TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HÀ TĨNH
BẢN ÁN 121/2022/HSPT NGÀY 25/08/2022 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC
Ngày 25 tháng 8 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hà Tĩnh xét xử phúc thẩm công khai vụ án Hình sự thụ lý số 98/2022/HSPT ngày 01 tháng 8 năm 2022 đối với các bị cáo Đặng Văn D; Võ Nhân D; Đặng Ngọc A; Võ Y do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 27/2022/HS-ST ngày 22/6/2022 của Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Hà Tĩnh.
Các bị cáo kháng cáo:
1. Đặng Văn D, sinh ngày: 25/4/1964 tại xã T, huyện C, tỉnh Hà Tĩnh. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: Thôn T, xã T, huyện C, tỉnh Hà Tĩnh. Trình độ văn hóa: 10/10; Nghề nghiệp: Hưu trí; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Giới tính: Nam. Con ông Đặng Q (tức Đặng Văn Q) và bà Trần Thị P (Đều đã mất). Có vợ: Trần Thị H và 02 con, lớn nhất sinh năm 1991, nhỏ nhất sinh năm 1997. Tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 30/12/2021, đến ngày 05/01/2022 bị khởi tố bị can và áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt.
2. Võ Nhân D, sinh ngày: 10/10/1977 tại xã T, huyện C, tỉnh Hà Tĩnh. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: Thôn T, xã T, huyện C, tỉnh Hà Tĩnh. Trình độ văn hóa: 9/12; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Giới tính: Nam. Con ông Võ Nhân Q (Đã mất) và bà Hoàng Thị L. Có vợ Trần Thị H và 04 con, lớn nhất sinh năm 1998, nhỏ nhất sinh năm 2016. Tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 26/01/2022, đến ngày 08/3/2022 được thay thế biện pháp ngăn chặn cho gia đình bảo L. Có mặt.
3. Đặng Ngọc A, sinh ngày: 19/6/1960 tại xã T, huyện C, tỉnh Hà Tĩnh. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: Thôn T, xã T, huyện C, tỉnh Hà Tĩnh. Trình độ văn hóa: 10/10; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Giới tính: Nam. Con ông Đặng Q (tức Đặng Văn Q) và bà Trần Thị P (Đều đã mất). Có vợ Nguyễn Thị D và 03 con, lớn nhất sinh năm 1984, nhỏ nhất sinh năm 1989. Tiền án, tiền sự: Không.
Nhân thân: Ngày 03/12/2017, bị Công an huyện C quyết định xử phạt vi phạm hành chính phạt tiền 1.000.000 đồng về hành vi đánh bạc (đã nộp tiền phạt ngày 22/3/2018).
Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 30/12/2021, đến ngày 05/01/2022 bị khởi tố bị can và áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt.
4. Võ Y, sinh ngày: 20/4/1960 tại xã T, huyện C, tỉnh Hà Tĩnh. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: Thôn H, xã T, huyện C, tỉnh Hà Tĩnh. Trình độ văn hóa: 8/10; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh;
Tôn giáo: Không; Giới tính: Nam. Con ông Võ C (Đã mất) và bà Võ Thị H. Có vợ Võ Thị H và 03 con, lớn nhất sinh năm 1983, nhỏ nhất sinh năm 1987. Tiền án, tiền sự: Không.
Nhân thân:
Năm 1990, bị Tòa án nhân dân huyện C xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (Đã được xóa án tích).
Ngày 18/4/2005, bị Công an huyện C quyết định xử phạt vi phạm hành chính 200.000 đồng về hành vi xâm hại sức khỏe của người khác (đã nộp tiền phạt ngày 18/4/2005).
Ngày 28/4/2014, bị Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Hà Tĩnh xử phạt 06 tháng tù về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 248 Bộ luật Hình sự năm 1999 tại bản án số 07/2014-HSST, phạt bổ sung 3.000.000 đồng, buộc phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm. Ngày 05/9/2014, Tòa án nhân dân tỉnh Hà Tĩnh quyết định không chấp nhận kháng cáo của Võ Y, giữ nguyên các quyết định của bản án hình sự sơ thẩm, buộc phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm tại bản án số 100/2014/HSPT (Chấp hành xong án phạt tù ngày 08/8/2015 và thi hành xong toàn bộ các nghĩa vụ thi hành án dân sự ngày 30/10/2014, đã được xóa án tích).
Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 30/12/2021, đến ngày 05/01/2022 bị khởi tố bị can và áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt.
