa cho Trương H để cắt quân vị. Trương H lấy quân bài 5 tép trong bộ bài tú lơ khơ, dùng kéo cắt thành 04 quân vị hình tròn, còn T vào bếp lấy 01 chiếc đĩa sứ và 01 chiếc bát sứ để làm dụng cụ đánh bạc, rồi mang đến để xuống chiếu đã trải sẵn từ trước dưới nền phòng kho. Trương H, Phùng H3, H1, B đi sang phòng kho, thì Trương H để 04 quân vị xuống đĩa. Sau đó T cùng Trương H, Phùng H3, H1 và B ngồi xuống chiếu đánh bạc, do T là người cầm cái và thống nhất cách thức đánh bạc như sau: Người cầm cái cho 04 quân vị hình tròn vào trong đĩa rồi úp kín bát lên, xóc đều quân vị. Lúc này, quân vị vẫn được che kín (chưa mở bát) thì người tham gia đánh bạc (người chơi) sẽ đoán quân vị ở trong bát là chẵn hoặc lẻ để đặt cược, theo quy ước: Nếu có 02 hoặc 04 quân vị cùng một mặt là chẵn và người chơi sẽ đặt tiền cược ở dưới chiếu gần vị trí người cầm cái; nếu có 01 hoặc 03 quân vị cùng một mặt là lẻ và người chơi sẽ đặt tiền cược ở dưới chiếu đối diện với vị trí người cầm cái (ở giữa chẵn và lẻ là vị trí đặt bát, đĩa và quân vị). Người chơi nào đặt cược đúng thì sẽ được người cầm cái trả số tiền tương ứng với số tiền đã đặt cược, còn người chơi nào đặt cược sai thì sẽ thua số tiền đã đặt cược cho người cầm cái. Người cầm cái có thể chuyển (bán) số tiền đặt cược của người chơi này để cho những người chơi khác nhận cược với nhau hoặc không nhận tiền đặt cược nếu không muốn. Mức đặt cược thấp nhất là 10.000 đồng và không giới hạn mức cao nhất.
Trong quá trình đánh bạc còn có Cao Kim H2, Vũ Kim T1, Trương Văn L, Trần Văn D, Đinh Văn T2, Nguyễn Văn H4, Đinh Văn Ph, Cù Văn Đ và Điệp Văn X cũng lần lượt tự đến tham gia đánh bạc.
Đến 14 giờ cùng ngày, khi T, Trương H, H2, Vũ Tuấn, H1, L, Phùng H3, D, Đinh T2, B, H4, Ph, Đ và X đang đánh bạc thì tổ công tác Công an huyện V Đ đến kiểm tra và thu giữ gồm: 01 chiếu màu đỏ, 01 chiếu màu xanh, 01 bát sứ màu trắng, 01 đĩa sứ màu trắng, 04 quân vị hình tròn được cắt từ lá bài tú lơ khơ, 01 kéo cắt, 01 bộ bài tú lơ khơ có 51 quân bài (thiếu quân 5 tép), 7.400.000 đồng sau bao gạo, 3.000.000 đồng tại thùng đựng chai thủy tinh, 5.200.000 đồng dưới chân tủ gỗ, 4.200.000 đồng tại cửa sắt phía sau. Ngoài ra còn thu giữ trên người T 5.210.000 đồng và 01 điện thoại di động Oppo; Trương H 1.518.000 đồng, 01 điện thoại di động Nokia và 01 điện thoại di động Masstel; H2 5.610.000 đồng và 01 điện thoại di động Iphone; Vũ T1 1.700.000 đồng và 01 điện thoại di động Oppo; H1 7.000 đồng và 01 điện thoại di động Samsung; L 6.200.000 đồng và 01 điện thoại di động Samsung; Phùng H3 1.340.000 đồng và 01 điện thoại di động Iphone; D 1.035.000 đồng và 01 điện thoại di động Oppo; Đinh T2 800.000 đồng và 01 điện thoại di động Oppo; B 683.000 đồng; H4 602.000 đồng và 01 điện thoại di động Poco; Ph 320.000 đồng và 01 điện thoại di động Iphone; Đ 40.000 đồng và 01 điện thoại di động Honor; X 01 điện thoại di động Samsung.
Cơ quan điều tra thu giữ tại hiện trường vụ án và trong người các bị cáo tổng số tiền 44.865.000 đồng.
