Bản án về tội đánh bạc số 115/2021/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 115/2021/HS-PT NGÀY 15/07/2021 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 15/7/2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 125/2021/TLPT-HS ngày 21 tháng 5 năm 2021 đối với bị cáo Trần Thị Th, do có kháng cáo của bị cáo Trần Thị Th đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 58/2021/HS-ST ngày 31 tháng 3 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện Q, tỉnh Nghệ An.

- Bị cáo kháng cáo:

Trần Thị Th, sinh ngày 12 tháng 3 năm 1970 tại huyện Q, tỉnh Nghệ An; nơi cư trú: Xóm 10, xã S, huyện Q, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hóa: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Trần Đức B và bà Lê Thị Th; có chồng Hoàng Văn Nh và có 04 con; tiền án, tiền sự: không;

Nhân thân: ngày 26/5/2004 bị Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An xử phạt 06 tháng tù về tội “Buôn lậu” (Bản án số 51/2004/HSPT), chấp hành xong hình phạt ngày 13/6/2011; ngày 14/4/2009 có hành vi đánh bạc được Tòa án nhân dân huyện Q, tỉnh Nghệ An ra Quyết định đình chỉ vụ án do sửa đổi Bộ luật hình sự (Quyết định số 03/2009/HSST-QĐ ngày 27/7/2009); ngày 17/8/2016 bị Công an huyện Q xử phạt vi phạm hành chính về hành vi đánh bạc với số tiền 1.500.000 đồng, đã chấp hành ngày 17/8/2016; ngày 08/11/2018 bị Tòa án nhân dân huyện Q xử phạt 04 tháng tù về tội “Đánh bạc” (bản án số 82/2018/HSST), đã chấp hành xong ngày 08/11/2018. Bị cáo tại ngoại vắng mặt tại phiên tòa và có đơn xét xử vắng mặt.

- Các bị cáo không có kháng cáo và không bị kháng cáo, kháng nghị gồm: Trần Thị Th1, Ngô Thị M, Đồng Thị Th2, Nguyễn Thị L, Ngô Thị M1, Đậu Thị T.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 16/12/2020, Trần Thị Th1, Đồng Thị Th2, Ngô Thị M, Nguyễn Thị L, Ngô Thị M1, Đậu Thị T và Trần Thị Th sử dụng điện thoại nhắn tin cho nhau để ghi số lô, số đề và căn cứ vào kết quả xổ số kiến thiết Miền Bắc mở thưởng vào lúc 18h15 phút hàng ngày để tính thắng thua. Quy định cách đánh và tỷ lệ thắng thua được tính như sau: người chơi chọn 2 chữ số trong dãy số từ 0 đến 9, để đánh đề, lô ... Nếu người chơi trúng 02 số cuối của giải đặc biệt là trúng đề, tiền thưởng gấp 70 lần tiền cược. Nếu trúng 02 số cuối của tất cả các giải thưởng là trúng lô (01 điểm lô trúng sẽ được 80.000 đồng). Chơi lô xiên: người chơi chọn đánh hai đến bốn cặp số (mỗi cặp số đều có hai chữ số), căn cứ vào hai chữ số cuối của tất cả các giải thưởng, nếu các cặp số mà người chơi đánh có trong các giải thưởng thì trúng lô xiên. Trúng lô xiên 2, người chơi được thưởng số tiền gấp 10 lần, trúng lô xiên 3 được thưởng số tiền gấp 40 lần, trúng lô xiên 4 được thưởng số tiền gấp 100 lần. Cụ thể:

1. Hành vi phạm tội của Trần Thị Th1: chiều ngày 16/12/2020, Th1 sử dụng điện thoại di động nhãn hiệu REALME 3PRO, màu xanh, gắn thẻ sim số 0325773825 và điện thoại di động nhãn hiệu REALME 61, màu xanh, gắn thẻ sim số 0398880xxx để nhận và gửi tin nhắn đánh bạc bằng hình thức ghi số đề với Trần Thị Th, Đậu Thị T, Ngô Thị M, Đồng Thị Th2 và Ngô Thị M1, cụ thể:

- Đánh với Trần Thị Th: vào lúc 17h32 phút, Th sử dụng điện thoại di động NOKIA, gắn thẻ sim có số thuê bao 0984xxx455 nhắn 03 tin vào điện thoại di động REALME 61, màu xanh, gắn thẻ sim số 0398880xxx của Thu 12 số lô (16, 61, 93, 18, 81, 44, 33, 99, 09, 90, 27, 22) x 10 điểm 120 điểm (01 điểm = 22.000 đồng) = 2.640.000 đồng; 01 số lô xiên 3 (16, 27, 33) = 100.000 đồng; 43 = số đề (52, 84, 33 x 200.000 đồng; 73, 66, 75, 39 x 100.000 đồng; 00, 89, 98, 43, 34, 02, 63, 57, 56, 77, 24, 16, 61, 46, 37, 07, 70, 52 x 50.000 đồng; 22, 27, 72, 36, 25, 30, 55, 05, 50, 78, 48, 99, 84, 33 x 30.000đ; 99 x 500.00 đồng) = 3.050.000 đồng. Số tiền Th đánh bạc với Th1 5.790.000 đồng, Th trúng thưởng các số lô 16, 33, 09, 99 và số đề 63 với số tiền 8.300.000 đồng. Tổng số tiền Th đánh bạc với Th1 14.090.000 đồng. Số tiền này Th và Th1 chưa thanh toán cho nhau.

- Đánh với Đậu Thị T: vào lúc 17h40 phút, T sử dụng điện thoại di động NOKIA, gắn thẻ sim số 037xxx4070 nhắn tin vào điện thoại di động REALME 3PRO, màu xanh, gắn thẻ sim số 0325773825 của Thu 13 số lô (79, 94, 93, 68, 28, 27, 23, 10, 19, 61 x 10 điểm; 09, 08 x 20 điểm; 80 × 10 điểm) 150 điểm (01 điểm = 22.000 đồng) = 3.300.000 đồng; 02 số lô xiên 2 (93, 27; 14, 94; x 100.000đ)= 200.000 đồng; 02 số lô xiên 3 (94, 27, 93 = 100.000đ; 28, 93, 94 = 50.000 đồng) = 150.000 đồng; tổng 6, 7 = 200.000 đồng; 16 số đề (52 : 200.000 đồng; 16, 61, 68, 86, 88, 81, 18, 25, 97, 14, 49, 94, 98, 86, 77, 78 x 50.000 đồng) = 1.050.000 đồng. Số tiền T đánh bạc với Th1 4.900.000 đồng, T trúng thưởng các số lô 28, 16, 09 = 3.200.000 đồng. Tổng số tiền T đánh bạc với Thu 8.100.000 đồng. Số tiền này T và Th1 chưa thanh toán cho nhau.

- Đánh với Ngô Thị M: vào lúc 17h44 phút, M sử dụng điện thoại di động nhãn hiệu Iphone X, màu trắng, gắn thẻ sim số 0968280xxx gửi 02 tin nhắn vào điện thoại di động nhãn hiệu REALME 3PRO, màu xanh, gắn thẻ sim số 0325773825 của Th1 12 số lô (51 x 35 điểm; 45, 53, 33, 69 x 20 điểm; 04, 40 x 110 điểm; 68, 09, 50, 60 x 15 điểm; 12 x 70 điểm)=465 điểm (01 điểm = 22.000 đồng) = 10.230.000 đồng; 02 số lô xiên 3 (51, 69, 45 = 150.000 đồng; 40, 50, 60 = 200.000 đồng) = 350.000 đồng và 16 số đề (49 = 450.000 đồng; 90 = 250.000 đồng; 94, 19, 91, 89, 98, 59, 95, 39, 93 x 60.000 đồng; 04, 40 x 750.000 đồng;

49, 94, 12 x 100.000 đồng) = 3.040.000 đồng. Số tiền M đánh bạc với Th1 13.620.000 đồng, M trúng thưởng các số lô 33, 40, 69, 09 với số tiền 16.400.000 đồng. Tổng số tiền M đánh bạc với Th1 30.020.000 đồng. Số tiền này M và Th1 chưa thanh toán cho nhau.