Ngoài ra trong vụ án còn có bị cáo khác và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan nhưng không có kháng cáo, không bị kháng nghị nên Tòa án không triệu tập.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 12 giờ ngày 30/12/2021, Đặng Văn D điều khiển xe ôtô biển kiểm soát 38A-127.XXđến nhà A trai là Đặng Ngọc A ăn cơm trưa. Đến khoảng 12 giờ 30 phút cùng ngày, sau khi ăn cơm xong, A rủ D đánh bài phỏm ăn tiền, D đồng ý. A gọi điện thoại cho bạn là Võ Y và em vợ là Nguyễn Thị L đến nhà A đánh phỏm ăn tiền, cả hai người đều đồng ý. Võ Y điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Airblade biển kiểm soát 38N5-23XX của mình đến nhà A, còn L thì đi nhờ xe của người qua đường. Khi đã có mặt đầy đủ, họ cùng đi xuống phòng bếp của nhà A để đánh bạc. D lấy chiếc chiếu ăn trải ra giữa nền nhà rồi ra xe ô tô của mình lấy 02 bộ bài tu lơ khơ loại 52 quân bài có sẵn trên xe đưa vào. Cả 4 người thống nhất đánh bài ăn tiền theo hình thức đánh “phỏm”. D và A mỗi người bóc 01 bộ bài để thay phiên sử dụng trong quá trình đánh bạc. A xáo bài và chia ván bài đầu tiên cho mọi người cùng đánh.
- Cách thức đánh bài “phỏm” và mức độ sát phạt cụ thể như sau:
Người chia bài chia cho 3 người còn lại mỗi người 09 quân bài và chia cho mình 10 quân bài. Người chia bài đánh con bài đầu tiên, thứ tự những người đánh tiếp theo sẽ thay đổi luân phiên, ván này theo vòng quay của kim đồng hồ, ván sau theo chiều ngược lại. Ván bài kết thúc khi hết lượt bốc bài hoặc có người “ù” (tức là có đủ 3 “phỏm” khi chưa hết lượt bốc bài). “Phỏm” được cấu tạo từ ba, bốn lá bài cùng đơn vị (ví dụ 5 cơ, 5 rô, 5 chuồn) hoặc một dãy các quân bài liên tiếp (có ít nhất 03 quân bài) cùng chất với nhau (ví dụ 6 cơ, 7 cơ, 8 cơ). Người nào “ù” ván sẽ được những người còn lại trả 100.000 đồng/người. Nếu là “ù đền”, tức là ăn 3 quân bài của cùng một người, thì người ù đền được người bị ăn 3 quân bài trả 460.000 đồng, những người còn lại không phải trả tiền. Ai bốc được 3 quân bài K thì được ba người còn lại trả 100.000 đồng/người, bốc được 4 quân bài K thì được ba người còn lại trả 200.000 đồng/ người. Sau khi hết lượt bốc bài, nếu không có ai “ù” thì sẽ hạ các quân bài còn lại trên tay của mỗi người, trừ đi các “phỏm” để tính tổng điểm của các quân bài còn lại, ai có số điểm thấp nhất thì thắng ván bài đó và sẽ được người về thứ hai trả 20.000 đồng, người về thứ ba trả 40.000 đồng và người về cuối trả 60.000 đồng. Người nào “cháy”, tức không có “phỏm” thì phải trả cho người về nhất 80.000 đồng. Ai bị ăn quân bài đầu tiên thì mất 20.000 đồng, bị ăn quân bài thứ hai thì mất 40.000 đồng, bị ăn quân bài thứ ba (con “chốt”) thì mất 100.000 đồng, bị ăn quân bài K thì mất 100.000 đồng.
Số tiền sử dụng để đánh bạc của Đặng Ngọc A là 3.200.000 đồng, của Đặng Văn D là 5.880.000 đồng, của Võ Y là 2.500.000 đồng và của Nguyễn Thị L là 9.000.000 đồng. Tổng số tiền đánh bạc của các đối tượng là 20.580.000 đồng.
Đến khoảng 16 giờ 30 phút cùng ngày, tổ tuần tra Công an huyện C phát hiện, bắt quả tang hành vi đánh bạc của các đối tượng, thu giữa chiếu bạc 02 bộ bài tu lơ khơ 52 quân đều đã qua sử dụng và số tiền 1.590.000 đồng, thu trong người các đối tượng Đặng Ngọc A 3.000.000 đồng; Võ Y 1.500.000 đồng; Đặng Văn D 5.890.000 đồng và Nguyễn Thị L 8.600.000 đồng, đều là tiền sử dụng để đánh bạc. Ngoài ra, tổ tuần tra còn thu giữ của các đối tượng một số đồ vật, tài sản cá nhân khác có liên quan Quá trình điều tra mở rộng vụ án, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã xác định: Ngoài hành vi đánh bạc theo hình thức đánh bài “phỏm” vào chiều ngày 30/12/2021 nói trên, Đặng Văn D còn thực hiện hành vi đánh bạc theo hình thức cá độ bóng đá với Võ Nhân D trong đêm ngày 11/12/2021. Cụ thể:
Đặng Văn D nhận cá độ đối với Võ Nhân D 05 trận bóng đá thuộc các giải đấu bóng đá Ngoại hạng A, giải vô địch quốc gia Đức (Bundesliga) và giải vô địch quốc gia Italia (Serie A) vào đêm ngày 11/12/2021. Đặng Văn D sử dụng điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 Plus màu vàng, bên trong lắp thẻ sim số 03755040XX, đăng ký tài khoản Zalo mang tên “D Đặng”. Võ Nhân D sử dụng điện thoại di động nhãn hiệu OPPO R17 màu xA dương, bên trong lắp các thẻ sim số 03755040XX và 03755040XX, đăng ký tài khoản Zalo mang tên “ROBOT” từ số điện thoại 03755040XX. Hai bên trao đổi các kèo cá độ đối với các trận đấu bóng đá do Đặng Văn D đưa ra bằng cách nhắn tin hoặc gọi điện qua ứng dụng Zalo. Đặng Văn D căn cứ vào kèo bóng đá tại các trang Web cá độ trên mạng Internet, tỷ lệ thắng thua là 0,9 số tiền đặt cược.