Quá trình điều tra, và tại phiên tòa các bị cáo Trương Văn T, Trương Tiến H, Cao Kim H, Vũ Kim T, Điệp Văn H, Trương Văn L, Phùng Văn H, Trần Văn D, Đinh Văn T, La Văn B, Nguyễn Văn H, Đinh Văn Ph, Cù Văn Đ và Điệp Văn X đều khai vào thời gian trưa và chiều ngày 19/3/2023 các bị cáo có tham gia đánh bạc bằng hình thức xóc đĩa được thua bằng tiền tại nhà của Trương Văn T ở thôn Kh M, xã Đ K, huyện V Đ. Khi vào nhà T để đánh bạc, không bị ai thu tiền. Trong lúc đánh bạc, các bị cáo không biết những người chơi thắng thua như thế nào và có ai chạy ra ngoài khi Công an kiểm tra hay không. Số tiền cơ quan Công an thu giữ sau bao gạo, tại thùng đựng chai thủy tinh và tại cửa sắt phía sau không biết của ai. Những chiếc điện thoại bị thu giữ không sử dụng vào việc tổ chức đánh bạc hoặc đánh bạc.
Số tiền sử dụng vào việc đánh bạc các bị cáo khai như sau:
Bị cáo Cao Kim H khai: bị cáo sử dụng 5.700.000 đồng để đánh bạc, thua 90.000 đồng, bị thu giữ 5.610.000 đồng Bị cáo Phùng Văn H khai khi vào đánh bạc bị cáo có 6.440.000 đồng, bị cáo sử dụng 5.100.000 đồng (Năm triệu một trăm nghìn) để đánh bạc, thắng 100.000 đồng và khi Công an kiểm tra thì bị cáo đã giấu số tiền 5.200.000 đồng ở chân tủ gỗ, cạnh vị trí bị cáo ngồi đánh bạc. Số tiền 1.340.000 đồng cơ quan công an thu ở trong người bị cáo là tiền bị cáo dùng để mua thức ăn cho gia đình, không sử dụng để đánh bạc.
Bị cáo Trương Văn T khai: bị cáo sử dụng 4.000.000 đồng (Bốn triệu đồng) để đánh bạc, thắng 1.210.000 đồng, khi bị thu giữ là 5.210.000 đồng;
Bị cáo Trương Văn L khai: bị cáo sử dụng 4.000.000 đồng (Bốn triệu đồng) để đánh bạc, thắng 2.200.000 đồng, bị thu giữ 6.200.000 đồng.
Bị cáo Trương Tiến H khai: bị cáo sử dụng hơn 1.400.000 đồng (Một triệu bốn trăm nghìn đồng) để tham gia đánh bạc, và thắng đươc khoảng 100.000 đồng. Toàn bộ số tiền 1.518.000 đồng cơ quan công an thu giữ trong người bị cáo là tiền bị cáo sử dụng vào việc đánh bạc và do đánh bạc mà có.
Bị cáo Vũ Kim T khai: bị cáo sử dụng 1.550.000 đồng (Một triệu năm trăm năm mươi nghìn đồng)để đánh bạc, thắng 150.000 đồng; bị thu giữ 1.700.000 đồng.
Bị cáo Trần Văn D khai: bị cáo sử dụng 1.235.000 đồng (Một triệu hai trăm ba mươi lăm nghìn đồng) để đánh bạc, thua 200.000 đồng, bị thu giữ 1.035.000 đồng.
Bị cáo Điệp Văn H khai: bị cáo sử dụng 1.207.000 đồng (Một triệu hai trăm linh bảy nghìn đồng)để đánh bạc, thua 1.200.000 đồng, bị thu giữ 7.000 đồng Bị cáo Đinh Văn T khai: Bị cáo sử dụng 1.100.000 đồng (Một triệu một trăm nghìn đồng)để đánh bạc, thua 300.000 đồng; bị thu giữ 800.000 đồng.
Bị cáo La Văn B khai bị cáo sử dụng khoảng 800.000 đồng (Tám trăm nghìn đồng) để đánh bạc, thua khoảng 200.000 đồng. Bị thu giữ 683.000 đồng, số tiền này bị cáo cũng để sử dụng vào việc đánh bạc.
Bị cáo Nguyễn Văn H khai: bị cáo sử dụng số tiền 702.000 đồng (Bảy trăm linh hai nghìn đồng) để đánh bạc, thua 100.000 đồng, bị thu giữ 602.000 đồng Bị cáo Đinh Văn Ph khai: bị cáo sử dụng 500.000 đồng (Năm trăm nghìn đồng)để đánh bạc, thua 180.000 đồng, bị thu giữ 320.000 đồng Bị cáo Điệp Văn X khai: bị cáo sử dụng 400.000 đồng (Bốn trăm nghìn đồng)để đánh bạc và bị thua hết.
Bị cáo Cù Văn Đ khai: bị cáo sử dụng 190.000 đồng (Một trăm chín mươi nghìn đồng)để đánh bạc, thua 150.000 đồng; bị thu giữ 40.000 đồng.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Trần Thị Th khai: Số tiền cơ quan công an thu giữ tại các vị trí: sau bao gạo, thùng đựng chai thủy tinh và tại cửa sắt phía sau trong nhà bà, bà không biết của ai, không phải tiền của bà và cũng không phải là của chồng, con bà. Chiếc thẻ nhớ lưu lại hình ảnh liên quan đến vụ án, bà nộp cho cơ quan công an huyện V Đ để điều tra, bà đề nghị không nhận lại.
