TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH CÀ MAU
BẢN ÁN 16/2024/HS-PT NGÀY 26/02/2024 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC
Trong ngày 26 tháng 02 năm 2023, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Cà Mau xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 156/2023/TLPT-HS ngày 28 tháng 12 năm 2023 đối với các bị cáo Lê Minh V, Trương Văn S, Dư Đức M, Nguyễn Thanh Nh, Nguyễn Thị H về tội “Đánh bạc” quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự. Do có kháng cáo của bị cáo Lê Minh V đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 28/2023/HS-ST ngày 14-11-2023 của Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Cà Mau.
- Bị cáo có kháng cáo:
Họ và tên: Lê Minh V, sinh năm 1989; Nơi sinh: tỉnh Cà Mau. Nơi cư trú: Ấp Bến Dựa, xã Tam Giang, huyện Năm Căn, tỉnh Cà Mau. Nơi ở hiện tại: Ấp Ba Nhứt, xã Tam Giang Tây, huyện N, tỉnh Cà Mau; Nghề nghiệp: Làm đáy; trình độ văn hoá: 4/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Minh Trí (đã chết) và bà Ngô Thị Vân; có vợ: Phạm Thanh Hiền, sinh năm 1994; con có 02 người lớn nhất sinh năm 2011, nhỏ nhất sinh 2014. Tiền án: 01 tiền án về tội “trộm cắp tài sản”, ngày 18/9/2009 bị Toà án nhân dân huyện N, tỉnh Cà Mau xử phạt 01 năm 6 tháng tù nhưng cho hưởng án treo (trước ngày phạm tội chưa thực hiện xong nghĩa vụ nộp án phí); tiền sự: Không. Bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khởi nơi cư trú từ ngày 11/12/2022 cho đến nay. (Bị cáo có mặt tại phiên toà).
- Ngoài ra còn có 04 (bốn) bị cáo không kháng cáo (không triệu tập): Trương Văn S; Dư Đức Minh, Nguyễn Thanh Nh, Nguyễn Thị H.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 7 giờ 00 phút ngày 17/11/2022, Lê Minh V sau khi đưa con đi học tại trường tiểu học 2 xã Tam Giang Tây thuộc ấp Tân Tạo, xã Tam Giang Tây, huyện N thì đến quán nước của bà Trần Thị Nga (Cách trường khoảng 50m) để uống nước đợi con học xong rước về. Lúc này, V gặp Mai Minh B thì B rủ V đánh bida ăn tiền, V đồng ý và thoả thuận đánh cược thắng, thua một trận bida 5.000.000 đồng. Đánh bida France (phăng), V đánh 01 bi 100 điểm, B đánh 3 bi 70 điểm (V chấp B 3 bi 30 điểm). Khi V và B đánh được hơn 10 điểm thì V mới hỏi những người ngồi xem bên ngoài có ai hùn vào V hay không thì có Trương Văn S hùn 500.000 (năm trăm nghìn) đồng, Dư Đức M hùn 500.000 đồng, Nguyễn Thanh Nh hùn 500.000 đồng và Nguyễn Thị H hùn 200.000 đồng. B nhờ bà Nga chủ quán ra ghi điểm, đánh một lúc thì V là người đủ 100 điểm trước nên V thắng B 5.000.000 đồng. B chung V 2.500.000 đồng do V thiếu B 2.500.000 đồng trước đó, khi nhận 2.500.000 đồng thì V đưa S 500.000 đồng, Minh 500.000 đồng, Nh 500.000 đồng, H 200.000 đồng và V còn lại 800.000 đồng. Sau đó, B tiếp tục rủ V đánh thêm một trận bi da với hình thức, cách đánh như trận bi da ăn tiền vừa chơi xong, số tiền cược ăn thua 5.000.000 đồng, V đồng ý. Sau khi thoả thuận xong thì V tiếp tục hỏi S, Nh, Minh và H có tiếp tục hùn thì Trương Văn S hùn 500.000 đồng, Dư Đức Minh hùn 500.000 đồng, Nguyễn Thanh Nh hùn 500.000 đồng và Nguyễn Thị H hùn 200.000 đồng. Sau khi thoả thuận xong thì B tiếp tục nhờ bà Nga ghi điểm. Đánh một lúc thì V là người ghi đủ 100 điểm trước, B ghi chưa đủ 70 điểm nên trận bi da này V thắng. B không có tiền chung cược cho V nên hai người xảy ra cự cải, sau đó V lấy ra 300.000 đồng trong số tiền 800.000 đồng thắng cược còn lại trả tiền nước, tiền bi da cho bà Nga. Bà Nga thấy V và B cải nhau, sợ có đánh nhau nên trình báo cơ quan chức năng. Tổng số tiền các đối tượng dùng vào đánh bạc mỗi set bida là 5.000.000 đồng. Tổng số tiền đanh bạc 02 ván đánh bida là 10.000.000 đồng. Cơ quan chức năng đã thu giữ 5.000.000 đồng của các đối tượng về việc thu lợi bất chính. Trong đó, Lê Minh V đã nộp số tiền 3.000.000 đồng, Trương Văn S đã nộp số tiền 500.000 đồng, Dư Đức M đã nộp số tiền 500.000 đồng, Nguyễn Thanh Nh đã nộp số tiền 500.000 đồng, Nguyễn Thị H đã nộp số tiền 200.000 đồng, và Trần Thị Nga đã nộp số tiền 300.000 đồng. Hiện nay còn số tiền 5.000.000 đồng dùng vào việc đánh bạc Mai Minh B vẫn chưa nộp cho cơ quan chức năng.