- Cách thức đánh và tính thắng thua cá độ bóng đá cụ thể như sau:
+ Đối với kèo thắng thua:
Nếu kèo của trên chấp cửa dưới số nguyên hoặc số nguyên lẻ 0,5: khi kết quả trận đấu cộng kèo chấp cửa trên lớn hơn cửa dưới từ 0,5 trở lên thì cửa trên thắng số tiền đặt cược nhân với tỷ lệ; khi kết quả trận đấu cộng kèo chấp cửa trên nhỏ hơn cửa dưới từ 0,5 trở lên thì cửa trên thua số tiền đặt cược nhân với tỷ lệ; khi kết quả trận đấu cộng kèo chấp cửa trên và cửa dưới bằng nhau thì cửa trên và cửa dưới hòa tiền.
Nếu kèo cửa trên chấp cửa dưới số nguyên lẻ 0,25: khi kết quả trận đấu cộng kèo chấp cửa trên nhỏ hơn cửa dưới 0,25 thì cửa trên thua ½ số tiền đặt cược nhân với tỷ lệ; khi kết quả trận đấu cộng với kèo chấp cửa trên lớn hơn cửa dưới từ 0,75 trở lên thì cửa trên thắng số tiền đặt cược nhân với tỷ lệ; khi kết quả trận đấu cộng với kèo chấp cửa trên nhỏ hơn cửa dưới từ 1,25 trở lên thì cửa trên thua số tiền đặt cược nhân với tỷ lệ.
Nếu kèo cửa trên chấp cửa dưới số nguyên lẻ 0,75: khi kết quả trận đấu cộng kèo chấp cửa trên lớn hơn cửa dưới 0,25 thì cửa trên thắng ½ số tiền đặt cược nhân với tỷ lệ; khi kết quả trận đấu cộng với kèo chấp cửa trên lớn hơn cửa dưới từ 1,25 trở lên thì cửa trên thắng số tiền đặt cược nhân với tỷ lệ; khi kết quả trận đấu cộng với kèo chấp cửa trên nhỏ hơn cửa dưới từ 0,75 trở lên thì cửa trên thua số tiền đặt cược nhân với tỷ lệ.
+ Đối với kèo tài xỉu (kèo tổng số bàn thắng) là kèo so sánh giữa tổng số bàn thắng trong trận với kèo tài xỉu:
Nếu kèo tài xỉu là số nguyên hoặc số nguyên lẻ 0,5: khi tổng số bàn thắng lớn hơn kèo tài xỉu thì cửa trên thắng số tiền đặt cược nhân với tỷ lệ; khi tổng số bàn thắng nhỏ hơn kèo tài xỉu thì cửa trên thua số tiền đặt cược nhân với tỷ lệ; khi tổng số bàn thắng bằng kèo tài xỉu thì cửa trên và cửa dưới hòa tiền.
Nếu kèo tài xỉu là số nguyên lẻ 0,25: khi tổng số bàn thắng nhỏ hơn kèo tài xỉu 0,25 thì cửa trên thua ½ số tiền đặt cược nhân với tỷ lệ; khi tổng số bàn thắng lớn hơn kèo tài xỉu từ 0,75 trở lên thì cửa trên thắng số tiền đặt cược nhân tỷ lệ; khi tổng số bàn thắng nhỏ hơn kèo tài xỉu từ 1,25 trở lên thì cửa trên thua số tiền đặt cược nhân tỷ lệ.
Nếu kèo tài xỉu là số nguyên lẻ 0,75: khi tổng số bàn thắng lớn hơn kèo tài xỉu 0,25 thì cửa trên thắng ½ số tiền đặt cược nhân tỷ lệ; khi tổng số bàn thắng lớn hơn kèo tài xỉu từ 1,25 trở lên thì cửa trên thắng số tiền đặt cược nhân tỷ lệ; khi tổng số bàn thắng nhỏ hơn kèo tài xỉu từ 0,75 trở lên thì cửa trên thua số tiền đặt cược nhân tỷ lệ.
- Trong đêm ngày 11/12/2021, Đặng Văn D và Võ Nhân D đánh bạc dưới hình thức cá độ bóng đá 05 lần đối với 05 trận đấu, gồm:
+ Lần 1: Trận Liverpool gặp Aston Villa thuộc khuôn khổ giải bóng đá Ngoại hạng A, kèo trận này Liverpool chấp 1,25 quả và kèo tài xỉu 3,25 quả. Võ Nhân D bắt kèo Liverpool 81.000.000 đồng và kèo tài 15.000.000 đồng. Kết quả Liverpool thắng Aston Villa 1 - 0 nên Võ Nhân D thua 49.950.000 đồng gồm 36.450.000 đồng kèo Liverpool và 13.500.0000 đồng kèo tài.