Người làm chứng anh Trương Tiến A khai: Số tiền cơ quan công an thu giữ tại các vị trí: sau bao gạo, thùng đựng chai thủy tinh và tại cửa sắt phía sau ở gia đình anh, anh không biết của ai, không phải tiền của anh.
Tại bản cáo trạng số: 30/CT-VKSVĐ ngày 24/7/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện V Đ, tỉnh Quảng Ninh đã truy tố hai bị cáo Trương Văn T và Trương Tiến H về tội “Đánh bạc” và “Tổ chức đánh bạc”; truy tố các bị cáo Điệp Văn H, Cao Kim H, Vũ Kim T, Trương Văn L, Phùng Văn H, Trần Văn D, Đinh Văn T, La Văn B, Nguyễn Văn H, Đinh Văn Ph, Cù Văn Đ và Điệp Văn Xvề tội “ Đánh bạc”.
Ý kiến của Kiểm sát viên tại phiên tòa:
Căn cứ vào lời khai của các bị cáo tại phiên tòa và các tài liệu chứng cứ đã được thu thập trong quá trình điều tra đủ cơ sở kết luận: khoảng thời gian từ 12 giờ 30 phút đến 14 giờ ngày 19/3/2023, tại nhà ở của Trương Văn T thuộc thôn Kh M, xã Đ K, huyện V Đ, Trương Văn T và Trương Tiến H đã có hành vi tổ chức và tham gia đánh bạc bằng hình thức xóc đĩa được thua bằng tiền với Điệp Văn H, Cao Kim H, Vũ Kim T, Trương Văn L, Phùng Văn H, Trần Văn D, Đinh Văn T, La Văn B, Nguyễn Văn H, Đinh Văn Ph, Cù Văn Đ và Điệp Văn X như bản cáo trạng đã nêu.
Đề nghị Hội đồng xét xử:
- Áp dụng khoản 1 Điều 321; các điểm a, c khoản 1 Điều 322; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58 ; khoản 1 Điều 55 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Trương Văn T: từ 09 tháng đến 12 tháng tù về tội “Đánh bạc” và từ 15 tháng đến 18 tháng tù về tội “Tổ chức đánh bạc”; Tổng hợp hình phạt chung của 02 tội danh trên, xử phạt bị cáo Trương Văn T từ 24 tháng đến 30 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 20/3/2023. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo Trương Văn T.
- Áp dụng khoản 1 Điều 321; các điểm a, c khoản 1 Điều 322; các điểm s, p khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58; khoản 1, 2, 5 Điều 65; khoản 1 Điều 55 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Trương Tiến H: từ 06 tháng đến 09 tháng tù về tội “Đánh bạc” và từ 12 tháng đến 15 tháng tù về tội “Tổ chức đánh bạc”. Tổng hợp hình phạt chung của 02 tội danh trên, xử phạt Trương Tiến H từ 18 tháng đến 24 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 36 tháng đến 48 tháng, thời hạn tính từ ngày tuyên án. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo Trương Tiến H.
Giao bị cáo Trương Tiến H cho Ủy ban nhân dân xã Đ K, huyện V Đ giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.
- Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm i khoản 1 Điều 51 (đối với các bị cáo Trương Văn L, Phùng Văn H); Điều 17; Điều 58; Điều 35 Bộ luật Hình sự, xử phạt các bị cáo Cao Kim H, Vũ Kim T, Điệp Văn H, Phùng Văn H, Trương Văn L mỗi bị cáo từ 30.000.000 đồng đến 35.000.000 đồng về tội “Đánh bạc”.
- Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 35 Bộ luật Hình sự, xử phạt các bị cáo Trần Văn D, Đinh Văn T, Nguyễn Văn H, Đinh Văn Ph, Cù Văn Đ và Điệp Văn X, mỗi bị cáo: từ 25.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng về tội “Đánh bạc”.
- Áp dụng khoản 1 Điều 321; các điểm i, s, o, v, x khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58; khoản 3 Điều 54; Điều 35 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo La Văn B: từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng về tội “Đánh bạc”.
- Áp dụng các điểm a, b khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; các điểm a, b khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:
+ Tịch thu tiêu hủy 02 chiếc chiếu, 01 chiếc bát sứ, 01 chiếc đĩa sứ, 04 quân vị, 01 chiếc kéo, 51 quân bài tú lơ khơ.
+ Tịch thu nộp ngân sách nhà nước số tiền 28.925.000 đồng.
