Bản án về tội đánh bạc số 126/2022/HSST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN HOÀNG MAI, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 126/2022/HSST NGÀY 12/05/2022 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Trong ngày 12 tháng 05 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Hoàng Mai, Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 373/2021/TLST-HS ngày 05 tháng 11 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:

383/2021/QĐXXST- HS ngày 18 tháng 11 năm 2021 và các Quyết định hoãn phiên tòa ấn định ngày xét xử đối với các bị cáo:

1. Đỗ Đức T - Sinh năm 1994, tại Hà Nam. Giới tính: Nam. HKTT: Thôn Đ, xã N, Kim Bảng, Hà Nam. Nơi ở: 32 ngõ 4 phố N, phường N, quận H, Hà Nội. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không. Nghề nghiệp: Lao động tự do. Trình độ học vấn: 12/12. Con ông: Đỗ Văn T (sinh năm 1962) và bà: Đặng Thị P (sinh năm 1964). Bị cáo chưa có vợ con. Tiền án, tiền sự: chưa. Bắt quả tang ngày 13/5/2021, hiện đang áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú.

2. Trần Duy Ngh- Sinh năm 1988, tại Thái Bình. Giới tính: Nam. HKTT: Xã A, huyện Q, Thái Bình. Chỗ ở: tòa H chung cư H, phường P, quận L, Hà Nội. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không. Nghề nghiệp: Lao động tự do. Trình độ học vấn: Đại học. Con ông: Trần N (sinh năm 1961) và bà: Nguyễn Thị P (sinh năm 1965). Bị cáo có vợ Nguyễn Thị T (sinh năm 1996). TATS: chưa.

Bắt quả tang ngày 13/5/2021, hiện đang áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú.

3. Nguyn Hữu T- Sinh năm 1992 tại Hà Nội. Giới tính: Nam. HKTT: xã H, huyện M, Hà Nội. Chỗ ở: phố Đ, huyện T, quận H, Hà Nội. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không. Nghề nghiệp: Lao động tự do. Trình độ học vấn:

12/12. Con ông: Nguyễn Văn H (sinh năm 1964) và bà: Đặng Thị A (sinh năm 1967). Có vợ: Nguyễn Thị H (sinh năm 1998) và 02 con (lớn sinh năm 2017, nhỏ sinh năm 2020). TATS: chưa.

Bắt quả tang ngày 13/5/2021, hiện đang áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú.

4. Đào Văn T- Sinh năm 1986 tại Hà Nội. HKTT: Thôn B, xã Đ, huyện S, Hà Nội. Giới tính: Nam. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không. Nghề nghiệp: Lao động tự do. Trình độ học vấn: 12/12. Con ông: Đào Văn T (đã mất) và bà: Đào Thị P (sinh năm 1948). Có vợ: Nguyễn Thị T (sinh năm: 1990) và có 02 con (lớn sinh năm 2013, nhỏ sinh năm 2015). TATS: chưa.

Bắt quả tang ngày 13/5/2021, hiện đang áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú.

5. Dương Thanh H - Sinh năm 1980, tại Bắc Giang, HKTT: phố T, phường N, quận H, Hà Nội. Giới tính: Nam. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: kinh; Tôn giáo: Không. Nghề nghiệp: Lao động tự do. Trình độ học vấn: 12/12. Con ông: Dương Văn V (sinh năm 1960) và bà: Dương Thị T (sinh năm 1961). Có vợ: Hoàng Thị H (sinh năm 1982) và 02 con (lớn sinh năm 2006, nhỏ sinh năm 2013). TATS: chưa. Bắt quả tang ngày 13/5/2021, hiện đang áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú.

6. Phạm Ngọc A- Sinh năm 1990 tại Hà Nội, Giới tính: Nam. HKTT: xã N, huyện T, Hà Nội.. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không. Nghề nghiệp: Tự do. Trình độ học vấn: 12/12. Con ông: Phạm Ngọc T (sinh năm 1961) và bà: Đoàn Thị N (sinh năm 1962). TATS: chưa.

Bắt quả tang ngày 13/5/2021, hiện đang áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú.