Số tiền đánh bạc của Đặng Văn D và Võ Nhân D lần này là 96.000.000 đồng. Số tiền Đặng Văn D thu lợi bất chính là 49.950.000 đồng.
+ Lần 2: Trận Juventus gặp Venezia thuộc khuôn khổ giải bóng đá vô địch quốc gia Italia, kèo trận này là Juventus chấp 1,25 quả và kèo tài xỉu là 2,75 quả. Võ Nhân D bắt kèo Juventus 18.000.000 đồng. Kết quả Juventus hòaVenezia 1 - 1 nên Võ Nhân D thua 16.200.000 đồng.
Số tiền đánh bạc của Đặng Văn D và Võ Nhân D lần này là 18.000.000 đồng. Số tiền Đặng Văn D thu lợi bất chính là 16.200.000 đồng.
+ Lần 3: Trận Bayern Munich gặp Mainz thuộc khuôn khổ giải vô địch quốc gia Đức, kèo trận này là Bayern Munich chấp 2 quả. Võ Nhân D bắt kèo Bayern Munich 9.000.000 đồng. Kết quả Bayern Munich thắng Mainz 2 - 1 nên Võ Nhân D thua 8.100.000 đồng.
Số tiền đánh bạc của Đặng Văn D và Võ Nhân D lần này là 9.000.000 đồng. Số tiền Đặng Văn D thu lợi bất chính là 8.100.000 đồng.
+ Lần 4: Trận Dortmund gặp Bochum thuộc khuôn khổ giải vô địch quốc gia Đức, kèo trận này là Dortmund chấp 1,25 quả, tài xỉu 3,25 quả. Võ Nhân D bắt kèo Dortmund 12.000.000 đồng và kèo tài 5.000.000 đồng. Kết quả Dortmund hòa Bochum 1 - 1 nên Võ Nhân D thua 15.300.000 đồng gồm 10.800.000 đồng kèo Dortmund và 4.500.000 đồng kèo tài.
Số tiền đánh bạc của Đặng Văn D và Võ Nhân D là 17.000.000 đồng. Số tiền Đặng Văn D thu lợi bất chính là 15.300.000 đồng.
+ Lần 5: Trận Manchester United gặp Norwich thuộc khuôn khổ giải bóng đá Ngoại hạng A, kèo trận này Manchester United chấp 1,25 quả, tài xỉu 2,75 quả. Võ Nhân D bắt kèo Manchester United 95.000.000 đồng và kèo tài 25.000.000 đồng. Kết quả trận đấu Manchester United thắng Norwich 1 - 0 nên Võ Nhân D thua 65.250.000 đồng gồm 42.750.000 đồng kèo Manchester United và 22.500.000 đồng kèo tài xỉu.
Số tiền đánh bạc của Đặng Văn D và Võ Nhân D lần này là 120.000.000 đồng. Số tiền Đặng Văn D thu lợi bất chính là 65.250.000 đồng.
Tổng số tiền đánh bạc của Đặng Văn D và Võ Nhân D 05 lần nói trên là 260.000.000 đồng, trong đó mỗi lần đánh bạc đều trên 5.000.000 đồng. Võ Nhân D thua cả 05 kèo cá độ với tổng số tiền thua là 154.800.000 đồng. Số tiền 154.800.000 đồng Võ Nhân D đã trả đầy đủ cho Đặng Văn D bằng tiền mặt và chuyển khoản từ tài khoản 9368176661 của mình đến tài khoản 0201000612785 của Đặng Văn D.
* Vật chứng của vụ án thu giữ bao gồm:
- 02 bộ bài tu lơ khơ 52 quân, đã qua sử dụng; 01 chiếc chiếu mành màu nâu đỏ, đã qua sử dụng; Số tiền 20.580.000 đồng;
- Thu của Đặng Ngọc A: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 8 màu đen, bên trong lắp thẻ sim 0984064007, đã qua sử dụng.
- Thu của Nguyễn Thị L: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 12 màu xA, bên trong lắp thẻ sim 0978794499, đã qua sử dụng.
- Thu của Đặng Văn D:
+ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 Plus màu vàng, mặt trước đã bị vỡ, bên trong lắp thẻ sim 03755040XX, đã qua sử dụng. Xe ô tô nhãn hiệu GENTRA màu đen, biển kiểm soát 38A-127.XX và Giấy đăng ký xe ô tô số 012294, tên chủ xe Đặng Văn D.
- Thu của Võ Y:
+ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Glaxy A12 màu đen, bên trong lắp các sim 03476276XX và 09130012XX, đã qua sử dụng. Xe mô tô nhãn hiệu Honda Airblade màu đỏ đen, biển kiểm soát 38N5-23XXvà Giấy đăng ký xe mô tô số 044322, tên chủ xe Nguyễn Văn N - Địa chỉ: xã Kỳ Bắc, huyện Kỳ A, tỉnh Hà Tĩnh, số khung 691404, số máy 5295490.