+ Trả lại bị cáo T 01 điện thoại Oppo; Trương H 01 điện thoại Nokia và 01 điện thoại Masstel; Hợp 01 điện thoại Iphone; Vũ T 01 điện thoại Oppo; H1 01 điện thoại Samsung; L01 điện thoại Samsung; Phùng H 01 điện thoại Iphone; D 01 điện thoại Oppo; Đinh T 01 điện thoại Oppo; H3 01 điện thoại Poco; Ph 01 điện thoại Iphone; Đ 01 điện thoại Honor; X 01 điện thoại Samsung.
+ Trả lại bị cáo Phùng H số tiền 1.340.000 đồng, nhưng tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án.
+ Giao số tiền 14.600.000 đồng cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Vân Đồn để tiếp tục giải quyết theo quy định pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện V Đ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện V Đ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và xét xử sơ thẩm, các bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về năng lực chịu trách nhiệm hình sự của bị cáo Trương Tiến H: Bị cáo Trương Tiến H là người bị bệnh tâm thần được điều trị từ năm 2012 đến nay. Tại Bản kết luận giám định pháp y tâm thần số 183/KLGĐ ngày 14/6/2023 của Viện pháp y tâm thần Trung ương - Bộ y tế, kết luận: “Trước, trong, khi thực hiện hành vi phạm tội vào ngày 19/3/2023 và tại thời điểm giám định bị can Trương Tiến H bị bệnh Tâm thần phân liệt thể không biệt định, theo phân loại bệnh quốc tế lần thứ 10 năm 1992 có mã F20.3, bệnh ở giai đoạn ổn định. Tại các thời điểm trên bị can đủ khả năng nhận thức và điều khiển hành vi”. Do vậy bị cáo Trương Tiến H có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự.
[3] Về sự vắng mặt của bị cáo La Văn B: Bị cáo La Văn B tuổi cao, sức khỏe yếu, tại phiên tòa ngày 18/9/2023 đã có mặt, nhưng sau đó đã có đơn xin xét xử vắng mặt. Sự vắng mặt của bị cáo La Văn B không gây trở ngại cho việc xét xử. Căn cứ vào các điểm c, d khoản 2 Điều 290 của Bộ luật Tố tụng hình sự, xét xử vắng mặt bị cáo La Văn B.
[3] Về hành vi bị truy tố của các bị cáo: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo Trương Văn T, Trương Tiến H, Cao Kim H, Vũ Kim T, Điệp Văn H, Trương Văn L, Phùng Văn H, Trần Văn D, Đinh Văn T, La Văn B, Nguyễn Văn H, Đinh Văn Ph, Cù Văn Đ và Điệp Văn X đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như bản cáo trạng đã nêu. Lời khai nhận của các bị cáo phù hợp với nhau, phù hợp vật chứng đã được thu giữ trong vụ án, phù hợp với nội dung Biên bản kiểm tra hành chính của Công an huyện V Đ lập hồi 14 giờ 00 phút ngày 19/3/2023 tại nhà Trương Văn T thuộc thôn Kh M, xã Đ K huyện V Đ và các tài liệu, chứng cứ khác đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án.
Như vậy có đủ cơ sở kết luận: Vào hồi 12 giờ ngày 19/3/2023, tại nhà ở của mình, thuộc thôn Kh M, xã Đ K, huyện V Đ, bị cáo Trương Văn T đã có hành vi rủ rê, chuẩn bị công cụ để đánh bạc và cùng với các bị cáo Trương Tiến H, Phùng Văn H, Điệp Văn H, La Văn B, Cao Kim H, Vũ Kim T, Trương Văn L, Trần Văn D, Đinh Văn T, Nguyễn Văn H, Đinh Văn Ph, Cù Văn Đ và Điệp Văn X đánh bạc bằng hình thức xóc đĩa được thua bằng tiền. Trong đó Trương Tiến H đã giúp bị cáo T chuẩn bị công cụ (cắt quân vị) để tổ chức đánh bạc. Tổng số tiền các bị cáo sử dụng để đánh bạc là 28.925.000 đồng. Hành vi rủ rê, bố trí địa điểm và chuẩn bị công cụ phương tiện đánh bạc của hai bị cáo Trương Văn T và Trương Tiến H đã phạm vào tội “Tổ chức đánh bạc” quy định tại điểm a, c khoản 1 Điều 322 của Bộ luật Hình sự. Hành vi đánh “xóc đĩa” được thua bằng tiền của các bị cáo Trương Văn T, Trương Tiến H, Phùng Văn H, Điệp Văn H và La Văn B, Cao Kim H, Vũ Kim T, Trương Văn L, Trần Văn D, Đinh Văn T, Nguyễn Văn H, Đinh Văn Ph, Cù Văn Đ và Điệp Văn X đã phạm vào tội “Đánh bạc” quy định tại khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự. Viện kiểm sát nhân dân huyện Vân Đồn đã truy tố hai bị cáo Trương Văn T, Trương Tiến H về tội “Tổ chức đánh bạc” và tội “Đánh bạc”. Truy tố các các bị cáo Phùng Văn H, Điệp Văn H, La Văn B, Cao Kim H, Vũ Kim T, Trương Văn L, Trần Văn D, Đinh Văn T, Nguyễn Văn H, Đinh Văn Ph, Cù Văn Đ và Điệp Văn X về tội “Đánh bạc” là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Điều 321 của Bộ luật Hình sự quy định:
“1. Người nào đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật trị giá từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 5.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc hành vi quy định tại Điều 322 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 322 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
Điều 322 của Bộ luật Hình sự quy định:
1. Người nào tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc trái phép thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
a) Tổ chức cho 10 người đánh bạc trở lên trong cùng một lúc mà tổng số tiền, hiện vật dùng đánh bạc trị giá 5.000.000 đồng trở lên hoặc tổ chức 02 chiếu bạc trở lên trong cùng một lúc mà tổng số tiền, hiện vật dùng đánh bạc trị giá 5.000.000 đồng trở lên;
b)….