7. Lê Văn C- Sinh năm 1998 tại: Thanh Hóa. Giới tính: Nam. HKTT: Thôn P, xã C, huyện C, tỉnh T. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không. Nghề nghiệp: Tự do. Trình độ học vấn: 12/12. Con ông: Lê Văn T (sinh năm 1973) và bà Đỗ Thị N (sinh năm 1975). TATS: chưa.

Bắt quả tang ngày 13/5/2021, hiện đang được áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ và quá trình tố tụng tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 16 giờ 30 phút ngày 13/05/2021 tại bưu cục của Công ty Cổ phần G, Dương Thanh H, Lê Văn C, Đỗ Đức T, Đào Văn T, Trần Duy Ngh, Phạm Ngọc A và Nguyễn Hữu T rủ nhau lên sân thượng tầng 3 bưu cục để đánh bạc sát phạt nhau bằng tiền dưới hình thức “ba cây”. Các đối tượng sử dụng 01 bộ bài tú lơ khơ có sẵn trên sân thượng và thống nhất với nhau cách thức đánh bạc cụ thể như sau: cử ra 01 người cầm chương (người chia bài) lấy bộ bài tú lơ khơ gồm 36 cây bài, chia thành 06 nhóm bài tương ứng với 06 người (do C và T chung một nhóm bài), mỗi nhóm bài gồm 03 cây bài ngẫu nhiên. Mỗi người sẽ đặt cửa số tiền từ 10.000 đồng đến 50.000 đồng mỗi ván. Sau khi chia bài và đặt tiền xong, mỗi người lật bài của mình và tính tổng số điểm từ 03 cây bài. Người cầm chương sẽ so sánh tổng điểm 03 quân bài của mình với những người còn lại, người nào nhiều điểm hơn người cầm chương thì người cầm chương sẽ phải trả cho người đó số tiền bằng số tiền người đó đã đặt ban đầu, người nào ít điểm hơn người cầm chương thì người cầm chương sẽ nhận được số tiền đã đặt cửa ban đầu của người này. Trong mỗi ván, khi nào có người được tổng điểm 03 quân bài là 10 điểm thì ván sau người đó sẽ đổi thành người cầm chương và được người cầm chương trả cho số tiền gấp đôi số tiền đặt cửa ban đầu. Khoảng 17 giờ cùng ngày, khi các đối tượng đang đánh bạc thì bị cơ quan Công an phát hiện, bắt quả tang cùng tang vật. Thu giữ của các đối tượng 01 bộ bài tú lơ khơ màu đen gồm 36 cây bài trên chiếu bạc. Thu giữ của các đối tượng tổng số tiền 16.430.000 đồng (trong đó: thu giữ của Đào Văn T 320.000 đồng trên chiếu trước mặt và 630.000 đồng trong ví da để trong túi quần phía trước bên trái; thu giữ của C 190.000 đồng trên chiếu trước mặt; thu giữ của Nguyễn Hữu T 250.000 đồng trên chiếu trước mặt và 900.000 đồng trong 01 túi xách màu xanh đang đeo trên người; thu giữ của H 640.000 đồng trên chiếu trước mặt; thu giữ của Ngọc A 100.000 đồng trên chiếu trước mặt; thu giữ của Ngh 50.000 đồng trên chiếu trước mặt và 5.220.000 đồng để trong ví da trên chiếu trước mặt; thu giữ của Đỗ Đức T 450.000 đồng trên chiếu trước mặt và 7.680.000 đồng để trong ví da để trên chiếu trước mặt).

Tại cơ quan CSĐT – Công an quận Hoàng Mai, các đối tượng khai nhận số tiền sử dụng đánh bạc cụ thể như sau:

+ Đỗ Đức T khai nhận: trước khi đánh bạc T có 8.280.000 đồng, T bỏ ra 600.000 đồng để đánh bạc, còn lại số tiền 7.680.000 đồng để trong ví đặt trên chiếu. Sau khi đánh bạc, T thua 150.000 đồng do đó khi bị bắt T bị thu giữ 450.000 đồng trên chiếu bạc và 7.680.000 đồng để trong ví đặt trên chiếu. T khai nhận nếu thua hết số tiền trên chiếu bạc thì sẽ sử dụng toàn bộ số tiền trong ví để đánh bạc tiếp.