- Thu của Võ Nhân D: 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO R17 màu xA dương, bên trong lắp thẻ sim 03755040XX, kèm theo ốp điện thoại màu nâu, đã qua sử dụng (thẻ sim 03755040XX Võ Nhân D đã tháo vứt đi).
Quá trình điều tra vụ án, Cơ quan Cảnh sát Điều tra xác định xe ô tô biển kiểm soát 38A-127.XXkhông liên quan đến hành vi phạm tội của bị can Đặng Văn D nên đã trả lại chiếc xe ô tô này cho bị can.
Đối với xe mô tô biển kiểm soát 38N5-23XXvà Giấy đăng ký xe mô tô số 044322: Bị can Võ Y khai nhận mua xe mô tô này từ một người đàn ông tên Tuấn (không xác định được họ tên, địa chỉ cụ thể) vào năm 2011, hai bên giao nhận tiền và Giấy đăng ký xe mô tô, không lập giấy tờ mua bán xe. Căn cứ các bản kết luận giám định của Phòng Kỹ Thuật Hình sự Công an tỉnh Hà Tĩnh xác định: Giấy đăng ký xe mô tô số 044322 là giả; biển kiểm soát 38N5-23XXđã được đăng ký hợp pháp đối với 01 chiếc xe mô tô khác; số khung 691404 và số máy 5295490 có trên xe mô tô nhãn hiệu Honda Airblade đã thu giữ là số nguyên thủy, không có dấu vết tẩy xóa, sửa chữa. Tuy nhiên, theo Công văn trả lời của Công ty Honda Việt Nam thể hiện chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda có số khung 691404 và số máy 5295490 nói trên không trùng khớp với dữ liệu do Honda Việt Nam quản lý và lưu trữ. Vì vậy, Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an huyện C đã tách chiếc xe mô tô nói trên kèm theo Giấy đăng ký xe để tiếp tục xác minh làm rõ và xử lý theo quy định pháp luật.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 27/2022/HS-ST ngày 22/6/2022 của Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Hà Tĩnh đã Quyết định:
Áp dụng điểm b khoản 2, khoản 3 điều 321; điểm s khoản 1 điều 51; điểm g khoản 1 điều 52 BLHS đối với Đặng Văn D và Võ Nhân D (áp dụng thêm khoản 2 điều 51 BLHS đối với Đặng Văn D) .
Áp dụng khoản 1, khoản 3 điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2 điều 51 BLHS đối với Võ Y.
Áp dụng khoản 1, khoản 3 điều 321; điểm i, s khoản 1, khoản 2 điều 51 BLHS đối với Đặng Ngọc A, Nguyễn Thị L (áp dụng thêm điều 65 BLHS đối với Nguyễn Thị L) Áp dụng điểm a, b khoản 1 điều 47 BLHS; điểm a khoản 2 điều 106; khoản 2 điều 135, khoản 2 điều 136; điều 331, 333 BLTTHS. Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và dA mục án phí kèm theo.
Tuyên bố: Các bị cáo Đặng Văn D, Võ Nhân D, Đặng Ngọc A, Võ Y, Nguyễn Thị L phạm tội “Đánh bạc”. Xử phạt:
- Đặng Văn D 39 (ba mươi chín) tháng tù, được trừ thời gian bị tạm giữ từ ngày 30/12/2021 đến ngày 05/01/2022. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo thi hành án. Phạt bổ sung 20.000.000 đồng (hai mươi triệu đồng).
- Võ Nhân D 36 (ba mươi sáu) tháng tù, được trừ thời gian bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 26/01/2022 đến ngày 08/3/2022. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo thi hành án. Phạt bổ sung 15.000.000 đồng (mười lăm triệu đồng) - Đặng Ngọc A 8 (tám) tháng tù, được trừ thời gian bị tạm giữ từ ngày 30/12/2021 đến ngày 05/01/2022. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo thi hành án. Phạt bổ sung 10.000.000 đồng (mười triệu đồng).
- Võ Y 07 (bảy) tháng tù, được trừ thời gian bị tạm giữ từ ngày 30/12/2021 đến ngày 05/01/2022. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo thi hành án . Phạt bổ sung 10.000.000 đồng (mười triệu đồng).
- Nguyễn Thị L 7 (bảy) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 14 (mười bốn) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. Phạt bổ sung 10.000.000 đồng (mười triệu đồng).
Giao bị cáo Nguyễn Thị L cho UBND xã T, huyện C, tỉnh Hà Tĩnh quản lý, giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trong trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 68, khoản 3 Điều 92 Luật thi hành án hình sự 2019. Trong thời gian thử thách, nếu bị cáo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định tại Luật thi hành án hình sự từ hai lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù của bản án này. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt của bản án này và tổng hợp hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 Bộ luật hình sự.
Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về xử lý vật chứng, biện pháp tư pháp, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 24/6/2022, bị cáo Võ Y kháng cáo xin được giảm nhẹ hình phạt hoặc được hưởng án treo.
