TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN C, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 227/2021/HSST NGÀY 05/11/2021 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC
Ngày 05 tháng 11 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận C, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 228/2021/TLST - HS ngày 11 tháng 10 năm 2021 đối với các bị cáo:
1/ NGUYỄN VĂN K - Sinh năm: 1992. Giới tính: Nam. Đăng ký nhân khẩu thường trú: Đội 9, thôn P, xã Đ, huyện T, tỉnh Hải Dương. Hiện thuê trọ tại: số 8 ngách 25 ngõ 162 X, phường T, quận B, Thành phố Hà Nội; Dân tộc: Kinh. Quốc tịch: Việt Nam. Tôn giáo: không. Nghề nghiệp: Tự do. Trình độ văn hoá: 09/12. Con ông: Nguyễn Văn T; con bà: Ngô Thị P. Tiền án, tiền sự: 01 tiền án. Ngày 20/12/2013 của Toà án nhân dân quận G, thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 06 tháng 20 ngày tù về tội đánh bạc (Trả tự do tại phiên tòa), đã được xoá án. Danh chỉ bản số 258 ngày 21/04/2021 của Công an quận C; Tạm giữ ngày 19/03/2021; thay đổi biện pháp ngăn chặn ngày 24/03/2021. Hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt tại phiên tòa.
2/ NGUYỄN HỮU N - Sinh năm: 1991. Giới tính: Nam. Cư trú tại: Đội 5, thôn E, xã Đ, huyện T, tỉnh Hải Dương. Dân tộc: Kinh. Quốc tịch: Việt Nam. Tôn giáo: không. Nghề nghiệp: Tự do. Trình độ văn hóa: 09/12. Con ông: Nguyễn Hữu Đ; con bà: Trần Thị B; gia đình có 02 con, bị can là con thứ nhất trong gia đình. Tiền án, tiền sự: Không. Danh chỉ bản số 256 ngày 21/04/2021 của Công an quận C; Tạm giữ ngày 19/03/2021; thay đổi biện pháp ngăn chặn ngày 24/03/2021. Hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt tại phiên tòa.
3/ NGÔ VĂN D - Sinh năm: 1995. Giới tính: Nam. Cư trú tại: Đội 4 thôn P, xã Đ, huyện T, tỉnh Hải Dương. Dân tộc: Kinh. Quốc tịch: Việt Nam. Tôn giáo: không Nghề nghiệp: Tự do. Trình độ văn hóa: 09/12. Con ông: Ngô Văn N; con bà: Bùi Thị K; Vợ: Nguyễn Thị H; có 02 con; con lớn 06 tuổi, con nhỏ 04 tuổi. Tiền án, tiền sự:
Không. Danh chỉ bản số 255 ngày 21/04/2021 của Công an quận C; Tạm giữ ngày 19/03/2021; thay đổi biện pháp ngăn chặn ngày 24/03/2021. Hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt tại phiên tòa.
4/ BÙI VĂN Đ - Sinh năm: 1992. Giới tính: Nam. Cư trú tại: Thôn Q, xã Đ, huyện T, tỉnh Hải Dương. Dân tộc: Kinh. Quốc tịch: Việt Nam. Tôn giáo: không. Nghề nghiệp: Tự do. Trình độ văn hóa: 09/12. Con ông: Bùi Văn S; con bà: Lê Thị C; gia đình có 03 con, bị can là con thứ hai trong gia đình. Vợ: Lê Thị V; có 02 con. Lớn 08 tuổi, nhỏ 04 tuổi. Tiền án, tiền sự: Không. Danh chỉ bản số 257 ngày 21/04/2021 của Công an quận C; Tạm giữ ngày 19/03/2021; thay đổi biện pháp ngăn chặn ngày 24/03/2021. Hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Hồi 20 giờ 30 phút ngày 19/03/2021, tại số 70 tổ 3 phường H, quận C, Hà Nội, tổ công tác Phường H - quận C, bắt quả tang Nguyễn Văn K, Bùi Văn Đ, Ngô Văn D và Nguyễn Hữu N đánh bạc với hình thức chơi liêng ăn tiền. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ tang vật gồm: 01 bộ bài tú lơ khơ 52 quân, tổng số tiền chiếu bạc là: 6.150.000 đồng. Ngoài ra còn thu giữ của D: 01 ví da màu đen, 1.100.000 đồng, của N: 01 ví da màu đen, 6.000.000 đồng và đưa các đối tượng về trụ sở để làm rõ.
Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Văn K, Bùi Văn Đ, Ngô Văn D và Nguyễn Hữu N đều khai nhận: Tối ngày 19/03/2021, K, Đ, D và N ăn tối tại phòng trọ chung của Đ với K tại số 70, tổ 3 H, C, Hà Nội. Sau khi ăn tối xong, khoảng 20 giờ cả nhóm cùng đánh bạc được thua bằng tiền hình thức chơi game. Bốn người sử dụng bộ bài tú lơ khơ có sẵn trong phòng trọ chia cho mỗi người 03 quân bài chơi theo luật chơi, mỗi người đặt 50.000 đồng gọi là tiển sàn. Cả nhóm quy định 02 hình thức chơi là “Úp bài” (tức là nhận thua sau khi xem bài) và “Theo” (tức là nếu sau khi chia bài thấy mình có thể đạt điểm cao thì đặt thêm tiền), số tiền không vượt quá 50.000 đồng/01 lần nhập. Ai cũng có thể “Theo” nếu tin tưởng điểm ở bài của mình. Sau khi ngửa bài, nếu bộ 03 lá giống nhau thì gọi là “Sáp” ai có “Sáp” cao hơn người đó thắng, thứ tự bé nhất là 2, cao nhất là A. “Liêng” tức là 03 lá bài có các quân liên tiếp nhau. (như 3,4,5 hay 6,7,8 ... ) “Liêng” cao nhất là Q,K,A và thấp nhất là A,2,3. Khi có cùng “Liêng” thì ai có “Liêng” cao hơn sẽ thắng. Khi có “Liêng” bằng nhau thì sẽ tìm cây có chất cao nhất để so sánh, chất cao nhất lần lượt là rô, cơ, tép, bích. “Ảnh” là khi cả 03 quân bài là quân bài là J,Q,K. Trong đó có 02 quân cùng một hình như JQQ, QQK, KKQ ... nếu chất bằng nhau thi so sánh đến quân bài, thứ tự từ thấp đến cao là J, Q, K. Còn “Điểm” là khi không có “Sáp”, “Liêng” , “Ảnh” thì bắt đầu tính điểm. Lấy tổng điểm của 03 quân bài chia cho 10, số dư sau khi chia là điểm của bài. Điểm cao nhất là 09, thấp nhất là 0. Điểm được tính của các quân tương ứng như sau: Các quân 2,3,4,5,6,7,8,9 tương ứng với các điểm 2,3,4,5,6,7,8,9, quân A tính 01 điểm, các quân 10, J, Q, K được tính 0 điểm. Khi 02 bài bằng điểm nhau thì so sánh quân bài có chất cao nhất, nếu cùng chất thì so sánh quân, quân thấp nhất đến cao nhất lần lượt là 2,3,4,5,6,7,8,9,10,J,Q,K,A. Ai thắng ván bài sẽ được số tiền của những người đã đặt.
Nguyễn Văn K khai: Khi bắt đầu đánh bạc có 2.100.000 đồng, khi bị bắt quả tang đang thắng 450.000 đồng. Nguyễn Hữu N khai: Khi bắt đầu đánh bạc có 8.050.000 đồng, bỏ ra 2.050.000 đồng để đánh bạc, khi bị bắt quả tang thua 750.000 đồng, số tiền 6.000.000 đồng là tiền không sử dụng vào việc đánh bạc. Bùi Văn Đ khai: Khi bắt đầu đánh bạc có 1.500.000 đồng, khi bị bắt quả tang thua 300.000 đồng. Ngô Văn D khai: Khi bắt đầu đánh bạc, D có 500.000 đồng, khi bị bắt quả tang D đang thắng 250.000 đồng, D khai số tiền thu giữ 1.100.000 đồng D sử dụng vào việc đánh bạc.
Ngày 21/5/2021, Cơ quan điều tra ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại cho Nguyễn Hữu N số tiền 6.000.000 đồng.
Tại Bản cáo trạng số 207/CT - VKSCG ngày 20/09/2021, Viện kiểm sát nhân dân quận C đã truy tố các bị cáo Nguyễn Văn K, Nguyễn Hữu N, Ngô Văn D và Bùi Văn Đ đã phạm vào tội đánh bạc theo quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự 2015.
Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận C giữ nguyên Cáo trạng truy tố các bị cáo và đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 321, điểm s khoản 1 Điều 51 và điều 38 Bộ luật Hình sự để xử phạt bị cáo Nguyễn Văn K từ 9 đến 12 tháng tù giam. Áp dụng khoản 1 Điều 321, điểm i, s khoản 1 Điều 51 và điều 65 Bộ luật Hình sự để xử phạt bị cáo Nguyễn Hữu N từ 7 đến 10 tháng tù cho hưởng án treo, hạn thử thách từ 14 đến 20 tháng; các bị cáo Ngô Văn D và Bùi Văn Đ từ 6 đến 9 tháng tù cho hưởng án treo, hạn thử thách từ 12 đến 18 tháng. Tịch thu tiêu hủy các tang vật gồm:
52 quân bài tú lơ khơ; 02 ví da màu đen của bị cáo N; Tịch thu sung công số tiền 7.250.000 đồng.
Các bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà. Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận C, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận C, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.
[2] Về hành vi phạm tội của các bị cáo: Lời khai nhận của Nguyễn Văn K, Nguyễn Hữu N, Ngô Văn D và Bùi Văn Đ tại phiên tòa phù hợp với nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở kết luận: Khoảng 08 giờ 30 phút ngày 19/03/2021, tại số 70 tổ 3 phường H, quận C, Thành phố Hà Nội, Nguyễn Văn K, Nguyễn Hữu N, Ngô Văn D và Bùi Văn Đ có hành vi đánh bạc dưới hình thức ăn tiền với tổng số tiền là 7.250.000 đồng. Hành vi của các bị cáo đã phạm vào tội đánh bạc theo quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự.