- Đánh với Đồng Thị Th2: vào lúc 17h44 phút, Th1 sử dụng điện thoại di - động nhãn hiệu REALME 3PRO, màu xanh, gắn thẻ sim số 0325773825 gửi 05 tin nhắn vào điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A37FW, màu đen, gắn thẻ sim số 0348xxx868 của Th2 07 số lô (12, 51 x 30 điểm; 04, 40, 12 x 60 điểm; 40 = 20 điểm; 40 = 20 điểm) = 280 điểm (01 điểm =21.800 đồng) = 6.104.000 đồng;

xiên 3 (51, 12, 37=200.000 đồng; 57, 61, 10 =50.000 đồng; 12, 40, 71 = 50.000 đồng)=300.000 đồng; xiên 4 (12, 40, 45, 51)= 100.000 đồng; xiên 5 (41, 12, 40, 45, 51) = 100.000 đồng và số đề (99, 49, 52 x 400.000 đồng; 84, 33, 37, 16, 90 x 150.000 đồng; 73, 66, 75, 36, 42, 63, 92, 17, 01, 72 x 50.000 đồng; 04, 40 x 750.000 đồng; 90, 59, 69, 96, 79, 97, 49, 94, 89, 12, 34, 79 x 100.000 đồng; 26 = 150.000 đồng) = 5.300.000 đồng. Số tiền Trần Thị Th1 đánh bạc với Th2 là 11.804.000 đồng, Th1 trúng thưởng đề 63 = 3.500.000 đồng, lộ 40 x 100 điểm = 8.000.000 đồng. Tổng số tiền Th1 đánh bạc với Th2 23.304.000 đồng. Số tiền này Th1 và Th2 chưa thanh toán cho nhau.

- Đánh với Ngô Thị M1: vào lúc 18h02 phút, M1 sử dụng điện thoại di động NOKIA, màu xanh, gắn thẻ sim số 0984014828 gửi 01 tin nhắn vào điện thoại di động REALME 3PRO, màu xanh, gắn thẻ sim số 0325773825 của Th1 09 số lô (40 = 20 điểm; 16, 61, 38, 49, 67, 17, 15, 93 x 10 điểm) = 100 điểm (01 điểm 22.600 đồng) = 2.260.000 đồng; 01 xiên 2 (14, 79) = 150.000 đồng và 32 số đề (17, 01 x 100.000 đồng; 81, 62, 16, 61 x 35.000 đồng; 30, 90, 95, 96, 87, 24, 25, 16, 52, 68, 30, 39, 93, 40, 42, 62, 52, 68, 30, 39, 93, 40, 42, 62, 93, 90 x 25.000 đồng) = 790.000 đồng. Số tiền M1 đánh bạc với Thu 3.200.000 đồng, M1 trúng thưởng các số lô 16, 40, 38, 15 = 4.000.000 đồng. Tổng số tiền M1 đánh bạc với Th1 7.200.000 đồng. Số tiền này M1 và Th1 chưa thanh toán cho nhau.

Như vậy, tổng số tiền Th1 sử dụng để đánh bạc với Trần Thị Th, Đậu Thị T, Ngô Thị M, Đồng Thị Th2 và Ngô Thị M1 trong ngày 16/12/2020 là 82.714.000 đồng.

2. Hành vi phạm tội của Ngô Thị M:

Đánh với Đậu Thị Thu: 30.020.000 đồng.

- Đánh với Đồng Thị Th2: vào lúc 17h30 phút, M sử dụng điện thoại di động Iphone X, màu trắng, gắn thẻ sim số 0968280xxx nhắn tin vào máy điện thoại di động OPPO A37FW, màu đen, gắn thẻ sim số 0348xxx868 của Đồng Thị Th2 08 số lô (51 =35 điểm; 45, 53, 33, 69 x 20 điểm; 04, 40, 12 x 50 điểm) 265 điểm (01 điểm 21.600 đồng) = 5.724.000 đồng; xiên 3 (51, 69, 45) = 150.000 đồng và 14 số đề (49=450.000 đồng; 90 =250.000 đồng; 94, 19, 91, 89, 89, 59, 95, 39, 93 x 60.000 đồng; 04, 40, 12 x 100.000 đồng) = 1.540.000 đồng. Số tiền M đánh bạc với Th2 7.414.000 đồng, M trúng các số lô 33, 69, 40 = 10.400.000 đồng. Tổng số tiền M đánh bạc với Th2 17.814.000 đồng. Số tiền này M và Th2 chưa thanh toán cho nhau.

