Bản án về tội đánh bạc số 42/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN V, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 42/2022/HS-ST NGÀY 27/09/2022 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 27 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Chi cục Thuế khu vực V - Ý Yên, tỉnh Nam Định, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số:

35/2022/TLST-HS ngày 05 tháng 8 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 44/2022/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 9 năm 2022; đối với bị cáo:

Mai Văn T, sinh năm 1969, tại Nam Định.

Nơi ĐKHKTT và cư trú: thôn L, xã H, huyện V, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: Tự do; trình độ văn hóa: 7/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con Mai Văn H và bà Vũ Thị T (Đều đã chết); có vợ là Trần Thị N, sinh năm 1979 và 02 con; tiền án, nhân thân: Không; tiền sự: ngày 11-10-2021 Công an xã H, huyện V, tỉnh Nam Định ra quyết định số 35 xử phạt vi phạm hành chính hình thức phạt tiền 1.500.000đ về hành vi bán bảng đề, ấn phẩm khác cho việc đánh lô, đề.

Bị cáo thực hiện biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” “Có mặt”.

- Người làm chứng:

+ Anh Hoàng Công L “Vắng mặt”.

+ Chị Trần Thị N “Vắng mặt”.

+ Anh Trần Văn T “Vắng mặt”.

- Người chứng kiến: Anh Nguyễn Ngọc Q “Vắng mặt”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 17 giờ ngày 19-5-2022 Hoàng Công L đến quán nước của gia đình Mai Văn T để uống nước. Quá trình uống nước, biết T có bán số lô, số đề nên Lương đã gặp T và hỏi mua của T các số lô, số đề thì T đồng ý. Các số lô, số đề L mua gồm: Số lô 19 bằng 05 điểm, giá mỗi điểm lô là 23.000 đồng; số đề 19 là 50.000 đồng; số đề 91 là 35.000 đồng. Tổng số tiền là 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng). T ghi các số lô, số đề và số điểm, tiền của mỗi số lô, số đề nêu trên và tổng số tiền L mua vào tờ giấy kẻ ngang KT (10,4 x 7,4) cm ở trong quyển sổ nhỏ. Sau đó T xé tờ giấy trên đưa cho L, L nhận tờ giấy và trả cho T số tiền 200.000đ. Các số lô, số đề mà T bán cho L thì T ghi vào 01 quyển sổ kẻ ô ly có bìa màu hồng để tổng hợp, theo dõi. Sau đó T đi ra ngoài đồng để thăm ruộng của gia đình, L vẫn ngồi tại quán của gia đình T để uống nước, tại đây L bị Công an huyện V triệu tập lên làm việc về hành vi mua, bán số lô, số đề trái phép theo đơn tố giác của anh Trần Văn T. Mai Văn T sau đó cũng bị cơ quan CSĐT Công an huyện V triệu tập lên để làm việc.

Tại Cơ quan CSĐT Công an huyện V, Mai Văn T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã nêu trên và giao nộp lại cho cơ quan CSĐT Công an huyện V số tiền 200.000đ mà T đã bán số lô, số đề cho L, 01 chiếc điện thoại di động Sam Sung Galaxy A11 màu đen, bên trong có số thuê bao 0779207279 và số IMEI 1:

353279112507374; số IMEI 2: 353280112507372.

Khám xét khẩn cấp nơi ở của Mai Văn T, cơ quan CSĐT Công an huyện V đã thu giữ: 01 quyển sổ ghi chép kẻ ô ly có kích thước (16,9x24) cm, bìa của quyển sổ màu hồng, trên mặt bìa có ghi “Trường Tiểu Học H”, bên trong có ghi các con số bằng mực màu đen; 01 sổ ghi chép có kích thước (10,4x7,4) cm, bìa của cuốn sổ có màu trắng, trên đầu cuốn sổ có vòng xoắn kim loại sơn màu trắng để lật trang.

Ngày 24-5-2022 Cơ quan CSĐT Công an huyện V có các quyết định số 42, 43 trưng cầu Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định giám định chữ viết, chữ ký; giám định kỹ thuật số và điện tử từ các tài liệu và chiếc điện thoại đã thu giữ.