Ngày 01/7/2022, bị cáo Đặng Ngọc A kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và được hưởng án treo; bị cáo Võ Nhân D kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Ngày 04/7/2022 bị cáo Đặng Văn D kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên tòa phúc thẩm các bị cáo Đặng Văn D, Võ Nhân D, Đặng Ngọc A vẫn giữ nguyên nội dung kháng cáo. Bị cáo Võ Y bổ sung nội dung kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và được hưởng án treo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Tĩnh giữ quyền công tố tại phiên tòa, sau khi phân tích tính chất hành vi phạm tội, đánh giá các tình tiết mới mà cấp sơ thẩm chưa áp dụng, các tình tiết mới phát sinh sau khi xét xử sơ thẩm, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử, căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c, e khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự:
- Chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Đặng Văn D và Võ Nhân D, sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 27/2022/HS-ST ngày 22/6/2022 của Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Hà Tĩnh, giảm cho các bị cáo Đặng Văn D và Võ Nhân D mỗi bị cáo 06 tháng tù.
- Chấp nhận một phần kháng cáo của các bị cáo Đặng Ngọc A và Võ Y, sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 27/2022/HS-ST ngày 22/6/2022 của Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Hà Tĩnh đối với các bị cáo Đặng Ngọc A và Võ Y, cho bị cáo Đặng Ngọc A và bị cáo Võ Y được hưởng án treo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được trA tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Tại phiên tòa phúc thẩm các bị cáo Đặng Văn D, Võ Nhân D, Đặng Ngọc A, Võ Y đều thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp với bản án sơ thẩm, các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Do đó, đủ cơ sở để xác định:
Trong khoảng thời gian từ 13 giờ đến 16 giờ 30 phút ngày 30/12/2021, tại nhà riêng của Đặng Ngọc A ở thôn Tân Thượng, xã T, huyện C, Đặng Văn D cùng Đặng Ngọc A, Võ Y và Nguyễn Thị L đã thực hiện hành vi bài “phỏm” được thua bằng tiền. Tổng số tiền các bị cáo sử dụng để phỏm là 20.580.000 đồng, trong đó Đặng Ngọc A là 3.200.000 đồng, của Đặng Văn D là 5.880.000 đồng, của Võ Y là 2.500.000 đồng và của Nguyễn Thị L là 9.000.000 đồng. Ngoài ra, Đặng Văn D và Võ Nhân D đã 05 lần thực hiện hành vi cá độ bóng đá được thua bằng tiền đối với 05 trận bóng đá diễn ra trong đêm ngày 11/12/2021, mỗi lần cá độ đều trên 5.000.000 đồng. Bị cáo Võ Nhân D đã bỏ ra số tiền 260.000.000 đồng trong cả 5 lần cá độ và đều bị thua. Bị cáo Đặng Văn D đã thu lợi bất chính trong 5 lần cá độ là 154.800.000 đồng. Trong cả 05 lần cá độ thì Võ Nhân D đều bị thua, tổng số tiền Võ Nhân D cá độ bóng đá với Đặng Văn D là 260.000.000đ.
Bị cáo Đặng Văn D thực hiện hành vi đánh phỏm và cá độ bóng đá được thua bằng tiền, Võ Nhân D thực hiện hành vi cá độ bóng đá được thua bằng tiền với số tiền trên 50.000.000 đồng. Các bị cáo Đặng Ngọc A, Võ Y và Nguyễn Thị L thực hiện hành vi đánh phỏm được thua bằng tiền với số tiền 20.580.000 đồng.
Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử các bị cáo về tội “Đánh bạc” là đúng người, đúng tội, không oan sai.
[2] Xét nội dung kháng cáo của các bị cáo, Hội đồng xét xử nhận thấy:
Các bị cáo đều có đầy đủ năng lực hành vi, năng lực pháp luật, tham gia đánh bạc dưới hình thức cá độ bóng đá và đánh phỏm được thua bằng tiền, thể hiện sự coi thường pháp luật, gây mất trật tự công cộng và nếp sống văn minh của xã hội. Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, gây ảnh hưởng đến tình hình trật tự trị an trên địa bàn.
Tuy nhiên, xét thấy trong quá trình điều tra, tại phiên toà sơ thẩm, phiên toà phúc thẩm cả 04 bị cáo đều tự nguyện khai báo đầy đủ các tình tiết của vụ án, hối hận về hành vi phạm tội, do đó các bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ là thành khẩn khai báo và ăn năn hối cải theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.
[2.1] Đối với bị cáo Đặng Văn D và bị cáo Võ Nhân D:
[2.1.1] Bị cáo Đặng Văn D trong quá trình công tác, làm việc đã được Bộ Tài Nguyên và Môi trường tặng Kỷ niệm chương Vì sự nghiệp tài nguyên và môi trường năm 2015. Bị cáo có bố đẻ là ông Đặng Văn Quỳnh - Thương binh hạng Bốn là người có công với các mạng nên bị cáo đươc hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Tại cấp phúc thẩm bị cáo xuất trình biên lai thu tiền của Chi Cục thi hành án dân sự huyện C thể hiện bị cáo đã nộp số tiền 20.200.000 đồng hình phạt bổ sung và 50.000.000 đồng tiền do phạm tội mà có theo quyết định của bản án sơ thẩm nên cần áp dung cho bị cáo thêm tình tiết giảm nhẹ mới này theo quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.
