Bản án về tội đánh bạc số 148/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN G – THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 148/2021/HS-ST NGÀY18/11/2021 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 18 tháng 11 năm 2021, tại Tòa án nhân dân quận G, Thành phố Hồ Chí Minh mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 177/2021/TLST-HS ngày 28 tháng 10 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 223/2021/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 11 năm 2021 đối với bị cáo:

Hoàng Trọng Minh H, sinh năm: 1981, tại: Đồng Nai; hộ khẩu thường trú: 432/16M2 đường L, Phường M, quận G, TP. Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa: 09/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông H Văn T và bà Nguyễn Thị K; Có vợ Ngô Thị Bảo T, sinh năm 1987 và có 01 con chung sinh năm 2012; tiền sự: không; tiền án: không; tạm giữ: ngày 07/5/2021 đến ngày 12/5/2021, bị cáo tại ngoại; (Có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 15 giờ 45 ngày 7/5/2021, Lực lượng trinh sát Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội kết hợp với Công an Phường M, quận G tiến hành kiểm tra phát hiện Hoàng Trọng Minh H đang đánh bạc thắng thua bằng tiền (dưới hình thức ghi số đề) với Võ Tuấn A tại địa chỉ: 228/1 đường H, Phường M, quận G. Thu giữ của Tuấn A 1 tờ phơi đề có ghi số tiền là 1.728.000 đồng. Đồng thời thu giữ 09 tờ phơi đề khác, số tiền thể hiện trên phơi 5.770.000 đồng nên tiến hành thu giữ vật chứng, đưa H về trụ sở Công an phường lập biên bản phạm tội quả tang.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận G, bị cáo Hoàng Trọng Minh H thừa nhận toàn bộ hành vi của bản thân và khai nhận cụ thể như sau: Vào khoảng đầu tháng 4/2021, bị cáo được một người phụ nữ tên D (chưa rõ lai lịch) sử dụng số điện thoại 0933985463 kêu bị cáo về giúp cho D hoạt động mua bán số đề với tiền công là 5.000.000đ/tháng. D giao cho bị cáo nhiệm vụ vào đầu giờ chiều hàng ngày đến căn nhà ở địa chỉ: 2228/1 đường H, Phường M, quận G để trực tiếp bán số đề cho các con bạc, khi có con bạc đến mua số đề dựa theo kết quả xổ số kiến thiết của các tỉnh miền Nam xổ vào lúc 16 giờ 15 phút và miền Bắc xổ vào lúc 18 giờ 15 phút thì bị cáo lấy một tờ phơi đề có 02 liên ghi rõ việc con bạc mua số đề, 01 liên bị cáo giữ còn 01 liên đưa cho con bạc để đối chiếu kết quả xổ số để tính thắng thua. Hàng ngày trước khi có kết quả sổ xố bị cáo sẽ tổng kết phơi đề giao lại cho D, sau khi có kết quả xổ số nếu có con bạc thắng đề thì sẽ quay lại gặp bị cáo để tính tiền thắng thua, nếu bị cáo không đủ tiền thì bị cáo sẽ báo cho D mang tiền tới để chung chi cho con bạc. Bị cáo mới thực hiện ghi đề nên chưa được nhận tiền công từ D, chưa hưởng lợi gì.

Võ Tuấn A khai nhận: Vào khoảng hơn 15 giờ 30 cùng ngày, Tuấn A đến gặp Hoàng Trọng Minh H ở địa chỉ 228/1 đường H, Phường M, quận G để mua số đề gồm các số 39; 68 đá 5.000 đồng, bao lô 50.000 đồng dựa theo kết quả xổ số kiến thiết của hai đài Bình Dương và Vĩnh Long với số tiền 1.728.000 đồng. Khi H đang nhận tiền và giao tờ phơi đề cho Tuấn A thì bị Công an bắt giữ. Thời điểm bị phát hiện thì chưa tới giờ mở thưởng. Qua xác minh, Võ Tuấn A chưa có tiền án, tiền sự và tham gia mua số đề với số tiền 1.728.000 đồng nên chưa đủ định lượng để xử lý hình sự về tội đánh bạc. Cơ quan điều tra đã chuyển hồ sơ để xử phạt vi phạm hành chính đối với Võ Tuấn A theo quy định của pháp luật.

Khi bắt giữ H, Công an tạm giữ số tiền 7.598.000 đồng, trong đó có 5.770.000 đồng là tiền H bán số đề cho 10 con bạc trong ngày 7/5/2021 và 1.728.000 đồng là tiền H bán số đề cho Tuấn A, còn 100.000 đồng là tiền lẻ đối tượng H dùng để mua bán số đề.