c) Tổng số tiền, hiện vật dùng đánh bạc trong cùng 01 lần trị giá 20.000.000 đồng trở lên;
[3] Về tính chất, mức độ phạm tội của các bị cáo:
Các bị cáo phạm tội có tính chất đồng phạm giản đơn, không có sự bàn bạc chuẩn bị trước, không có tổ chức cấu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm. Hành vi phạm tội của các bị cáo đã xâm phạm đến trật tự công cộng, ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an xã hội trên địa bàn huyện V Đ. Đánh bạc là một trong những nguyên nhân làm phát sinh tội phạm khác và là nguyên nhân dẫn đến mẫu thuẫn gia đình. Tổng số tiền các bị cáo sử dụng vào việc đánh bạc không lớn.
[3] Về vai trò của các bị cáo trong vụ án:
Về tội Tổ chức đánh bạc. Bị cáo Trương Văn Tlà người rủ rê, lôi kéo các bị cáo khác tham gia đánh bạc, chủ động và chỉ đạo bị cáo Trương Tiến H chuẩn bị công cụ phạm tội. Bị cáo Trương Tiến H giúp sức cho Trương Văn T tổ chức đánh bạc với vai trò không đáng kể Về tội đánh bạc: Bị cáo Trương Văn T là người cầm cái trong suốt quá trình các bị cáo tham gia đánh bạc. Bốn bị cáo Trương Tiến H, Phùng Văn H, Điệp Văn H, La Văn B tham gia đánh bạc từ đầu cùng với bị cáo T. Bị cáo Cao Kim H sử dụng 5.700.000 đồng để đánh bạc, bị cáo Phùng Văn H sử dụng 5.100.000 đồng để đánh bạc, bị cáo Trương Văn T 4.000.000 đồng sử dụng để đánh bạc, bị cáo Trương Văn L sử dụng 4.000.000 đồng để đánh bạc, bị cáo Vũ Kim T sử dụng 1.550.000 đồng để đánh bạc, bị cáo Trương Tiến H sử dụng 1.400.000 đồng để đánh bạc, bị cáo Trần Văn D sử dụng 1.235.000 đồng để đánh bạc, bị cáo Điệp Văn H sử dụng 1.207.000 đồng để đánh bạc, bị cáo Đinh Văn T sử dụng 1.100.000 đồng để đánh bạc, bị cáo La Văn B sử dụng 800.000 đồng để đánh bạc, bị cáo Nguyễn Văn H sử dụng 702.000 đồng để đánh bạc, bị cáo Đinh Văn Ph sử dụng 500.000 đồng để đánh bạc, bị cáo Điệp Văn X sử dụng 400.000 đồng để đánh bạc, bị cáo Cù Văn Đ sử dụng 190.000 đồng để đánh bạc.
[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo:
Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Tất cả các bị cáo đều không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 52 của Bộ luật Hình sự.
Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Sau khi phạm tội, tất cả các bị cáo đều đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, nên xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho tất cả các bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Các bị cáo La Văn B, Trương Văn L, Trần Văn D, Đinh Văn T, Nguyễn Văn H, Đinh Văn Ph, Cù Văn Đ và Điệp Văn X, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, nên xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho các bị cáo này theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
Bị cáo La Văn B khi phạm tội trên 70 tuổi (85 tuổi), năm 1999 được tặng thưởng Huy chương kháng chiến hạng nhất vì đã có thành tích xuất sắc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước và là người có công với cách mạng. Nên xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo B theo quy định tại điểm o. v, x khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
Bị cáo Trương Tiến H có bố là ông Trương Minh Th tham gia hoạt động kháng chiến chống Mỹ bị nhiễm chất độc hóa học tỷ lệ mất sức lao động 65% và được tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng ba. Bản thân bị cáo là người bị khuyết tật nặng về tâm thần được hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng, nên xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo Trương Tiến H theo quy định tại điểm p khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
[6] Về hình phạt: Căn cứ vào tính chất mức độ phạm tội, nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với từng bị cáo thấy:
Bị cáo Trương Văn T phạm hai tội và đều có vai trò chính trong cả hai tội phạm mà bị cáo thực hiện. Bị cáo là người tổ chức việc đánh bạc và tham gia đánh bạc tích cực trực tiếp cầm cái trong suốt quá trình các bị cáo đánh bạc, nên cần phải xử phạt tù và cách ly ra khỏi xã hội một thời gian đối với bị cáo T.
