Bản án về tội đánh bạc số 41/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TAM NÔNG, TỈNH ĐỒNG THÁP

BẢN ÁN 41/2022/HS-ST NGÀY 24/09/2022 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 24 tháng 9 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Đồng Tháp xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 43/2022/TLST-HS ngày 31 tháng 8 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:

43/2022/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 9 năm 2022, đối với:

- Bị cáo Trần Văn S, sinh năm 1984; tên gọi khác: Không; nơi sinh: tỉnh Đồng Tháp; nơi cư trú: ấp A, xã P, huyện T, tỉnh Đồng Tháp; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: 05/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Phật giáo Hòa Hảo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn M, sinh năm 1960 và bà Phạm Thị D, sinh năm 1958; có vợ Đinh Thị T, sinh năm 1984 và có 01 người con, sinh năm 2007; tiền án: Không; tiền sự: Ngày 25/10/2021, Công an xã P, huyện T, tỉnh Đồng Tháp xử phạt hành chính 1.500.000 đồng, về hành vi “Đánh bạc” (nộp phạt xong ngày 05/9/2022); tạm giữ: Không; tạm giam: không; Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số: 38/LCĐKNCT, ngày 21 tháng 7 năm 2022 của Công an huyện T.

Bị cáo hiện đang tại ngoại và có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Đinh Văn T, sinh năm 1991, vắng mặt.

Đa chỉ: ấp B, xã P, huyện T, tỉnh Đồng Tháp.

2. Nguyễn Tấn N, sinh năm 1980, vắng mặt.

3. Phạm Trung D, sinh năm 1981, có đơn xin vắng mặt.

Đa chỉ: ấp A, xã P, huyện T, tỉnh Đồng Tháp.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 20 giờ ngày 29/3/2022, trong lúc dự đám tang, Trần Văn S, Phạm Trung D, Nguyễn Tấn N và Đinh Văn T rủ nhau chơi đánh bạc được thua bằng tiền, tại nhà Đinh Thị D thuộc ấp A, xã P. Hình thức chơi đánh bài tiến lên (loại bài tây 52 lá), người tới nhất thắng người thua thứ tư 20.000 đồng, người tới nhì thắng người thua thứ ba 10.000 đồng. Đến khoảng 20 giờ 40 phút cùng ngày, Công an xã P, huyện T bắt quả tang S, D, N, T đang đánh bạc được thua bằng tiền. Tang vật thu giữ tại chiếu bạc 01 bộ bài tây loại 52 lá đã qua sử dụng;

Thu giữ trên người: Trần Văn S tiền Việt Nam 30.000 đồng, dùng vào việc đánh bạc; Phạm Trung D tiền Việt Nam 480.000 đồng, dùng vào việc đánh bạc; Nguyễn Tấn N tiền Việt Nam 240.000 đồng, dùng vào việc đánh bạc; Đinh Văn T tiền Việt Nam 1.200.000 đồng, chứng minh sử dụng đánh bạc 60.000 đồng, số tiền còn lại 1.140.000 đồng không sử dụng đánh bạc, cơ quan điều tra đã trả lại T.

Quá trình điều tra, đã chứng minh được Trần Văn S có tiền sự về hành vi đánh bạc: ngày 25/10/2021, Công an xã A, huyện T xử phạt hành chính 1.500.000 đồng, về hành vi “Đánh bạc”.

Ti Cơ quan điều tra Trần Văn S, Phạm Trung D, Nguyễn Tấn N và Đinh Văn T thừa nhận hành vi đánh bạc ăn thua bằng tiền, đã đánh 4 – 5 ván, bài đánh do Dũng mua, đánh bạc không xâu tiền cho ai. Không có tiền trên chiếu bạc vì tiền bỏ trong túi, khi nào có thắng thua thì lấy tiền ra trao cho người thắng.

Tại Cáo trạng số: 44/CT-VKS-TN ngày 31 tháng 8 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện T đã truy tố bị cáo Trần Văn S phạm tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

- Kiểm sát viên phân tích các tình tiết cấu thành tội phạm và khẳng định cáo trạng đã truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội. Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân bị cáo, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

Đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật Hình sự; tuyên bố bị cáo Trần Văn S, phạm tội “Đánh bạc” mức án từ 09 tháng đến 01 năm tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm.

Tình tiết tăng nặng: Không. Hình phạt bổ sung: Không. Về vật chứng: Giữ nguyên theo Cáo trạng.

- Bị cáo Trần Văn S khai: Thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội “Đánh bạc” như nội dung cáo trạng đã truy tố và luận tội của Kiểm sát viên. Bị cáo không tham gia tranh luận, bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện T, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện T, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục được quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra và phù hợp với các tài liệu chứng cứ sau: Biên bản bắt người phạm tội quả tang ngày 29/3/2022 của Công an xã P, huyện T; Tờ tự khai ngày 29/3/2022 của bị cáo; Lời khai người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, cùng toàn bộ chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa.

Hi đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Ngày 25/10/2021 bị cáo Trần Văn S bị Công an xã P, huyện T xử phạt vi phạm hành chính 1.500.000 đồng về hành vi đánh bạc (nộp phạt xong ngày 05/9/2022). Tiếp tục đến khoảng 20 giờ 40 phút, ngày 29/3/2022, tại nhà Đinh Thị D thuộc ấp A, xã P, Công an xã P, huyện T bắt quả tang bị cáo Trần Văn S cùng Phạm Trung D, Nguyễn Tấn N và Đinh Văn T đánh bạc được thua bằng tiền, số tiền dùng vào mục đích đánh bạc là 810.000đồng.