[2.1.2] Bị cáo Võ Nhân D, ngoài các tình tiết giảm nhẹ hình phạt bị cáo được xem xét tại cấp sơ thẩm thì tại cấp phúc thẩm bị cáo cung cấp xác nhận của chính quyền địa phương về việc bị cáo đang thờ phụng liệt sỹ là ông Võ Huy Sâm, chú ruột của bị cáo; hoàn cảnh gia đình bị cáo rất khó khăn, bị cáo là lao động chính gánh vác kinh tế trong gia đình. Sau khi xét xử sơ thẩm bị cáo đã chủ động nộp số tiền 15.200.000 đồng hình phạt bổ sung, án phí sơ thẩm theo quyết định của bản án sơ thẩm. Đây là tình tiết giảm nhẹ hình phạt mới được quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, cần xem xét áp dụng cho bị cáo.
[2.1.3] Xét thấy điều kiện, hoàn cảnh của các bị cáo đều khó khăn: Bị cáo Đặng Văn D hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn, hiện đang sống một mình đơn thân và thường xuyên ốm đau bệnh tật; bị cáo Võ Nhân D là trụ cột trong gia đình có 04 người con đang trong độ tuổi ăn học, vợ thường xuyên đau ốm, bố bị cáo vừa qua đời vì tai nạn và bị cáo đang chăm sóc mẹ già tuổi cao sức yếu. Vì vậy, cần xem xét để giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự cho các bị cáo, thể hiện chính sách nhân đạo của pháp luật.
[2.2] Đối với bị cáo Đặng Ngọc A và bị cáo Võ Y:
[2.2.1] Bị cáo Đặng Ngọc A phạm tội lần đầu, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, bị cáo sử dụng số tiền đánh bạc không nhiều và có vai trò thứ yếu trong vụ án; bị cáo có bố đẻ là Thương binh hạng Bốn là các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i, s khoản 1 khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Tại cấp phúc thẩm, bị cáo được Ban chỉ huy quân sự huyện C xác nhận về việc bị cáo tham gia bộ đội bảo vệ Tổ quốc từ năm 1979 – 1983 tại chiến trường biên giới phía Bắc, đây là tình tiết mới bị cáo chưa xuất trình và cấp sơ thẩm chưa áp dụng, ngoài ra bị cáo còn xuất trình thêm biên lai thu tiền của Chi Cục thi hành án dân sự huyện C thể hiện bị cáo đã nộp số tiền 10.200.000 đồng tiền án phí sơ thẩm và hình phạt bổ sung theo quyết định của bản án sơ thẩm là các tình tiết giảm nhẹ hình phạt mới, được quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.
[2.2.2] Bị cáo Võ Y có vai trò thứ yếu, số tiền sử dụng đánh bạc ít nhất trong 4 bị cáo. Bị cáo từng có thời gian tham gia bộ đội làm nhiệm vụ quốc tế từ năm 1978 -1982 và được tặng kỷ niệm chương tham gia chiến trường K, căn cứ điểm 1 khoản 1 Điều 3 Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng năm 2020, bị cáo Võ Y có đủ điều kiện được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm x khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Đây là tình tiết giảm nhẹ cấp sơ thẩm chưa áp dụng. Ngoài ra, tại cấp phúc thẩm, bị cáo xuất trình thêm một số tình tiết giảm nhẹ mới là xác nhận của chính quyền địa phương về việc bị cáo là thân nhân của người có công với cách mạng, bố ruột bị cáo là ông Võ Chí từng tham gia kháng chiến chống Pháp, bị cáo đang trực tiếp thờ phụng liệt sỹ là ông Võ Văn Sỹ là chú ruột của bị cáo; bị cáo có xác nhận bị thương tật khi chiến đấu của cơ quan có thẩm quyền. Với trách nhiệm là Ban phòng chống Covid cộng đồng, bị cáo đã có nhiều thành tích được chính quyền địa phương ghi nhận; bị cáo được Ban trị sự Phật giáo huyện C xác nhận về việc có nhiều đóng góp trong việc bảo vệ di tích, phát triển văn hóa truyền thống của quê hương T; bị cáo đã nộp số tiền 10.200.000 đồng tiền án phí sơ thẩm và hình phạt bổ sung theo quyết định của bản án sơ thẩm đây là các tình tiết giảm nhẹ hình phạt mới được quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.
[2.2.3] Xét bị cáo Đặng Ngọc A và bị cáo Võ Y, với vai trò đồng phạm giản đơn, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, các bị cáo đều đã lớn tuổi, có hoàn cảnh gia đình khó khăn, được hưởng nhiều tình tiết giảm nhẹ. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy cần xem xét sửa bản án sơ thẩm về biện pháp chấp hành hình phạt tù, cho các bị cáo được hưởng án treo để bị cáo có điều kiện chăm sóc gia đình, làm lại cuộc đời và trở thành người có ích cho xã hội.