Tại Bản án sơ thẩm Bản án số: 28/2023/HS-ST ngày: 14-11-2023 của Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Cà Mau quyết định:
1. Căn cứ vào khoản 1 Điều 321; khoản 1 Điều 50; điểm s khoản 1 Điều 51;
điểm g, h Điều 52 của Bộ luật Hình sự. Khoản 2 Điều 136; Điều 331; Điều 333 của Bộ luật tố tụng Hình sự: Tuyên bố bị cáo: Lê Minh V phạm tội “Đánh bạc”. Xử phạt bị cáo Lê Minh V 08 (Tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án.
2. Căn cứ vào khoản 1 Điều 321; khoản 1 Điều 50; Điều 36; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g Điều 52 của Bộ luật Hình sự: Tuyên bố bị cáo: Trương Văn S phạm tội “Đánh bạc”. Xử phạt bị cáo Trương Văn S 07 (bảy) tháng tù cải tạo không giam giữ. Thời hạn cãi tạo không giam giữ được tính từ ngày Uỷ ban nhân dân xã Tam Giang Tây, huyện N nhận được bản án, Quyết định thi hành hình phạt cãi tạo không giam giữ đối với bị cáo S. Miễn khấu trừ thu nhập cho bị cáo.
Giao bị cáo Trương Văn S cho Uỷ ban nhân dân xã Tam Giang Tây, huyện N, tỉnh Cà Mau nơi bị cáo cư trú để giám sát, giáo dục. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với Uỷ ban nhân dân xã Tam Giang Tây, huyện N trong việc giám sát, giáo dục. Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 100 của Luật thi hành án hình sự. Trong thời gian chấp hành án, bị cáo phải thực hiện một số nghĩa vụ theo các quy định về cải tạo không giam giữ.
3. Căn cứ vào khoản 1 Điều 321; khoản 1 Điều 50; Điều 36; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g Điều 52 của Bộ luật Hình sự: Tuyên bố bị cáo: Dư Đức M phạm tội “Đánh bạc”. Xử phạt bị cáo Dư Đức M 07 (bảy) tháng tù cải tạo không giam giữ. Thời hạn cải tạo không giam giữ được tính từ ngày Uỷ ban nhân dân xã Tam Giang Tây nhận được bản án, Quyết định thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ đối với bị cáo Minh. Miễn khấu trừ thu nhập cho bị cáo.
Giao bị cáo Dư Đức M cho Uỷ ban nhân dân xã Tam Giang Tây, huyện N, tỉnh Cà Mau nơi bị cáo cư trú để giám sát, giáo dục. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với Uỷ ban nhân dân xã Tam Giang Tây, huyện N trong việc giám sát, giáo dục. Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 100 của Luật thi hành án hình sự. Trong thời gian chấp hành án, bị cáo phải thực hiện một số nghĩa vụ theo các quy định về cải tạo không giam giữ.
4. Căn cứ vào khoản 1 Điều 321; khoản 1 Điều 50; Điều 36; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g Điều 52 của Bộ luật Hình sự: Tuyên bố bị cáo: Nguyễn Thanh Nh phạm tội “Đánh bạc”. Xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh Nh 07 (bảy) tháng tù cải tạo không giam giữ. Thời hạn cải tạo không giam giữ được tính từ ngày Uỷ ban nhân dân xã Tam Giang Tây, huyện N nhận được bản án, Quyết định thi hành hình phạt cãi tạo không giam giữ đối với bị cáo Nh. Miễn khấu trừ thu nhập cho bị cáo.
Giao bị cáo Nguyễn Thanh Nh cho Uỷ ban nhân dân xã Tam Giang Tây, huyện N, tỉnh Cà Mau nơi bị cáo đang sinh sống để giám sát, giáo dục. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với Uỷ ban nhân dân xã Tam Giang Tây, huyện N trong việc giám sát, giáo dục. Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 100 của Luật thi hành án hình sự. Trong thời gian chấp hành án, bị cáo phải thực hiện một số nghĩa vụ theo các quy định về cải tạo không giam giữ.
5. Căn cứ vào khoản 1 Điều 321; khoản 1 Điều 50; Điều 36; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g Điều 52 của Bộ luật Hình sự: Tuyên bố bị cáo: Nguyễn Thị H phạm tội “Đánh bạc”. Xử phạt bị cáo S 06 (sáu) tháng tù cải tạo không giam giữ.
Thời hạn cải tạo không giam giữ được tính từ ngày Uỷ ban nhân dân xã Tam GiangTây, huyện N nhận được bản án, Quyết định thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ đối với bị cáo Nguyễn Thị H. Miễn khấu trừ thu nhập cho bị cáo.
