Bản án về tội đánh bạc số 16/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NÀ HANG, TỈNH TUYÊN QUANG

BẢN ÁN 16/2022/HS-ST NGÀY 23/06/2022 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 23 tháng 6 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Na Hang, tỉnh Tuyên Quang, Tòa án nhân dân huyện Na Hang tiến hành xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 11/2022/TLST-HS, ngày 25 tháng 3 năm 2022 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 14/2022/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 4 năm 2022 đối với bị cáo:

Ma Văn T, sinh ngày 03/10/1988; nơi sinh: huyện N, tỉnh Tuyên Quang; nơi cư trú: Thôn B, xã Y, huyện N, tỉnh Tuyên Quang; nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Tày; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Đảng, đoàn thể: Không; Con ông: Ma Văn C và bà Nông Thị Đ; Vợ, con: Chưa có; Tiền án: Không; Tiền sự: Ngày 15/12/2020 có hành vi đánh bạc bị Công an xã Yên Hoa, huyện Na Hang xử phạt vi phạm hành chính 1.000.000 đồng tại Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 21/QĐ-XPHC ngày 31/12/2020 - Chưa chấp hành Bị cáo hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt tại phiên tòa.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Hoàng Văn Đ, sinh năm 1976; Địa chỉ: Thôn B, xã Y, huyện N, tỉnh Tuyên Quang ( Vắng mặt lần 2 không có lý do).

2. Bế Văn T1, sinh năm 1993; Địa chỉ: Thôn N, xã Y, huyện N, tỉnh Tuyên Quang ( Vắng mặt- có đơn xin xét xử vắng mặt)

3. Hoàng Văn C, sinh năm 1993; Địa chỉ: Thôn L, xã S, huyện N, tỉnh Tuyên Quang ( Vắng mặt- có đơn xin xét xử vắng mặt)

4. Hoàng Văn Q, sinh năm 1990; Địa chỉ: Thôn B, xã Y, huyện N, tỉnh Tuyên Quang ( Vắng mặt- có đơn xin xét xử vắng mặt)

5. Nguyễn Văn P, sinh năm 1994; Địa chỉ: Thôn B, xã Y, huyện N, tỉnh Tuyên Quang ( Vắng mặt- có đơn xin xét xử vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 17 giờ 30 phút, ngày 02/01/2022, Ma Văn T, sinh năm 1988, trú tại thôn B, xã Y, huyện Ng (đã có 01 tiền sự về hành vi đánh bạc) một mình đến quán bi a của Hoàng Văn Đ, sinh năm 1976 trú cùng thôn chơi. Đến nơi, T thấy Bế Văn T1, sinh năm 1993; Hoàng Văn C, sinh năm 1993 đều trú tại thôn N, xã Y, huyện N; Hoàng Văn Q, sinh năm 1990, trú cùng thôn đang chơi bi a với nhau nên T đứng xem. Khoảng 05 phút sau, Nguyễn Văn P, sinh năm 1994, trú tại thôn B, xã Y, huyện N đi đến. Lúc này, Công rủ T, T1, Q, P đánh bạc bằng hình thức chơi bi a cá cược thắng, thua bằng tiền, tất cả đều đồng ý và thống nhất cách thức chơi cụ thể như sau:

Sử dụng bộ bài tú lơ khơ chia cho 05 người chơi mỗi người 05 lá bài, điểm trên mỗi lá bài tương ứng với số điểm trên bóng bi a (ví dụ lá bài A tương ứng với bóng bi a số 1; lá bài J, Q, K tương ứng bóng bi a số 11, 12, 13). Người nào đánh hết số bóng bi a tương ứng với các lá bài mà mình đã được chia là người thắng hoặc nếu ai đánh “bi cái”, bóng bi a mà mình không có xuống lỗ bàn là thua. Người thắng nhận từ 04 người thua còn lại mỗi người 10.000 đồng. Bị cáo và những người nêu trên đánh bạc đến 18 giờ 30 phút cùng ngày thì bị Công an xã Yên Hoa, huyện Na Hang kiểm tra phát hiện. Quá trình làm việc đã thu giữ của Ma Văn T 341.000 đồng; Nguyễn Văn P 500.000 đồng; Hoàng Văn C 54.000 đồng; Bế Văn T1 40.000 đồng; Hoàng Văn Q 527.000 đồng; 01 bộ bài tú lơ khơ 52 quân, 14 quả bóng bi a, 02 gậy gỗ đánh bi a.