- Đánh với Nguyễn Thị L: vào lúc 17h44 phút, M nhắn tin vào điện thoại di động Mastel, màu đen, gắn thẻ sim số 0363181398 của L 13 số lô (51 = 35 điểm; 45, 53, 33, 69 x 20 điểm; 04, 40, 12 x 180 điểm; 50, 60, 90, 94, 68, 09 x 15 điểm)=580 điểm (01 điểm = 21.800 đồng) = 12.644.000 đồng; 04 số lô xiên 3 (51, 69, 45 = 150.000 đồng; 12, 04, 45 = 100.000 đồng; 04, 40, 12 = 100.000 đồng; 40, 50, 60 = 100.000 đồng) = 450.000 đồng; và 19 số đề (49 = 450.000 đồng; 90=250.000 đồng; 94, 19, 91, 89, 89, 59, 95, 39, 93 x 60.000 đồng; 04, 40 = 1.000.000 đồng; 00, 12, 49 = 200.000 đồng; 13, 94, 09 = 50.000 đồng) 3.990.000 đồng. Số tiền M đánh bạc với L 17.084.000 đồng, M trúng các số lô 33, 40, 09, 69 = 18.000.000 đồng. Tổng số tiền M đánh bạc với L 35.084.000 đồng. Số tiền này M và L chưa thanh toán cho nhau.

Như vậy, tổng số tiền M đã sử dụng để đánh bạc với Trần Thị Th1, Đồng Thị Th2 và Nguyễn Thị L trong ngày 16/12/2021 là 82.918.000 đồng.

3. Hành vi phạm tội của Đồng Thị Th2:

- Đánh với Trần Thị Th1: 23.304.000 đồng.

- Đánh với Ngô Thị M: 17.814.000 đồng.

- Đánh với Nguyễn Thị Q (xóm 13, xã S, huyện Q, tỉnh Nghệ An): vào lúc 17h47 phút, ngày 16/12/2020, Th2 sử dụng điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE 6PLUS, màu vàng, gắn thẻ sim số 03535xxx11 gửi 21 tin nhắn qua ứng dụng Zalo cho Q: 03 số lô (40, 04 60 điểm; 60 = 120 điểm) = 180 điểm (01 điểm = 22.000 đồng) = 3.960.000 đồng; 05 số lô xiên 3 (51, 69, 45 = 150.000 đồng; 04, 40, 12 = 100.000 đồng; 51, 12, 37 = 200.000 đồng; 57, 61, 10 = 100.000 đồng; 69, 96, 11 =300.000 đồng) = 850.000 đồng; 02 số lô xiên 2 (04, 40 = 250.000 đồng; 54, 81 = 300.000 đồng) = 550.000 đồng; 01 số lô xiên 4 (12, 40, 45, 51) = 60.000 đồng; đầu 9 = 2.000.000 đồng và 30 số đề (49 = 600.000 đồng; 40=400.000 đồng; 60=500.000 đồng; 32=200.000 đồng; 99,52 =600.000 đồng; 04, 40 x 650.000 đồng; 49, 16, 90 x 150.000 đồng; 69, 96, 11x 200.000 đồng; 74 = 300.000 đồng; 26 =100.000 đồng; 75, 57, 65 x 120.000 đồng; 56, 14, 94 x 400.000 đồng; 44, 79, 97 x 250.000 đồng; 77, 99, 55 x 200.000 đồng; 16, 61 = 300.000 đồng) = 8.000.000 đồng. Số tiền Th2 đánh bạc với Q 15.420.000 đồng, Th2 trúng lô 40 – 60 điểm = 4.800.000 đồng. Tổng số tiền Th2 đánh bạc với Q là 20.220.000 đồng. Số tiền này Th2 và Q chưa thanh toán cho nhau.

- Vào lúc 17h52 phút, ngày 16/12/2020, Th2 nhắn tin vào số thuê bao 0357483463 của một người tên B, lưu trong danh bạ là “Ch B”: lô 60 = 70 điểm; xiên 2 (43, 38) = 200.000 đồng; và 12 số đề (60 = 500.000 đồng; 32 = 200.000 đồng; 47 = 100.000 đồng; 74 = 300.000 đồng; 16, 61 = 500.000 đồng; 11, 66 = 200.000 đồng; 96 200.000 đồng; 02, 20, 60 180.000 đồng) = 2.180.000 đồng.