[3] Xét tính chất hành vi phạm tội: Xét hành vi của các bị cáo là nguy hiểm đối với xã hội bởi lẽ đã trực tiếp xâm hại đến trật tự công cộng, gây mất trật tự địa phương. Đây là vụ án có đồng phạm giản đơn, mà đóng vai trò cao nhất là bị cáo Nguyễn Văn K, nhân thân từng đã có tiền án cùng về tội đánh bạc, tuy đã được xóa nhưng bị cáo đã không lấy đó làm bài học mà tiếp tục cùng các bị cáo khác chơi bạc ăn tiền tại nơi ở của mình. Vì vậy cần có mức hình phạt cao hơn so với bị cáo khác để giáo dục đối với bị cáo. Đối với các bị cáo còn lại đều có vai trò và mức độ ngang nhau, nên mức hình phạt tương tự.
[4] Tình tiết giảm nhẹ hình phạt và hình phạt bổ sung: Khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử xét việc các bị cáo đã khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải để áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo. Xét các bị cáo N, D, Đ phạm tội lần đầu, nhân thân chưa có tiền án tiền sự, hành vi phạm tội có mức độ, có nơi cư trú rõ ràng nên không áp dụng hình phạt tù cách ly mà cho các bị cáo được cải tạo giáo dục tại địa phương nơi cư trú cũng đủ tác dụng giáo dục.
[5] Về xử lý vật chứng: Tang vật của vụ án là số tiền 7.250.000 đồng các bị cáo sử dụng vào việc phạm tội phải được tịch thu sung công quỹ Nhà nước. Đối với 52 quân bài tú lơ khơ là công cụ các bị cáo sử dụng để đánh bạc và chiếc ví đen thu giữ của Nguyễn Hữu N, cần phải được tịch thu tiêu hủy. Đối với chiếc ví của Ngô Văn D là tài sản hợp pháp của bị cáo, nên được trả lại cho bị cáo.
[6] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
Các bị cáo có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Văn K, Nguyễn Hữu N, Ngô Văn D và Bùi Văn Đ phạm tội đánh bạc.
1/ Áp dụng khoản 1 Điều 321, điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật hình sự;
Xử phạt: NGUYỄN VĂN K 07 (bảy) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ thời hạn tạm giữ từ ngày 19/03/2021 đến ngày 24/03/2021.
2/ Áp dụng khoản 1 Điều 321, điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 65 Bộ luật hình sự; Xử phạt: NGUYỄN HỮU N 06 (sáu) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 12 (mười hai) tháng kể từ ngày tuyên án.
Giao bị cáo cho UBND xã Đ, huyện T, tỉnh Hải Dương giám sát, giáo dục trong thời gian chấp hành án.
Trường hợp Nguyễn Hữu N thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về Thi hành án hình sự. Trong thời gian thử thách, nếu Nguyễn Hữu N cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc Nguyễn Hữu N phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
3/ Áp dụng khoản 1 Điều 321, điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 65 Bộ luật hình sự; Xử phạt: NGÔ VĂN D 06 (sáu) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 12 (mười hai) tháng kể từ ngày tuyên án.
Giao bị cáo cho UBND xã Đ, huyện T, tỉnh Hải Dương giám sát, giáo dục trong thời gian chấp hành án.
Trường hợp Ngô Văn D thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về Thi hành án hình sự. Trong thời gian thử thách, nếu Ngô Văn D cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc Ngô Văn D phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
4/ Áp dụng khoản 1 Điều 321, điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 65 Bộ luật hình sự; Xử phạt: BÙI VĂN Đ 06 (sáu) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 12 (mười hai) tháng kể từ ngày tuyên án.
Giao bị cáo cho UBND xã Đ, huyện T, tỉnh Hải Dương giám sát, giáo dục trong thời gian chấp hành án.
Trường hợp Bùi Văn Đ thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về Thi hành án hình sự. Trong thời gian thử thách, nếu Bùi Văn Đ cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc Bùi Văn Đ phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
5/ Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.
- Tịch thu tiêu hủy 52 quân bài tú lơ khơ và 01 chiếc ví da đen của Nguyễn Hữu N.
- Tịch thu xung công số tiền: 7.250.000 đồng.
- Trả lại 01 ví da đen cho Ngô Văn D.
Vật chứng hiện đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự quận C theo biên bản giao nhận vật chứng số 009/GN/THA-CA ngày 06/10/2021 và Giấy nộp tiền vào tài khoản ngày 06/10/2021.
6/ Áp dụng các Điều 136, Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí.
Mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án
Bản án về tội đánh bạc số 227/2021/HSST
Số hiệu: | 227/2021/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Cầu Giấy - Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 05/11/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về