Đối với đối tượng tên D, Cơ quan điều tra đã đưa H đi xác định nơi ở của D tại nhà số 119/18 Đường B, Phường V, quận G. Qua xác minh căn nhà trên do Nguyễn Thị Ti, sinh năm 1982 làm chủ sở hữu. Qua truy xét xác định đối tượng D tên thật là Trần Chánh Tư D, sinh năm 1969, thường trú tại 198/14 đường M, phường T, thành phố T, TP.HCM. Kết quả xác minh tại Công an phường T, thành phố T, TP.HCM, hiện D không có mặt tại địa phương, không rõ đi đâu. Cơ quan điều tra đã tiến hành cho Nguyễn Thị T và Hoàng Trọng Minh H nhận dạng Trần Chánh Tư D, kết quả chị T xác định D là người đã thuê nhà của chị tại địa chỉ 119/18 Đường B, Phường B, quận G, H xác định D là người thuê H ghi số đề và cuối ngày giao lại cho D. Cơ quan điều tra đã ra thông báo truy tìm, khi nào xác định được sẽ tiếp tục điều tra xử lý sau.

Đối với căn nhà tại địa chỉ 228/1 đường H, Phường M, quận G qua xác minh do bà Phạm Thị L, sinh năm 1955 đứng tên chủ hộ nhưng hiện bà L không có mặt tại địa phương, không rõ đi đâu. Bị cáo H khai căn nhà trên do đối tượng D thuê lại, việc thuê nhà cụ thể thế nào bị cáo không rõ. Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh làm rõ việc bà L cho D thuê nhà như thế nào, khi nào xác minh làm rõ được sẽ xử lý sau.

Vật chứng thu giữ:

- Tiền Việt Nam là 7.598.000 đồng.

- 11 tờ phơi đề (gồm 10 tờ phơi đề thu tại chỗ ngồi của Hoàng Trọng Minh H và 01 tờ phơi đề thu giữ của Võ Tuấn A).

- 03 cùi phơi đề đã qua sử dụng, 01 cây bút bi, 01 máy tính hiệu Casio (H sử dụng để ghi số đề và cộng tiền).

- 01 điện thoại di động hiệu Samsung A21S (H sử dụng liên lạc với đối tượng tên D).

Cơ quan điều tra đã nhập kho vật chứng: 7.598.000 đồng; 01 máy tính casio; 01 cây bút bi; 03 cùi phơi đề; 01 điện thoại di động hiệu Samsung A21S theo phiếu nhập kho vật chứng số: 119/PNK ngày 8/9/2021.

Tại bản cáo trạng số 175/CT-VKS ngày 21/10/2021 của Viện kiểm sát nhân dân quận G đã truy tố Hoàng Trọng Minh H về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên toà Đại diện viện kiểm sát sau khi luận tội và đưa ra quan điểm xét xử đã đề nghị:

Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 65 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017;

- Xử phạt bị cáo 9 tháng đến 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 18 tháng đến 24 tháng.

Về hình phạt bổ sung miễn phạt cho bị cáo.

Áp dụng Điều 46; Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017; khoản 1, điểm a, b, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

- Tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 7.598.000 đồng dùng để đánh bạc.

- Tịch thu và tiêu hủy 03 cùi phơi đề đã qua sử dụng, 01 cây bút bi.

- Tịch thu sung quỹ nhà nước 01 máy tính hiệu Casio, 01 điện thoại di động hiệu Samsung A21S.

- Tịch thu lưu theo hồ sơ vụ án 11 tờ phơi đề.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên toà hôm nay, sau khi Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận G công bố bản cáo trạng thì Hoàng Trọng Minh H đã thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng đã nêu.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo hoàn toàn phù hợp với tang vật đã được thu giữ, phù hợp với kết luận điều tra của Công an quận G, với bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận G và với các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát trong quá trình Điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng.

Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy có đủ cơ sở pháp lý để cho rằng hành vi của bị cáo Hoàng Trọng Minh H đã phạm vào tội “Đánh bạc” tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 321 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017.

[3] Hành vi đánh bạc của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Bởi lẽ, nó là một trong những tệ nạn xã hội mà Nhà nước nghiêm cấm, hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến trật tự công cộng, chính từ việc đánh bạc sẽ dẫn đến việc gia tăng các tệ nạn xã hội, là một trong những nguyên nhân chính làm phát sinh nhiều tội phạm khác…đồng thời còn gây ảnh hưởng đến tình hình trật tự trị an ở địa phương. Do đó, việc xử lý bằng biện pháp hình sự đối với bị cáo là hết sức cần thiết và đúng quy định của pháp luật.