Tổng số tiền Th2 nhắn tin cho B 3.920.000 đồng. Tuy nhiên, Th2 không công nhận chuyển tin nhắn cho B để đánh bạc mà chỉ gửi số tin nhắn để tính kết quả thắng thua ngày hôm sau.

Như vậy, tổng số tiền Th2 đã sử dụng để đánh bạc với Trần Thị Th1, Ngô Thị M và Nguyễn Thị Q trong ngày 16/12/2021: 61.338.000 đồng.

4. Hành vi phạm tội của Nguyễn Thị L: ngày 16/12/2020, L sử dụng điện thoại di động nhãn hiệu Mastel, màu đen, gắn thẻ sim số 0363181398 nhắn tin đánh bạc cùng Ngô Thị M với số tiền là 35.084.000 đồng.

5. Hành vi phạm tội của Ngô Thị M1: ngày 16/12/2020, M1 sử dụng chiếc điện thoại di động, nhãn hiệu NOKIA, màu xanh, gắn thẻ sim số 0984014828 nhắn tin đánh bạc cùng Trần Thị Th1 với số tiền là 7.200.000 đồng.

6. Hành vi phạm tội của Đậu Thị T: ngày 16/12/2020, T sử dụng điện thoại di động nhãn hiệu Nokia, màu đen, gắn thẻ sim số 037xxx4070 nhắn tin đánh bạc cùng Trần Thị Th1 với số tiền là 8.100.000 đồng.

7. Hành vi phạm tội của Trần Thị Th: ngày 16/12/2020, Th sử dụng điện thoại di động nhãn hiệu Nokia, màu đen, gắn thẻ sim số 0984xxx455 đánh bạc cùng Trần Thị Th1 với số tiền là 14.090.000 đồng. Lúc 21h15 phút ngày 16/12/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Nghệ An ra Lệnh khám xét khẩn cấp và Lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp đối với Trần Thị Th1 và Đồng Thị Th2, thu giữ 04 điện thoại di động.

Trong các ngày 17, 23, 24 tháng 12/2020, Nguyễn Thị L, Ngô Thị M, Trần Thị Th, Đậu Thị T và Ngô Thị M1 đến Công an tỉnh Nghệ An đầu thú giao nộp 05 điện thoại di động.

Vật chứng thu giữ của vụ án:

- 01 chiếc ĐTDĐ nhãn hiệu Realme 61, màu xanh, gắn thẻ sim số thuê bao 0398880xxx; 01 chiếc ĐTDĐ nhãn hiệu Realme 3 Pro, màu xanh, gắn thẻ sim số thuê bao 0325773825 của Trần Thị Th1, đã qua sử dụng;

- 01 chiếc ĐTDĐ nhãn hiệu Oppo A37FW, màu đen, gắn thẻ sim số thuê bao 0348xxx868; 01 chiếc ĐTDĐ nhãn hiệu Iphone 6 Plus, màu vàng, gắn thẻ sim số thuê bao 03535xxx11 của Đồng Thị Th2, đã qua sử dụng;

- 01 chiếc ĐTDĐ nhãn hiệu Iphone X, màu trắng, gắn thẻ sim số thuê bao 0968280xxx của Ngô Thị M, đã qua sử dụng;

- 01 chiếc ĐTDĐ nhãn hiệu Mastel, màu đen, loại bàn phím, không gắn thẻ sim của Nguyễn Thị L, đã qua sử dụng;

- 01 chiếc ĐTDĐ nhãn hiệu Nokia, màu xanh, loại bàn phím, không gắn thẻ sim của Ngô Thị M1, đã qua sử dụng:

- 01 chiếc ĐTDĐ nhãn hiệu Nokia, màu đen, loại bàn phím, gắn thẻ sim số thuê bao 037xxx4070 của Đậu Thị T, đã qua sử dụng:

- 01 chiếc ĐTDĐ nhãn hiệu Nokia, màu đen, loại bàn phím, gắn thẻ sim số thuê bao 0984xxx455 của Trần Thị Th, đã qua sử dụng.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 58/2021/HS-ST ngày 31/3/2021, Tòa án nhân dân huyện Q, tỉnh Nghệ An quyết định:

- Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 321; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 54; Điều 58; Điều 65 của Bộ luật hình sự; xử phạt các bị cáo: Trần Thị Th1 và Ngô Thị M mỗi bị cáo 24 (hai mươi tư) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 48 (bốn mươi tám) tháng; Đồng Thị Th2 18 (mười tám) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 36 (ba mươi sau) tháng. Về tội “Đánh bạc”.

- Khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 58; Điều 65 Bộ luật hình sự; xử phạt Nguyễn Thị L 12 (mười hai) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 24 (hai mươi tư) tháng về tội “Đánh bạc”.

- Khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 58 Bộ luật hình sự;

xử phạt bị cáo Trần Thị Th 07 (bảy) tháng tù, về tội “Đánh bạc”.

- Khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 58; Điều 36 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Đậu Thị T 21 (hai mươi mốt) tháng cải tạo không giam giữ, về tội “Đánh bạc”.

- Khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 58; Điều 36 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Ngô Thị M1 21 (hai mươi mốt) tháng cải tạo không giam giữ, về tội “Đánh bạc”.

Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên về xử L vật chứng, án phí và quyền kháng cáo.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 02/4/2021, bị cáo Trần Thị Th làm đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và cho bị cáo được cải tạo ngoài xã hội. Với lý do: Bản án Tòa án nhân dân huyện Q xử phạt 07 tháng tù là quá nặng. Vì bản thân bị cáo bị bệnh xương khớp và viêm đa khớp, hoàn cảnh khó khăn, chồng bị tai biến cả gút với khớp nhồi máu não. Các con đi làm ăn xa để hai cháu nhỏ cho bị cáo chăm sóc. Nếu bị cáo đi tù thì không có ai chăm sóc chồng và các cháu.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355 không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm. Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 58 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Trần Thị Th 07 (bảy) tháng tù, về tội “Đánh bạc”.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa hôm nay bị cáo Trần Thị Th vắng mặt và có đơn xin vắng mặt. Căn cứ vào Điều 351 Bộ luật tố tụng hình sự Tòa án đưa vụ án ra xét xử vắng mặt bị cáo.

[2] Xét hành vi phạm tội của bị cáo thấy:

Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của các bị cáo khác trong vụ án, các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án nên đủ căn cứ xác định: trong khoảng thời gian từ 17h30 phút đến 18h05 phút, ngày 16/12/2020, bị cáo đã dùng điện thoại di động nhắn tin đánh bạc với Trần Thị Th1 với số tiền 14.090.000 đồng. Vì vậy, hành vi phạm tội của bị cáo Trần Thị Th đã bị Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt về tội “Đánh bạc” quy định tại khoản 1 Điều 321 có có căn cứ.

[3] Xét nội dung kháng cáo của bị cáo thấy:

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Đánh bạc là một tệ nạn xã hội, không những đã trực tiếp xâm hại đến trật tự công cộng mà là nguyên nhân phát sinh tệ nạn xã hội khác. Bản thân bị cáo nhận thức rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn thực hiện, gây mất ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.

Đối với Trần Thị Th có nhân thân xấu, đã từng nhiều lần bị pháp luật xử lý nhưng vẫn không lấy đó làm bài học mà tiếp tục phạm tội. Vì vậy, cần bác kháng cáo của bị cáo xin được áp dụng hình phạt tù cho hưởng án treo hoặc hình phạt cải tạo không giam giữ để được cải tạo, giáo dục tại địa phương, mà cần phải áp dụng hình phạt tù, cách ly khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ điều kiện giáo dục bị cáo thành người có ích. Với hành vi phạm tội của bị cáo, Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt 07 tháng tù là có căn cứ. Tuy nhiên, xét bị cáo không có tình tiết tăng nặng, có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; so với các bị cáo khác trong vụ án, số tiền đánh bạc không lớn, hoàn cảnh gia đình khó khăn nên chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo, giảm nhẹ hình phạt, xử phạt ở mức đầu khung hình phạt tù quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự là có căn cứ.

[4] Về án phí: bị cáo kháng cáo được chấp nhận nên không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị Hội đồng xét xử không xem xét.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự. Chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo sửa Bản án sơ thẩm theo hướng giảm nhẹ hình phạt tù;

2. Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Trần Thị Th 06 (sáu) tháng tù về tội “Đánh bạc”. Thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày bị cáo chấp hành án.

3. Về án phí: căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo Trần Thị Th không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

4. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lục pháp luật kể từ ngày tuyên án./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

77
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội đánh bạc số 115/2021/HS-PT

Số hiệu:115/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;