Bị cáo Trương Tiến H tuy phạm hai tội, nhưng tội phạm bị cáo thực hiện là tội phạm ít nghiêm trong (tội đánh bạc) và có vai trò không đáng kể trong tội phạm nghiêm trọng (Tổ chức đánh bạc). Bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, phạm tội lần đầu và là người giúp sức có vai trò không đáng kể, nên xem xét, xử phạt bị cáo dưới mức thấp nhất của khung hình phạt đối với hành vi tổ chức đánh bạc của bị cáo theo khoản 2 Điều 54 của Bộ luật Hình sự. Bị cáo có nơi cư trú rõ ràng và đang điều trị ngoại trú bệnh tâm thần phân liệt tại cộng đồng nên xử phạt tù và cho bị cáo được hưởng án treo theo quy định tại điều 65 của Bộ luật hình sự.
Ba bị cáo Điệp Văn H, Cao kim H, Vũ Kim T là những người có nhân thân xấu, đã từng bị kết án nhưng đều đã được xóa án tích. Các bị cáo còn lại, trước khi phạm tội đều có nhân thân tốt.
Các bị cáo Cao Kim H, Điệp Văn H, Vũ Kim T, Phùng Văn H, Trương Văn L, Trần Văn D, Đinh Văn T, Nguyễn Văn H, Đinh Văn Ph, Điệp Văn X, Cù Văn Đ, La Văn B thực hiện hành vi phạm tội với tính chất, mức độ ít nghiêm trọng, phạm tội vì mục đích tư lợi, có khả năng tài chính để thi hành hình phạt tiền, nên chỉ cần áp dụng hình phạt tiền đối với các bị cáo này cũng đủ răn đe, giáo dục các bị cáo. Căn cứ vào nhân thân, mức độ phạm tội (số tiền sử dụng vào việc đánh bạc), các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thấy: cần thiết phải xử phạt hai bị cáo Cao Kim H và Điệp Văn H với mức phạt tiền cao hơn các bị cáo khác. Tiếp đến là ba bị cáo Vũ Kim T, Phùng Văn H và Trương Văn L. Các bị cáo Trần Văn D, Đinh Văn T, Nguyễn Văn H, Đinh Văn Ph, Điệp Văn X, Cù Văn Đmức độ phạm tội không lớn, nên xử phạt với mức phạt tiền thấp hơn các bị cáo Kim T, Phùng H và L. Đối với bị cáo La Văn Bcó nhiều tình tiết giảm nhẹ (05 tình tiết), nên áp dụng khoản 3 Điều 54 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo B với số tiền phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt.
[7] Về hình phạt bổ sung:
- Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo Trương Văn T và bị cáo Trương Tiến H. Vì: bị cáo Tcó điều kiện kinh tế, hoàn cảnh gia đình khó khăn, bản thân bị tai nạn giao thông, sức khỏe yếu, vợ bị bệnh động kinh, các con đều chưa có việc làm ổn định; bị cáo Trương Tiến H không có nghề nghiệp, không có tài sản, sống một mình và hiện đang hưởng trợ cấp xã hội đối với người khuyết tật.
[8] Về vật chứng:
- 01 chiếc chiếu, 01 chiếc đĩa sứ màu trắng, 01 chiếc bát sứ màu trắng, 01 chiếc kéo, 01 bộ bài tú lơ khơ, 04 quân vị hình tròn là công cụ dùng vào việc phạm tội, không có giá trị cần tịch thu và tiêu hủy.
- Cơ quan công an huyện V Đ đã thu giữ tại hiện trương vụ án và trên người các bị cáo tổng số tiền là 44.865.000 đồng. Trong đó: có 28.925.000 đồng các bị cáo sử dụng vào việc phạm tội và do phạm tội mà có, cần tịch thu sung vào ngân sách nhà nước theo quy định tại các điểm a, b khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự và điểm b khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự;
Còn lại số tiền 14.600.000 đồng, đến nay chưa xác định được chủ sở hữu, nên giao lại cho cơ quan Công an huyện V Đ tiếp tục xác minh làm rõ và xử lý theo quy định tại khoản 2 Điều 228 của Bộ luật Dân sự.