Về số tiền Ma Văn T và các đối tượng sử dụng vào việc đánh bạc cụ thể như sau:

- Ma Văn T sử dụng 341.000 đồng để đánh bạc;

- Hoàng Văn Q sử dụng 407.000 đồng để đánh bạc;

- Bế Văn T1 sử dụng 160.000 đồng để đánh bạc;

- Hoàng Văn C sử dụng 54.000 đồng để đánh bạc.

- Nguyễn Văn P sử dụng 500.000 đồng để đánh bạc.

Tổng số tiền bị cáo và các đối tượng sử dụng vào việc đánh bạc là 1.462.000 đồng.

Trước Cơ quan Cảnh sát điều tra, bị cáo Ma Văn T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Hành vi phạm tội của bị cáo còn được chứng minh bằng các tài liệu, chứng cứ khác đã thu thập có trong hồ sơ vụ án.

Cáo trạng số: 12/CT-VKSNH ngày 24/3/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Na Hang truy tố bị cáo Ma Văn T về tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 của Bộ luật hình sự.

Kết thúc phần xét hỏi, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Na Hang luận tội và đề nghị: Tuyên bố Ma Văn T phạm tội “Đánh bạc”.

Về hình phạt chính: Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật hình sự. Xử phạt Ma Văn T từ 07 tháng đến 10 tháng tù nhưng cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách theo quy định.

Về hình phạt bổ sung: Do gia đình bị cáo thuộc hộ nghèo nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy: (01) bộ bài tú lơ khơ (52) lá bài; (02) gậy gỗ đánh bi-a; (14) bóng bi-a .

- Tịch thu sung quỹ nhà nước số tiền 1.462.000 đồng bị cáo và các đối tượng sử dụng vào việc phạm tội và thu lời bất chính (cụ thể: Ma Văn T 341.000 đồng, Hoàng Văn Q 527.000 đồng, Bế Văn T1 40.000 đồng, Hoàng Văn C 54.000 đồng, Nguyễn Văn P 500.000 đồng) Ngoài ra đề nghị buộc bị cáo phải chịu án phí và tuyên quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận với luận tội của Viện kiểm sát.

Những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Hoàng Văn Đ vắng mặt không có lý do; Bế Văn T1, Hoàng Văn C, Hoàng Văn Q, Nguyễn Văn P đều vắng mặt tại phiên tòa và có đơn xin xét xử vắng mặt với nội dung giữ nguyên lời khai tại giai đoạn điều tra, không sửa đổi bổ sung lời khai hay có yêu cầu gì khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung của vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, lời khai của bị cáo, lời khai của những người tham gia tố tụng khác có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về xem xét hành vi của bị cáo: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra; biên bản vi phạm hành chính, vật chứng; lời khai của những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Từ những chứng cứ trên có đủ cơ sở kết luận: Trong khoảng thời gian từ 17 giờ 30 phút đến 18 giờ 30 phút, ngày 02/01/2022, tại nhà ở của Hoàng Văn Đ, trú tại thôn B, xã Y, huyện N, tỉnh Tuyên Quang, Ma Văn T (có 01 tiền sự về hành vi đánh bạc) có hành vi đánh bạc trái phép bằng hình thức đánh bi a cá cược thắng, thua bằng tiền cùng với các đối tượng Bế Văn T1; Hoàng Văn C; Hoàng Văn Q; Nguyễn Văn P với tổng số tiền sử dụng vào mục đích đánh bạc là 1.462.000 đồng (Một triệu bốn trăm sáu mươi hai nghìn đồng), trong đó Ma Văn T sử dụng 341.000 đồng để đánh bạc.

Xét thấy, tuy số tiền quy kết đối với bị cáo dưới 5.000.000 đồng nhưng bị cáo đã có 01 tiền sự về hành vi đánh bạc. Ngày 15/12/2020 bị Công an xã Yên Hoa ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính, nhưng bị cáo chưa chấp hành nên hành vi phạm tội đánh bạc lần này của bị cáo đã đầy đủ yếu tố cấu thành tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 của Bộ luật hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Na Hang truy tố đối với bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

[2]. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội xâm phạm đến trật tự công cộng, gây mất ổn định an ninh trật tự tại địa phương. Bản thân bị cáo là người có đủ năng lực nhận thức, bị cáo biết hành vi đánh bạc là vi phạm pháp luật, bị cáo đã từng bị xử lý hành chính về hành vi đánh bạc nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học tu dưỡng bản thân mà tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý nên trong vụ án này cần xử phạt bị cáo mức án nghiêm minh, tương xứng với mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo mới có tác dụng giáo dục, cải tạo bị cáo thành người công dân có ích cho xã hội.