[3] Về án phí: Căn cứ Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm h khoản 2 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 về án phí, lệ phí Tòa án. Kháng cáo của các bị cáo được chấp nhận nên không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm b khoản 1, khoản 2 Điều 355, điểm c, e khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự: Chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Đặng Văn D, Võ Nhân D; chấp nhận một phần kháng cáo của các bị cáo Đặng Ngọc A, Võ Y sửa bản án hình sự sơ thẩm số 27/2022/HS-ST ngày 22/6/2022 của Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Hà Tĩnh.
Căn cứ Điều 321 Bộ luật hình sự;
1. Về tội danh: Tuyên bố các bị cáo Đặng Văn D, Võ Nhân D, Đặng Ngọc A, Võ Y phạm tội “Đánh bạc”.
2. Về hình phạt:
* Về hình phạt chính:
- Căn cứ điểm b khoản 2, khoản 3 điều 321; điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 điều 52; Điều 17, Điều 54, Điều 58 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Đặng Văn D 27 (Hai mươi bảy) tháng tù. Bị cáo được trừ thời gian bị tạm giữ từ ngày 30/12/2021 đến ngày 05/01/2022. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo thi hành án.
- Căn cứ điểm b khoản 2, khoản 3 điều 321; điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 điều 52; Điều 17, Điều 54, Điều 58 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Võ Nhân D 24 (Hai mươi tư) tháng tù. Bị cáo được trừ thời gian bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 26/01/2022 đến ngày 08/3/2022. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo thi hành án.
- Căn cứ khoản 1, khoản 3 điều 321; điểm i, s khoản 1, khoản 2 điều 51, Điều 17, Điều 58, Điều 65 BLHS: Xử phạt bị cáo Đặng Ngọc A 08 (Tám) tháng tù cho hưởng án treo. Thời gian thử thách 16 tháng, tính từ ngày tuyên án phúc thẩm.
- Căn cứ khoản 1, khoản 3 điều 321; điểm s, x khoản 1, khoản 2 điều 51, Điều 17, Điều 58, Điều 65 BLHS: Xử phạt bị cáo Võ Y 07 (Bảy) tháng tù cho hưởng án treo. Thời gian thử thách 14 tháng, tính từ ngày tuyên án phúc thẩm.
Giao bị cáo Đặng Ngọc A và bị cáo Võ Y cho Ủy ban nhân dân xã T, huyện C, tỉnh Hà Tĩnh giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách án treo. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo. Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 của Luật thi hành án hình sự 2019.
Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
* Về hình phạt bổ sung:
- Phạt bổ sung bị cáo Đặng Văn D 20.000.000 đồng. Bị cáo Đặng Văn D được trừ 20.00.000 đồng tiền phạt bổ sung theo biên lai số 0006865 ngày 21/7/2022 và 200.000 đồng tiền án phí sơ thẩm theo biên lai số 0006866 ngày 21/7/2022 đã nộp tại Chi cục thi hành án dân sự huyện C, tỉnh Hà Tĩnh khi thi hành án.
Tịch thu sung ngân sách nhà nước từ bị cáo Đặng Văn D số tiền 260.000.000 đồng. Bị cáo Đặng Văn D được trừ 50.000.000 đồng theo biên lai số 0006928 ngày 26/5/2022 và 50.000.000 đồng theo biên lai số 0006934 ngày 25/8/2022 đã nộp tại Chi cục thi hành án dân sự huyện C, tỉnh Hà Tĩnh khi thi hành án. Còn phải tịch thu tiếp từ bị cáo Đặng Văn D số tiền 160.000.000 đồng.
- Phạt bổ sung bị cáo Võ Nhân D 15.000.000 đồng. Bị cáo Võ Nhân D được trừ 15.200.000 đồng tiền án phí sơ thẩm và tiền phạt bổ sung theo biên lai số 0006864 ngày 01/7/2022 đã nộp tại Chi cục thi hành án dân sự huyện C, tỉnh Hà Tĩnh khi thi hành án.
- Phạt bổ sung bị cáo Đặng Ngọc A 10.000.000 đồng. Bị cáo Đặng Ngọc A được trừ 10.200.000 đồng tiền án phí sơ thẩm và tiền phạt bổ sung theo biên lai số 0006930 ngày 08/7/2022 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện C, tỉnh Hà Tĩnh khi thi hành án.
- Phạt bổ sung bị cáo Võ Y 10.000.000 đồng. Bị cáo Võ Y được trừ 10.200.000 đồng tiền án phí sơ thẩm và tiền phạt bổ sung theo biên lai số 0006804 ngày 15/8/2022 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện C, tỉnh Hà Tĩnh khi thi hành án.
3. Về án phí: Áp dụng Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm h khoản 2 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 về án phí, lệ phí Tòa án, các bị cáo Đặng Văn D, Võ Nhân D, Đặng Ngọc A, Võ Y không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
4. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội đánh bạc số 121/2022/HSPT
Số hiệu: | 121/2022/HSPT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hà Tĩnh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 25/08/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về