+ Trần Duy Ngh khai nhận: trước khi đánh bạc Ngh có 5.880.000 đồng, Ngh bỏ ra 660.000 đồng để đánh bạc còn 5.220.000 đồng Ngh để trong ví đặt ở trên chiếu cạnh chỗ ngồi. Sau khi đánh bạc, Ngh thua 610.000 đồng do đó khi bị bắt, Ngh bị thu giữ 50.000 đồng trên chiếu bạc và 5.220.000 đồng trong ví đặt ở trên chiếu cạnh chỗ ngồi. Ngh khai nhận nếu thua hết số tiền trên chiếu bạc thì sẽ sử dụng toàn bộ số tiền trong ví để đánh bạc tiếp.

+ Nguyễn Hữu T khai nhận: trước khi đánh bạc T có 1.200.000 đồng, T bỏ ra 300.000 đồng để đánh bạc còn 900.000 đồng T để trong túi xách màu xanh đeo chéo bên người. Sau khi đánh bạc, T thua 50.000 đồng, do đó, khi bị bắt, T bị thu giữ 250.000 đồng trên chiếu bạc và 900.000 đồng trong 01 túi đeo chéo bên người. T khai nhận nếu thua hết số tiền trên chiếu bạc thì sẽ sử dụng toàn bộ số tiền trong túi để đánh bạc tiếp.

+ Đào Văn T khai nhận: trước khi đánh bạc T có 700.000 đồng, T bỏ ra 70.000 đồng để đánh bạc còn 630.000 đồng T để trong ví ở túi quần trước bên trái đang mặc. Sau khi đánh bạc, T thắng 250.000 đồng do đó khi bị bắt, T bị thu giữ 320.000 đồng trên chiếu bạc và 630.000 đồng trong ví ở túi quần trước bên trái. T khai nhận nếu thua hết số tiền trên chiếu bạc thì sẽ sử dụng toàn bộ số tiền trong ví để đánh bạc tiếp.

+ Dương Thanh H khai nhận: trước khi đánh bạc H có 200.000 đồng để đánh bạc. Sau khi đánh bạc, H thắng 440.000 đồng do đó khi bị bắt, H bị thu giữ 640.000 đồng trên chiếu bạc.

+ Phạm Ngọc A khai nhận: trước khi đánh bạc Ngọc A có 100.000 đồng để đánh bạc. Sau khi đánh bạc, Ngọc A không thắng, không thua, do đó khi bị bắt, Ngọc A bị thu giữ 100.000 đồng trên chiếu bạc.

+ Lê Văn C khai nhận: trước khi đánh bạc C có 70.000 đồng để đánh bạc. Sau khi đánh bạc, C thắng 120.000 đồng do đó khi bị bắt, C bị thu giữ 190.000 đồng trên chiếu bạc.

Tng số tiền các bị cáo sử dụng để đánh bạc là 16.430.000 đồng (Mười sáu triệu bốn trăm ba mươi nghìn đồng).

Đi với 01 túi xách màu xanh thu giữ của Nguyễn Hữu T, 01 ví da màu đen thu giữ của Đỗ Đức T, 01 ví da màu nâu thu giữ của Trần Duy Ngh và 01 ví da màu đen thu giữ của Đào Văn T quá trình điều tra xác định là tài sản của các bị cáo.

Tại cáo trạng số 338/CT- VKS ngày 21/10/2021 Viện kiểm sát nhân dân quận H, Hà Nội truy tố các bị cáo Đỗ Đức T, Đào Văn T, Trần Duy Ngh, Phạm Ngọc A, Nguyễn Hữu T, Lê Văn C và Dương Thanh H về tội Đánh bạc theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017.

Đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa, sau khi phân tích tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 321- Bộ luật hình sự; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự. Xử phạt: Đỗ Đức T, Trần Duy Ngh mức án từ 8 đến 10 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, hạn thử thách 16 đến 20 tháng. Đào Văn T, Nguyễn Hữu T, Dương Thanh H, Lê Văn C, Phạm Ngọc A mối bị cáo từ 6 đến 8 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, hạn thử thách 12 đến 16 tháng. Giao các bị cáo bị xử phạt tù nhưng cho hưởng án treo về chính quyền địa phương nơi cư trú để giám sát giáo dục trong thời gian thử thách của án treo.

Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy tang vật không có giá trị sử dụng. Tịch thu xung quỹ Nhà nước số tiền đánh bạc.

Tại phiên tòa :

Các bị cáo khai nhận hành vi phạm tội phù hợp với các tài liệu chứng cứ thu thập được.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau: [1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an quận Hoàng Mai, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân quận Hoàng Mai, kiểm sát viên trong quá trình điều tra truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[2[ Về hành vi của các bị cáo, đủ cơ sở kết luận: Khoảng 17 giờ 00 phút ngày 13/5/2021, tại tầng 3 Bưu cục của Công ty G (địa chỉ phố N, phường N, quận H, Hà Nội), Đỗ Đức T, Đào Văn T, Trần Duy Ngh, Phạm Ngọc A, Nguyễn Hữu T, Lê Văn C và Dương Thanh H có hành vi đánh bạc sát phạt nhau bằng tiền dưới hình thức đánh “ba cây”. Số tiền các bị cáo sử dụng để đánh bạc là 16.430.000 đồng (Mười sáu triệu bốn tram ba mươi nghìn đồng). Hành vi nêu trên của Hành vi của Đỗ Đức T, Đào Văn T, Trần Duy Ngh, Phạm Ngọc A, Nguyễn Hữu T, Lê Văn C và Dương Thanh H đã phạm tội Đánh bạc, tội danh và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự. Viện kiểm sát nhân dân quận H truy tố bị cáo về tội danh và điều luật đã viện dẫn là hoàn toàn đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. [3] Xét về tính chất mức độ của hành vi phạm tội: hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trật tự quản lý hành chính Nhà nước, gây ra tệ nạn xấu tại địa bàn quận Hoàng Mai nói riêng và Thủ đô Hà Nội nói chung. Hành vi của các bị cáo không chỉ gây thiệt hại về kinh tế của bản thân và gia đình các bị cáo mà còn là nguyên nhân dẫn đến các hành vi vi phạm pháp luật, hoặc hành vi phạm tội khác. Hành vi đó gây mất trật tự trị an xã hội, gây bức xúc cho nhân dân. Để giáo dục các bị cáo, đồng thời dẹp bỏ tệ nạn cờ bạc, làm trong sạch xã hội cần phải xử lý các bị cáo nghiêm khắc bằng pháp luật hình sự.

[4] Xét về tính chất mức độ của hành vi phạm tội của từng bị cáo, nhân thân các bị cáo và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ: Các bị cáo cùng nhau thực hiện hành vi phạm tội. Hành vi của các bị cáo là đồng phạm giản đơn. Tuy nhiên, cũng cần phân hóa mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội theo số lượng tiền đánh bạc. Trong vụ án bị cáo Đỗ Đức T và bị cáo Ngh đánh bạc với số tiền nhiều nhất, tiếp đến là bị cáo Hữu Th, Đào Văn T, H; và tiền đánh bạc ít nhất là các bị cáo C, Ngọc A. Do đó hình phạt áp dụng với bị cáo Đỗ Đức T và Ngh là cao nhất, tiếp đến là bị cáo Hữu Th, Đào Văn T, H, hình phạt áp dụng đối với các bị cáo C, Ngọc A là thấp nhất so với các bị cáo. Hội đồng xét xử cũng xem xét các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Các bị cáo phạm tội lần đầu, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Các bị cáo còn có ý thức cải tạo, có nơi cư trú cụ thể rõ ràng; xét chấp nhận đề nghị của Vị đại diện Viện kiểm sát áp dụng Điều 65 Bộ luật hình sự cho các bị cáo được cải tạo ngoài xã hội cũng đủ tác dụng giáo dục các bị cáo và răn đe phòng ngừa chung.