Tại bản kết luận giám định số 712 ngày 03-6-2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định đã kết luận có nội dung: Không tìm thấy, không phục hồi được dữ liệu liên quan đến việc đánh bạc dưới hình thức chơi số lô, số đề từ tin nhắn Zalo, tin nhắn SMS, tin nhắn Messenger trong chiếc điện thoại của T gửi giám định từ ngày 01-9-2021 đến ngày 19-5-2022.

Tại bản kết luận giám định số 770 ngày 22-6-2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định đã kết luận có nội dung: Chữ viết trên tờ giấy kẻ ngang gửi giám định là do Mai Văn T viết ra. Không đủ cơ sở kết luận chữ ký trên tờ giấy kẻ ngang so với chữ ký đứng tên Mai Văn T có phải do cùng một người ký ra hay không. Trên quyển sổ ghi chép kẻ ô ly gửi giám định có một số trang có chữ viết của Mai Văn T và một số trang có chữ viết của Trần Thị N.

Tại bản Cáo trạng số 37/CT-VKSVB ngày 05-8-2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện V, tỉnh Nam Định truy tố bị cáo Mai Văn T về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

Bị cáo Mai Văn T đã thành khẩn khai nhận về hành vi bán số lô, số để của mình như nội dung đã nêu trên và xin giảm nhẹ hình phạt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện V, tỉnh Nam Định thực hành quyền công tố tại phiên toà giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo và đề nghị:

- Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Mai Văn T phạm tội “Đánh bạc”.

- Về hình phạt: Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, điểm s khoản 1 Điều 51;

khon 2 Điều 51; Điều 36 của Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Mai Văn T 09 đến 12 tháng cải tạo không giam giữ; giao bị cáo Mai Văn T cho Ủy ban nhân dân xã H, huyện V, tỉnh Nam Định giám sát, giáo dục. Miễn khấu trừ một phần thu nhập và miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

- Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

+ Tịch thu và tiêu hủy: 01 (một) tờ giấy; 02 quyển sổ ghi chép kích thước (16,9x24) cm và (10,4x7,4) cm.

+ Tịch thu sung ngân sách Nhà nước số tiền 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng).

- Về án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo phải nộp theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện V, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện V, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan thi hành tố tụng, người thi hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan thi hành tố tụng, người thi hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về chứng cứ và tội danh đối với hành vi của bị cáo: Hành vi phạm tội của bị cáo được chứng minh bằng lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bằng lời khai của người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thu thập trong quá trình điều tra. Nên có đủ căn cứ kết luận:

Khong 17 giờ ngày 19-5-2022 tại gia đình của bị cáo Mai Văn T ở thôn L, xã H, huyện V, tỉnh Nam Định; Mai Văn T đã thực hiện hành vi đánh bạc dưới hình thức bán các số lô, số đề trái phép cho Hoàng Công L, với tổng số tiền 200.000đ ( Hai trăm nghìn đồng). Bản thân T ngày 11-10-2021 đã bị Công an xã H, huyện V, tỉnh Nam Định xử phạt vi phạm hành chính hình thức phạt tiền 1.500.000đ, mặc dù ngày 19-5-2022 số tiền đánh bạc dưới hình thức bán số lô số đề dưới 5.000.000.00đ; nhưng đối chiếu hành vi nêu trên của bị cáo T với những quy định của pháp luật thì hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Đánh bạc”, tội phạm và hình phạt quy định tại khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự.

[3] Về tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm hại đến trật tự công cộng, gây ảnh hưởng xấu tới tình hình trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vì mục đích tư lợi vẫn cố ý thực hiện vì vậy cần xử phạt bị cáo với mức án tương xứng nhằm răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt cũng cần phải xem xét về nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo.