Giao bị cáo Nguyễn Thị H cho Uỷ ban nhân dân xã Tam Giang Tây, huyện N, tỉnh Cà Mau nơi bị cáo cư trú để giám sát, giáo dục. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với Uỷ ban nhân dân xã Tam Giang Tây, huyện N trong việc giám sát, giáo dục. Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 100 của Luật thi hành án hình sự. Trong thời gian chấp hành án, bị cáo phải thực hiện một số nghĩa vụ theo các quy định về cải tạo không giam giữ.
Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về thu lợi bất chính và quyền kháng cáo theo luật định.
Ngày 28/11/2023, bị cáo Lê Minh V kháng cáo xin hưởng án treo.
* Tại phiên tòa phúc thẩm:
- Bị cáo Lê Minh V giữ nguyên yêu cầu kháng cáo xin hưởng án treo.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau tham gia phiên tòa phát biểu:
Đề nghị áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo; giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số: 28/2023/HS-ST ngày 14 tháng 11 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Cà Mau.
- Lời nói sau cùng của các bị cáo: Xin được chấp nhận kháng cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: Do các bị cáo Trương Văn S, Dư Đức M, Nguyễn Thanh Nh, Nguyễn Thị H không có kháng cáo; Viện kiểm sát sát không kháng nghị, nên án sơ thẩm có hiệu lực thi hành đối với nội dung không có kháng cáo, không kháng nghị.
[2] Về tội danh: Quá trình điều tra, xét xử sơ thẩm các bị cáo đều khai nhận phù hợp với chứng cứng có tại hồ sơ, do đó có đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 7 giờ ngày 17/11/2022 bị cáo Mai Minh B và bị cáo Lê Minh V đánh Bida France (phăng) ăn tiền với nhau. Trong quá trình chơi đánh bida bị cáo V có kêu ai hùn tiền vào đánh không thì bị cáo Trương Văn S, Dư Đức M, Nguyễn Thanh Nh, Nguyễn Thị H hùn tiền vào cùng với V để đánh bida tại ấp Tân Tạo, xã Tam Giang Tây cụ thể: Ván bi da thứ nhất bị cáo V là người trực tiếp đánh bida với số tiền 3.300.000 đồng; bị cáo S, Minh, Nh hùn mỗi người 500.000 đồng, bị cáo H hùng 200.000 đồng. Ván bi da này V thắng B. Ván bi da thứ hai: V là người trực tiếp đánh bi da với số tiền 3.300.000 đồng; bị cáo S, Minh, Nh hùng mỗi người 500.000 đồng, bị cáo H hùng 200.000 đồng. Ván bida này V tiếp tục thắng B. Tổng số tiền đanh bạc 02 ván đánh bida là 10.000.000 đồng.
Bản án sơ thẩm tuyên xử các bị cáo cáo Lê Minh V, Trương Văn S, Dư Đức Minh, Nguyễn Thanh Nh, Nguyễn Thị H về tội “Đánh bạc” quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự là có căn cứ.
[3] Xét kháng cáo xin hưởng án treo của bị cáo Lê Minh V, thấy rằng: Khi lượng hình, Bản án sơ thẩm đã áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự gồm bị cáo V thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải (quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự). Tuy nhiên, bị cáo V phạm tội thuộc trường hợp phạm tội 02 lần trở lên, tái phạm theo điểm g, h Điều 52 Bộ luật hình sự. Từ đó, Bản án sơ thẩm đã tuyên xử bị cáo 08 tháng tù là có cân nhắc đầy đủ các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ và đã khoan hồng cho bị cáo. Bị cáo V kháng cáo có cung cấp các xác nhận hoàn cảnh khó khăn, lao động chính và đã nộp xong số tiền án phí 200.000 đồng vào ngày 14.12.2023 (do nộp sau ngày phạm tội), nên bị cáo V không được xem là trường hợp không có án tích (khoản 2 Điều 73 Bộ luật Hình sự). Đồng thời, do bị cáo V không đủ điều kiện áp dụng án treo theo Điều 65 Bộ luật hình sự (do tình tiết tăng nặng nhiều hơn tình tiết giảm nhẹ). Từ đó, không chấp nhận kháng cáo xin hưởng án treo của bị cáo V; giữ nguyên Bản án sơ thẩm theo ý kiến đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau là phù hợp.
[4] Về án phí phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận, nên bị cáo Lê Minh V phải chịu theo luật định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g, h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự; điểm b khoản Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.
Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Lê Minh V. Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số: 28/2023/HS-ST ngày 14-11-2023 của Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Cà Mau.
1. Xử phạt bị cáo: Lê Minh V 08 (Tám) tháng tù về tội “Đánh bạc”. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án.
2. Án phí phúc thẩm: Bị cáo Lê Minh V phải chịu 200.000 đồng.
3. Các phần khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội đánh bạc số 16/2024/HS-PT
Số hiệu: | 16/2024/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Cà Mau |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 26/02/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về