- Số tiền 1.340.000 đồng thu của Phùng Văn H, bị cáo không sử dụng số tiền này vào việc phạm tội, là tài sản của Phùng Văn H cần trả lại cho bị cáo Phùng Văn H. 14 chiếc điện thoại di động thu của các bị cáo, là tài sản của các bị cáo không sử dụng vào việc phạm tội, nên trả lại cho các bị cáo theo điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự;
- Chiếc thẻ nhớ, do bà Th giao nộp ghi lại hình ảnh liên quan đến vụ án, bà Th không nhận lại, nên tiếp tục lưu giữ tại hồ sơ vụ án.
[9] Về Biện pháp ngăn chặn: Lệnh “Cấm đi khỏi nơi cư trú” đối với Trương Tiến H, Phùng Văn H, Điệp Văn H, Cao Kim H, Vũ Kim T, Trương Văn L, Trần Văn D, Đinh Văn T, Nguyễn Văn H, Đinh Văn Ph, Cù Văn Đ, La Văn B và Điệp Văn X đã hết hiệu lực thi hành.
[10] Về án phí: Các bị cáo Trương Văn T, Phùng Văn H, Điệp Văn H, Cao Kim H, Vũ Kim T, Trương Văn L, Trần Văn D, Đinh Văn T, Nguyễn Văn H, Đinh Văn Ph, Cù Văn Đ và Điệp Văn X phải chịu án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo La Văn B là người cao tuổi và bị cáo Trương Tiến H là người khuyết tật, nên miễn án phí hình sự sơ thẩm cho hai bị cáo La Văn B và Trương Tiến H theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
1. Về tội danh:
Tuyên bố: Hai bị cáo Trương Văn T và Trương Tiến H phạm tội “Đánh bạc” và tội “Tổ chức đánh bạc”; các bị cáo Điệp Văn H, Cao Kim H, Vũ Kim T, Phùng Văn H, Trương Văn L, Trần Văn D, Đinh Văn T, La Văn B, Nguyễn Văn H, Đinh Văn Ph, Điệp Văn X và Cù Văn Đ phạm tội “ Đánh bạc”.
2. Về hình phạt:
+ Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm a, c khoản 1 Điều 322; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm a khoản 1 Điều 55; Điều 17; Điều 58 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Trương Văn T 09 (Chín) tháng tù về tội “Đánh bạc” và 12 (Mười hai) tháng tù về tội “Tổ chức đánh bạc”. Tổng hợp hình phạt chung cho cả hai tội, bị cáo Trương Văn T phải chấp hành 21(Hai mươi mốt) tháng tù, thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt, tạm giữ (20/3/2023).
+ Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm a, c khoản 1 Điều 322; điểm s, p khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 2 Điều 54; điểm a khoản 1 Điều 55; Điều 17; Điều 58; các khoản 1, 2 và 5 Điều 65 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Trương Tiến H 06 (Sáu) tháng tù về tội “Đánh bạc” và 08 (Tám) tháng tù về tội “Tổ chức đánh bạc”. Tổng hợp hình phạt chung cho cả hai tội, bị cáo Trương Tiến H phải chấp hành 14 (Mười bốn) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 28 (Hai mươi tám) tháng, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (29/9/2023).
Giao bị cáo Trương Tiến H cho Ủy ban nhân dân xã Đ K, huyện V Đ, tỉnh Quảng Ninh để giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình Trương Tiến H có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục Trương Tiến H.
Trường hợp Trương Tiến H thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về Thi hành án hình sự.
Trong thời gian thử thách, nếu Trương Tiến H cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc Trương Tiến H phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
+ Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm a khoản 1 Điều 35; Điều 17; Điều 58 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Điệp Văn H 30.000.000 đồng (Ba mươi triệu đồng) + Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm a khoản 1 Điều 35; Điều 17; Điều 58 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Cao Kim H 30.000.000 đồng (Ba mươi triệu đồng);
+ Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm a khoản 1 Điều 35; Điều 17; Điều 58 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Vũ Kim T 27.000.000 đồng (Hai mươi bảy triệu đồng);
+ Áp dụng khoản 1 Điều 321; các điểm i, s khoản 1 Điều 51; điểm a khoản 1 Điều 35; Điều 17; Điều 58 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Phùng Văn H 27.000.000 đồng(Hai mươi bảy triệu đồng);
+ Áp dụng khoản 1 Điều 321; các điểm i, s khoản 1 Điều 51; điểm a khoản 1 Điều 35; Điều 17; Điều 58 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Trương Văn L 27.000.000 đồng(Hai mươi bảy triệu đồng);
+ Áp dụng khoản 1 Điều 321; các điểm i, s khoản 1 Điều 51; điểm a khoản 1 Điều 35; Điều 17; Điều 58 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Trần Văn D 25.000.000 đồng (Hai mươi lăm triệu đồng);
+Áp dụng khoản 1 Điều 321; các điểm i, s khoản 1 Điều 51; điểm a khoản 1 Điều 35; Điều 17; Điều 58 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Đinh Văn T 25.000.000 đồng (Hai mươi lăm triệu đồng);
+ Áp dụng khoản 1 Điều 321, các điểm i, s khoản 1 Điều 51, điểm a khoản 1 Điều 35, Điều 17, Điều 58 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H 25.000.000 đồng (Hai mươi lăm triệu đồng);
+ Áp dụng khoản 1 Điều 321; các điểm i, s khoản 1 Điều 51; điểm a khoản 1 Điều 35; Điều 17; Điều 58 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Đinh Văn Ph 25.000.000 đồng(Hai mươi lăm triệu đồng);
+ Áp dụng khoản 1 Điều 321; các điểm i, s khoản 1 Điều 51; điểm a khoản 1 Điều 35; Điều 17; Điều 58 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Điệp Văn X 25.000.000 đồng (Hai mươi lăm triệu đồng);
+Áp dụng khoản 1 Điều 321; các điểm i, s khoản 1 Điều 51; điểm a khoản 1 Điều 35; Điều 17; Điều 58 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Cù Văn Đ 25.000.000 đồng (Hai mươi lăm triệu đồng).