[3]. Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại giai đoạn điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai báo thành khẩn, tỏ ra ăn năn hối cải, bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; bị cáo là người dân tộc thiểu số cư vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i, s, khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[4] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, không có tình tiết tăng nặng, bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, bị cáo có nơi cư trú ổn định, rõ ràng. Tình tiết đã bị xử phạt vi phạm hành chính làm tình tiết định tội, nên không cần thiết cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội, xử phạt bị cáo hình phạt tù và cho bị cáo được hưởng án treo cũng đủ giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung như đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa là phù hợp có căn cứ.

[5]. Về hình phạt bổ sung: Bị cáo thuộc hộ nghèo, không có tài sản gì có giá trị nên không phạt tiền đối với bị cáo.

[6]. Về vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy: (01) bộ bài tú lơ khơ (52) lá bài; (02) gậy gỗ đánh bi-a; (14) bóng bi-a.

- Tịch thu sung quỹ nhà nước số tiền 1.462.000 đồng bị cáo và các đối tượng sử dụng vào việc phạm tội cụ thể: Ma Văn T 341.000 đồng; Hoàng Văn C 54.000 đồng; Nguyễn Văn P 500.000 đồng; Hoàng Văn Q 527.000 đồng (trong đó có 120.000 đồng thắng bạc); Bế Văn T1 sử dụng 160.000 đồng để đánh bạc nhưng thua 120.000 đồng, nên tịch thu của Bế Văn T1 40.000 đồng.

[7]. Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử:

Qua xem xét, nghiên cứu hồ sơ và diễn biến tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định: Quá trình điều tra và truy tố, xét xử, Điều tra viên, Kiểm sát viên đã tuân thủ đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự và các văn bản pháp luật có liên quan. Khởi tố, điều tra, thu thập chứng cứ, truy tố đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật. Các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử là hợp pháp.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[8]. Về các vấn đề khác: Đối với hành vi Đánh bạc của Bế Văn T1, Hoàng Văn C; Hoàng Văn Q; Nguyễn Văn P. Quá trình điều tra xác định những người này chưa có tiền án, tiền sự về hành vi đánh bạc, tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc. Số tiền sử dụng đánh bạc chưa đủ định lượng để truy cứu trách nhiệm hình sự, vì vậy Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Na Hang đã đề nghị Công an huyện Na Hang xử lý vi phạm hành chính theo quy định.

Đối với Hoàng Văn Đ, khi Ma Văn T, Bế Văn T1, Hoàng Văn C; Hoàng Văn Q, Nguyễn Văn P cùng nhau đánh bạc, Đông không có nhà và không biết việc T cùng các đối tượng đánh bạc nên không xem xét xử lý.

[9]. Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Ma Văn T phạm tội Đánh bạc.

2. Về hình phạt: Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Ma Văn T 07 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 14 tháng, thời hạn thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm 23/6/2022.

Giao bị cáo Ma Văn T cho Ủy ban nhân dân xã Yên Hoa, huyện Na Hang, tỉnh Tuyên Quang giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách theo quy định của Luật thi hành án hình sự.

Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của luật về Thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Toà án có thể quyết định hoặc buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hành phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

3. Về vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy: (01) bộ bài tú lơ khơ (52) lá bài; (02) gậy gỗ đánh bi-a; (14) bóng bi- a (Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an huyện Na Hang và Chi cục thi hành án dân sự huyện Na Hang lập ngày 30/3/2022) - Tịch thu sung quỹ nhà nước số tiền 1.462.000 đồng của bị cáo và các đối tượng sử dụng vào việc đánh bạc (cụ thể: Ma Văn T 341.000 đồng, Hoàng Văn Q 527.000 đồng, Bế Văn T1 40.000 đồng, Hoàng Văn C 54.000 đồng, Nguyễn Văn P 500.000 đồng) Số tiền trên hiện đang gửi tại tài khoản tạm giữ số 3949.0.1065086.00000 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Na Hang, tỉnh Tuyên Quang, mở tại Kho bạc nhà nước huyện Na Hang, tỉnh Tuyên Quang.

4. Về án phí: Căn cứ Điều 135, 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/ UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Bị cáo Ma Văn T phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Căn cứ các Điều 331, 333 của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm; những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết công khai.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

153
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội đánh bạc số 16/2022/HS-ST

Số hiệu:16/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nà Hang - Tuyên Quang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;