[4] Tuy nhiên, khi lượng hình cũng cần xem xét một số tình tiết: Bị cáo phạm tội lần đầu, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, tại phiên tòa bị cáo đã thật thà khai báo, thành khẩn nhận tội và tỏ ra ăn năn hối cải, gia đình bị cáo thuộc thành phần lao động nghèo, thời gian được cho tại ngoại đến nay các bị cáo không có hành vi vi phạm pháp luật nào khác, để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo. Đồng thời qua đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân quận G cho bị cáo được hưởng án treo, Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo có nơi cư trú ổn định ,việc cho bị cáo được hưởng mức án có thời gian thử thách không gây nguy hiểm cho xã hội, phù hợp Điều 65 của Bộ luật Hình sự cũng như thể hiện tính nhân đạo của pháp luật nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đối với người mới phạm tội biết ăn năn hối cải.

[5] Về hình phạt bổ sung quy định tại khoản 3 Điều 321 của Bộ luật Hình sự, Hội đồng xét xử xét tính chất vụ án và hoàn cảnh của bị cáo nên quyết định miễn phạt bổ sung cho bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng vụ án:

- Đối với số tiền 7.598.000 đồng thu giữ là tiền bị cáo dùng để đánh bạc, Hội đồng xét xử quyết định tịch thu sung quỹ Nhà nước.

- Đối với 03 cùi giấy ghi đề, 01 cây bút bi bị cáo dùng để ghi đề, không còn giá trị sử dụng, Hội đồng xét xử quyết định tịch thu và tiêu hủy.

- Đối với 01 máy tính hiệu Casio bị cáo sử dụng để ghi số đề và cộng tiền, 01 điện thoại di động hiệu Samsung A21S bị cáo sử dụng liên lạc với đối tượng tên D để ghi số đề, Hội đồng xét xử quyết định tịch thu, sung quỹ Nhà nước.

- Tịch thu lưu hồ sơ vụ án 11 tờ phơi đề.

[7] Đối với Võ Tuấn A chưa có tiền án, tiền sự và tham gia mua số đề với số tiền 1.728.000đ nên chưa đủ định lượng để xử lý hình sự về tội đánh bạc. Cơ quan điều tra đã chuyển hồ sơ để xử phạt vi phạm hành chính đối với Võ Tuấn A là đúng quy định của pháp luật.

Đối với đối tượng tên Trần Chánh Tư D, Cơ quan điều tra đã ra thông báo truy tìm, khi nào xác định được sẽ tiếp tục điều tra xử lý sau.

Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh làm rõ việc bà Phạm Thị L cho Trần Chánh Tư D thuê nhà, khi nào xác minh làm rõ được, có căn cứ sẽ xử lý sau. [8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Hoàng Trọng Minh H phạm tội “Đánh bạc”.

Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017;

Xử phạt bị cáo Hoàng Trọng Minh H 9 (chín) tháng tù. Nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 01 (một) năm 6 (sáu) tháng tính kể từ ngày tuyên án.

Giao bị cáo Hoàng Trọng Minh H cho Ủy ban nhân dân Phường 15, quận G, TP. Hồ Chí Minh giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách.

Trong trường hợp các bị cáo được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 3 Điều 92 Luật Thi hành án hình sự năm 2019.

Trong thời gian thử thách nếu cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể ra quyết định buộc các bị cáo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Căn cứ Điều 46; Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017; khoản 1, điểm a, b, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

- Tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 7.598.000đ (Bảy triệu năm trăm chín mươi tám nghìn đồng).

- Tịch thu và tiêu hủy 03 cùi giấy ghi đề, 01 cây bút bi.

- Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 máy tính hiệu Casio, 01 điện thoại di động hiệu Samsung A21S màu xanh, số IMEI: 351662614927541.

- Tịch thu lưu theo hồ sơ vụ án 11 tờ phơi đề.

(Theo phiếu nhập kho vật chứng số 119/PNK, ngày 08/9/2021 của Công an quận G).

Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Luật Phí và Lệ phí, Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về án phí, lệ phí Tòa án;

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000đ (Bằng chữ: Hai trăm nghìn đồng).

Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày tính kể từ ngày tuyên án.

Căn cứ Điều 26 của Luật Thi hành án dân sự năm 2008.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi bổ sung năm 2014) thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi bổ sung năm 2014); thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi bổ sung năm 2014).

(Chủ tọa đã giải thích chế định án treo)

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

214
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội đánh bạc số 148/2021/HS-ST

Số hiệu:148/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Gò Vấp - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/11/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;