+ Áp dụng khoản 1 Điều 321; các điểm i, s, o, v, x khoản 1 Điều 51; điểm a khoản 1, khoản 3 Điều 35; khoản 3 Điều 54; Điều 17; Điều 58 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo La Văn B 10.000.000 đồng (Mười triệu đồng).
3. Về xử lý vật chứng: áp dụng các điểm a, b khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; các điểm a, b, c khoản 2 và điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 2 Điều 228 của Bộ luật Dân sự.
- Tịch thu tiêu hủy 01 chiếc chiếu, 01 chiếc đĩa sứ màu trắng, 01 chiếc bát sứ màu trắng, 01 chiếc kéo, 01 bộ bài tú lơ khơ, 04 quân vị hình tròn;
- Trả lại cho bị cáo Trương Tiến H 02 chiếc điện thoại di động gồm 01 chiếc nhãn hiệu Nokia và 01 chiếc nhãn hiệu Masstel; trả lại cho bị cáo Trần Văn D 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO Reno 8 5G; trả lại cho bị cáo Điệp Văn X 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A8+; trả lại cho bị cáo Vũ Kim T 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO F11; trả lại cho bị cáo Trương Văn T 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu nhãn hiệu OPPO có tên thiết bị JBZ; trả lại cho bị cáo Trương Văn L 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy Z Flip 3 5G; trả lại cho bị cáo Đinh Văn T 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A9 2020; trả lại cho bị cáo Cù Văn Đ 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Honor Play; trả lại cho bị cáo Nguyễn Văn H 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu POCO X3; trả lại cho bị cáo Điệp Văn H 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A02s; trả lại cho bị cáo Đinh Văn Ph 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone XS Max; trả lại cho bị cáo Phùng Văn H 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6; trả lại cho bị cáo Cao Kim H 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone.
(Tình trạng toàn bộ vật chứng trên như biên bản giao nhận vật chứng, tài sản giữa Công an huyện V Đ với Chi cục Thi hành án dân sự huyện V Đ ngày 24/7/2023).
+ Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước số tiền 28.925.000 đồng (Hai mươi tám triệu chín trăm hai mươi lăm nghìn đồng); trả lại cho bị cáo Phùng Văn H 1.340.000 đồng (Một triệu ba trăm bốn mươi nghìn đồng); Giao lại cho cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện V Đ, tỉnh Quảng Ninh số tiền 14.600.000 đồng (Mười bốn triệu sáu trăm nghìn đồng) để xác minh làm rõ chủ sở hữu và xử lý theo quy định của pháp luật. (Toàn bộ số tiền 44.865.000 đồng trên hiện đang tạm gửi tại tài khoản 3949.0.1020779.x của Chi cục Thi hành án Dân sự huyện V Đ, tỉnh Quảng Ninh).
4. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 2 Luật Người cao tuổi; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 qui định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Các bị cáo Trương Văn T, Phùng Văn H, Điệp Văn H, Cao Kim H, Vũ Kim T, Trương Văn L, Trần Văn D, Đinh Văn T, Nguyễn Văn H, Đinh Văn Ph, Cù Văn Đ và Điệp Văn X, mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm. Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho hai bị cáo La Văn B và Trương Tiến H.
5. Về quyền kháng cáo: Căn cứ khoản 1, khoản 4 Điều 331; khoản 1 Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự, các bị cáo Trương Văn T, Trương Tiến H, Điệp Văn H, Cao Kim H, Vũ Kim T, Phùng Văn H, Trương Văn L, Trần Văn D, Đinh Văn T, Nguyễn Văn H, Đinh Văn Ph, Điệp Văn X và Cù Văn Đ và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Trần Thị Th có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (Mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm; bị cáo La Văn B có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (Mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Bản án 42/2023/HS-ST về tội đánh bạc
Số hiệu: | 42/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Vân Đồn - Quảng Ninh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 29/09/2023 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về