Các bị cáo đều chưa có nghề nghiệp, thu nhập ổn định nên miễn hình phạt bổ sung bằng tiền cho các bị cáo.

[4] Về xử lý vật chứng và các tài sản thu được:

Căn cứ điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 47- Bộ luật hình sự:

- Tịch thu xung quỹ Nhà nước số tiền sử dụng vào việc đánh bạc.

- Tịch thu tiêu hủy những vật chứng không có giá trị sử dụng.

[5] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Đỗ Đức T, Trần Duy Ngh, Đào Văn T, Nguyễn Hữu Th, Dương Thanh H, Lê Văn C, Phạm Ngọc A phạm tội Đánh bạc theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự.

- Căn cứ khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự; điểm i, s khoản 1 ĐIều 51; Điều 65- Bộ luật hình sự.

* Xử phạt: bị cáo Đỗ Đức T 10 (Mười) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, hạn thử thách 20 (Hai mươi) tháng. Thời hạn tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân phường N, quận H, Hà Nội quản lý giáo dục trong thời gian thử thách của án treo.

* Xử phạt: bị cáo Trần Duy Ngh 10 (Mười) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, hạn thử thách 20 (Hai mươi) tháng. Thời hạn tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân phường P, quận L, Hà Nội quản lý giáo dục trong thời gian thử thách của án treo.

* Xử phạt: bị cáo Đào Văn T 8 (Tám) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, hạn thử thách 16 (Mười sáu) tháng. Thời hạn tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện S, Hà Nội quản lý giáo dục trong thời gian thử thách của án treo.

* Xử phạt: bị cáo Nguyễn Hữu Thịnh 8 (Tám) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, hạn thử thách 16 (Mười sáu) tháng. Thời hạn tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân phường Thanh Trì, quận Hoàng Mai, Hà Nội quản lý giáo dục trong thời gian thử thách của án treo.

* Xử phạt: bị cáo Dương Thanh H 8 (Tám) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, hạn thử thách 16 (Mười sáu) tháng. Thời hạn tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân phường N, quận H, Hà Nội quản lý giáo dục trong thời gian thử thách của án treo.

* Xử phạt: bị cáo Lê Văn C 06 (Sáu) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, hạn thử thách 12 (Mười hai) tháng. Thời hạn tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã N, huyện C, Thanh Hóa quản lý giáo dục trong thời gian thử thách của án treo.

* Xử phạt: bị cáo Phạm Ngọc A 06 (Sáu) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, hạn thử thách 12 (Mười hai) tháng. Thời hạn tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã N, huyện T, Hà Nội quản lý giáo dục trong thời gian thử thách của án treo.

* Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.

* Trong thời gian thử thách của án treo, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

- Căn cứ khoản 1 Điều 47- Bộ luật hình sự. Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 136, Điều 331, Điều 333 - Bộ luật tố tụng hình sự; Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Khoản 1mục I phần A danh mục án phí, lệ phí Tòa án ban hành kèm theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14.

Tịch thu tiêu hủy: + 01 bộ bài tú lơ khơ màu đen gồm 36 cây bài. + 01 túi xách màu xanh nhãn hiệu “MEIJIECUO”. + 01 chiếc ví da màu nâu kích thước 7x10cm. + 02 ví da màu đen. Hiện đang lưu giữ tại Chi cục thi hành án dân sự quận Hoàng Mai theo Phiếu nhập kho vật chứng số NK 2022- 0027 ngày 28/10/2021.

Tịch thu xung quỹ Nhà nƣớc số tiền Số tiền 16.430.000 đồng (mười sáu triệu bốn trăm ba mươi nghìn đồng) hiện đang lưu giữ tại Tài khoản số 3949.0.1048098 của Chi cục thi hành án dân sự quận Hoàng Mai (Theo giấy nộp tiền vào tài khoản lập ngày 30/7/2021 nộp tại Ngân hàng thương mại cổ phần công thương Việt Nam).

*Về án phí và quyền kháng cáo:

Mỗi bị cáo phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo trong hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày nhận bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

168
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội đánh bạc số 126/2022/HSST

Số hiệu:126/2022/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hoàng Mai - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;