Tuy số tiền thu giữ dùng mục đích đánh bạc không đủ định lượng để truy cứu trách nhiệm hình sự, nhưng bản thân bị cáo S đã có tiền sự về hành vi đánh bạc, đến ngày 29/3/2022 chưa hết thời hạn được coi là chưa bị xử lý vi phạm hành chính theo quy định tại khoản 1 Điều 7 và Điều 74 của Luật xử phạt vi phạm hành chính nhưng tiếp tục vi phạm. Vì vậy, bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về tội “Đánh bạc” theo quy định của Bộ luật Hình sự đã quy định.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, gây mất ổn định an ninh trật tự ở địa phương, đã trực tiếp xâm phạm đến trật tự công cộng, đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Đánh Bạc” theo khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự mà Viện kiểm sát truy tố bị cáo hoàn toàn đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, mức hình phạt theo điều luật quy định là tiền từ 20.000.000đồng đến 100.000.000đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

[3] Đánh bạc ăn thua bằng tiền là trái phép. Trong thời gian gần đây tệ nạn đánh bạc trái phép nhiều bằng hình thức như: đánh bài, số đề… diễn ra hết sức phức tạp, đang có chiều hướng gia tăng gây ra nhiều hậu quả xấu cho xã hội. Bản thân bị cáo có đủ khả năng nhận thức được điều này nhưng vì thích cờ bạc và lười biếng lao động, cố ý thực hiện hành vi vi phạm pháp luật đã đưa bị cáo đi đến con đường phạm tội nên cần thiết phải áp dụng mức hình phạt tương xứng với nhân thân, tính chất và mức độ hành vi phạm tội của bị cáo.

Tuy nhiên, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên; bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn và là lao động chính nên xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt theo quy định tại điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Tình tiết tăng nặng: Không.

Xét thấy, về ý thức và hành vi của bị cáo không phải đánh bạc chuyên nghiệp ăn thua bằng tiền và số tiền đánh bạc không lớn mà do bị cáo nhất thời đánh bạc vì trong ngày dự đám tang của dượng bị cáo nên dẫn đến phạm tội. Về nhân thân bị cáo có nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ và bị cáo có khả năng tự cải tạo nên không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mà áp dụng hình phạt cho bị cáo hưởng án treo, giáo dục tại địa phương cũng đủ răn đe bị cáo trở thành công dân tốt là phù hợp theo quy định tại Điều 65 của Bộ luật Hình sự.

[4] Hình phạt bổ sung: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa xét thấy bản thân bị cáo làm thuê thu nhập thấp nên không áp dụng.

[5] Về vật chứng của vụ án:

Đi với số tiền thu giữ của Đinh Văn T là 1.140.000đồng. Trong quá trình điều tra, Cơ quan điều tra chứng minh số tiền trên không liên quan đến đánh bạc và đã trả lại cho T nhận lại xong nên không xem xét.

Đi với số tiền thu giữ của Trần Văn S là 30.000 đồng, Phạm Trung D là 480.000 đồng, Nguyễn Tấn N là 240.000 đồng và Đinh Văn T là 60.000 đồng, dùng vào mục đích đánh bạc; 01 bộ bài tây loại 52 lá, đã qua sử dụng. Xét thấy, vật chứng trên là chứng cứ phạm tội của bị cáo nên tịch thu nộp ngân sách Nhà nước tổng số tiền 810.000đồng và tịch thu tiêu hủy 01 bộ bài tây loại 52 lá, đã qua sử dụng là phù hợp theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[6] Đối với Phạm Trung D, Đinh Văn T và Nguyễn Tấn N tham gia đánh bạc ngày 29/3/2022 với bị cáo S, không có tiền án, tiền sự, tiền dùng đánh bạc dưới mức truy cứu trách nhiệm hình sự. Trong quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện T đã chuyển hồ sơ về Công an xã Phú Thành A xử phạt hành chính đối với D, T và N theo quy định nên không xem xét.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. n cứ khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố bị cáo Trần Văn S, phạm tội: “Đánh bạc”.

Xử phạt bị cáo Trần Văn S 09 (chín) tháng tù nhưng cho hưởng án treo.

Thời gian thử thách là 01 (một) năm 06 (sáu) tháng, kể từ ngày tuyên án (ngày 24/9/2022).

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Giao bị cáo Trần Văn S cho Ủy ban nhân dân xã P, huyện T, tỉnh Đồng Tháp để giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp cùng chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.

Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 3 Điều 92 của Luật Thi hành án hình sự năm 2019.

2. Về vật chứng: Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

2.1. Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) bộ bài tây loại 52 lá, đã qua sử dụng .

2.2. Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước: Tiền Việt Nam là 810.000đ (Tám trăm mười nghìn đồng).

(Tất cả vật chứng nêu trên Chi cục Thi hành án dân sự huyện T, tỉnh Đồng Tháp đang quản lý).

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Bị cáo Trần Văn S phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

4. Bị cáo có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

476
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội đánh bạc số 41/2022/HS-ST

Số hiệu:41/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tam Nông - Đồng Tháp
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;