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo có nhân thân tốt; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; trong quá trình điều tra cũng như tại phiên toà bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Ngoài ra bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn, có xác nhận của chính quyền địa phương nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[4] Đường lối xử lý: Căn cứ vào tính chất, mức độ của hành vi phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; Hội đồng xét thấy: Bị cáo có nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng, lần đầu phạm tội, nên không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mà cho bị cáo được cải tạo tại địa phương cũng đủ tác dụng giáo dục, răn đe, cải tạo bị cáo thành người có ích cho gia đình và xã hội. Vì vậy, áp dụng Điều 36 của Bộ luật Hình sự, cho bị cáo chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ là phù hợp; miễn khấu trừ một phần thu nhập và miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo vì lý do nghề nghiệp và thu nhập của bị cáo không ổn định, gia đình bị cáo có hoàn cảnh khó khăn.

[6] Về xử lý vật chứng:

01 (một) tờ giấy; 02 quyển sổ ghi chép kích thước (16,9x24) cm và (10,4x7,4) cm, là công cụ phương tiện phạm tội nên cần tịch thu và tiêu hủy.

Số tiền 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng), đã thu giữ là số tiền sử dụng vào việc đánh bạc, nên tịch thu sung ngân sách Nhà nước.

Quá trình điều tra Cơ quan CSĐT Công an huyện V đã trả lại chiếc điện thoại di động Sam Sung Galaxy A11 màu đen cho Mai Văn T là phù hợp.

[7] Về tư cách tham gia tố tụng:

Đi với hành vi đánh bạc của Hoàng Công L ngày 19-5-2022, do chưa đủ yếu tố cấu thành tội “Đánh bạc”, nên Cơ quan CSĐT Công an huyện V đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính hình thức phạt tiền 350.000đ đối với L là có căn cứ.

Đi với hành vi bán các số lô, số đề trước ngày 19-5-2022 của Mai Văn T, do quá trình điều tra không xác định được vào trước ngày 19-5-2022 T đã bán các số lô, số đề cho ai, vào thời gian nào, được thua bao nhiêu tiền, nên cơ quan CSĐT Công an huyện V không xử lý đối với hành vi trên của T là phù hợp. Đối với chị Trần Thị N (Vợ T) xác định chị N là người làm chứng trong vụ án.

[8] Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ vào Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Bị cáo phải nộp theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm i, điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51; Điều 36 của Bộ luật Hình sự:

Tuyên bố bị cáo Mai Văn T phạm tội “Đánh bạc”.

Xử phạt bị cáo Mai Văn T 09 (chín) tháng cải tạo không giam giữ. Thời hạn cải tạo không giam giữ tính từ ngày Ủy ban nhân dân xã H, huyện V, tỉnh Nam Định nhận được quyết định thi hành án và bản án.

Giao bị cáo Mai Văn T cho Ủy ban nhân dân xã H, huyện V, tỉnh Nam Định giám sát, giáo dục.

Bị cáo Mai Văn T phải thực hiện những nghĩa vụ quy định tại Luật Thi hành án hình sự.

Miễn khấu trừ một phần thu nhập cho bị cáo Mai Văn T.

2. Xử lý vật chứng: Căn cứ vào Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

+ Tịch thu, tiêu hủy:

01 (một) tờ giấy kẻ ngang kích thước (10,4 x 7,4)cm, một mặt có ghi số:

19/5; L19-(5); 19-(50); 91-(35) (200), mặt sau không có chữ số gì.

01 quyển sổ ghi chép ô ly có kích thước (16,9x24)cm, bìa của quyển sổ màu hồng, trên mặt bìa có ghi “Trường Tiểu Học H”, bên trong có ghi các con số bằng mực màu đen.

01 quyển sổ ghi chép có kích thước (10,4x7,4) cm, bìa của quyển sổ có màu trắng, trên đầu cuốn sổ có vong xoắn kim loại sơn màu trắng để lật trang.

+ Tịch thu và sung ngân sách Nhà nước số tiền 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng).

(Vật chứng có đặc điểm như biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 08-8-2022 tại Kho Chi cục Thi hành án dân sự huyện V, tỉnh Nam Định và Ủy nhiệm chi số 05 ngày 08-8-2022).

3. Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Mai Văn T phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng).

Bị cáo Mai Văn T được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật thi hành án dân sự thì bị cáo có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

94
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội đánh bạc số 42/2022/HS-ST

Số hiệu:42/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vụ Bản - Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;