Bản án về tội đánh bạc số 10/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THANH S, TỈNH PHÚ THỌ

BẢN ÁN 10/2023/HS-ST NGÀY 28/03/2023 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 28 tháng 3 năm 2023. Tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thanh S , tỉnh Phú Thọ. Tòa án nhân dân huyện Thanh S mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 04/2023/TLST-HS ngày 24/02/2023. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 04/2023/QĐXXST- HS ngày 16 tháng 3 năm 2023 đối với các bị cáo.

1. Họ và tên: Trần Văn T - Sinh ngày 13/8/1983, tại huyện Thanh S , tỉnh Phú Thọ.

Nơi cư trú: Khu Lịch 1, xã Hương Cần, huyện Thanh S , tỉnh Phú Thọ; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lái xe; Trình độ văn hóa lớp: 09/12.

Con ông: Trần Văn Qu – SN 1952. Con bà: Vũ Thị Ph (Đã chết).

Anh chị em ruột: Có 04 anh, em, lớn nhất, sinh năm 1979, nhỏ nhất sinh năm 1991, bị cáo là thứ hai.

Vợ: Đào Thị Thanh H – Sinh năm 1985.

Con: Có 03 con, con lớn sinh năm 2005, con nhỏ sinh năm 2021.

Hiện nay bố, vợ, con bị cáo đang sinh sống tại xã Hương cần, huyện Thanh S , tỉnh Phú Thọ.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 27/11/2022 đến ngày 03/12/2022 được thay đổi biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Hiện nay bị cáo đang thi hành lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú tại xã Hương cần, huyện Thanh S , tỉnh Phú Thọ (Có mặt).

2. Họ và tên: Nguyễn Văn Đ- Sinh ngày 04/6/1982, tại huyện Thanh S , tỉnh Phú Thọ Nơi cư trú: Khu 11, xã Tất Th, huyện Thanh S, tỉnh Phú Thọ; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa lớp: 04/12.

Con ông: Nguyễn Quang B (Đã chết). Con bà: Trần Thị Y (Đã chết).

Anh chị em ruột: Có 03 anh, em, lớn nhất sinh năm 1976, bị cáo là con nhỏ nhất Vợ: Vũ Thị H - Sinh năm 1983 Con: Có 02 con, lớn nhất sinh năm 2004, nhỏ nhất sinh năm 2013.

Hiện nay vợ, con bị cáo đang sinh sống tại xã Tất Th, huyện Thanh S, tỉnh Phú Thọ.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 27/11/2022 đến ngày 03/12/2022 được thay đổi biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Hiện nay bị cáo đang thi hành lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú tại xã Tất Th, huyện Thanh S, tỉnh Phú Thọ (Có mặt).

3. Họ và tên: Đinh Văn S- Sinh ngày 08/12/1962, tại huyện Thanh S , tỉnh Phú Thọ Nơi cư trú: Khu 7, xã Cự Th, huyện Thanh S, tỉnh Phú Thọ; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Mường; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa lớp: 07/10.

Con ông: Đinh Quý Đ (Đã chết). Con bà: Đinh Thị Ch (Đã chết).

Anh chị em ruột: Có 06 anh, em, bị cáo là con lớn nhất, nhỏ nhất sinh năm 1976 Vợ: Đinh Thị M - Sinh năm 1960 Con: Có 03 con, lớn nhất sinh năm 1981, nhỏ nhất sinh năm 1991.

Hiện nay vợ, con bị cáo đang sinh sống tại xã Cự Th, huyện Thanh S, tỉnh Phú Thọ.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 27/11/2022 đến ngày 03/12/2022 được thay đổi biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Hiện nay bị cáo đang thi hành lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú tại xã Cự Th, huyện Thanh S, tỉnh Phú Thọ (Có mặt).

4. Họ và tên: Đặng Thị Kim Th - Sinh ngày 20/7/1986, tại huyện Thanh S , tỉnh Phú Thọ Nơi cư trú: Khu Lịch 1, xã Hương Cần, huyện Thanh S , tỉnh Phú Thọ; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa lớp: 12/12.

Con ông: Đặng Văn B - SN 1966. Con bà: Bùi Thị Th - SN 1968.

Anh chị em ruột: Có 02 chị, em, bị cáo là con lớn, nhỏ nhất sinh năm 1989, Chồng: Trịnh Minh H - Sinh năm 1977 (Đã ly hôn) Con: Có 01 con sinh năm 2009.

Hiện nay bố, mẹ, con bị cáo đang sinh sống tại xã Hương C, huyện Thanh S, tỉnh Phú Thọ.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 27/11/2022 đến ngày 03/12/2022 được thay đổi biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Hiện nay bị cáo đang thi hành lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú tại xã Hương Cần, huyện Thanh S , tỉnh Phú Thọ (Có mặt).

5. Họ và tên: Đinh Văn M - Sinh ngày 02/3/1958, tại huyện Thanh S, tỉnh Phú Thọ.

Nơi cư trú: Khu Gò T, xã Cự Th, huyện Thanh S , tỉnh Phú Thọ; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Mường; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa lớp: 09/10.

Con ông: Đinh Văn C (Đã chết). Con bà: Đinh Thị K - SN 1932.

Anh chị em ruột: Có 04 chị, em, lớn nhất sinh năm 1954, nhỏ nhất sinh năm 1962, bị cáo là con thứ hai.

Vợ: Đinh Thị T - Sinh năm 1959 Con: Có 04 con, lớn nhất sinh năm 1982, con nhỏ nhất đã chết.

Hiện nay mẹ, vợ, con bị cáo đang sinh sống tại xã Cự Th, huyện Thanh S, tỉnh Phú Thọ.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 27/11/20222 đến ngày 03/12/2022 được thay đổi biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Hiện nay bị cáo đang thi hành lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú tại xã Cự T, huyện Thanh S, tỉnh Phú Thọ (Có mặt).

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

1. Anh Đinh văn Gi - SN 1991 (Có mặt) Địa chỉ: Khu 7, xã Cự Th, huyện Thanh S, tỉnh Phú Thọ 2. Chị Đào Thị Thanh H - SN 1985 (Có mặt) Địa chỉ: Khu L 1, xã Hương C, huyện Thanh S, tỉnh Phú Thọ 3. Chị Vũ Thị H - SN 1983 (Có mặt) Địa chỉ: Khu 11, xã Tất Th, huyện Thanh S, tỉnh Phú Thọ

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12 giờ 00 phút, ngày 27/11/2022, Trần Văn T , sinh năm 1983, thường trú: khu Lịch 1, xã Hương Cần, huyện Thanh S , tỉnh Phú Thọ gọi điện thoại cho Đặng Thị Kim Th, sinh năm 1986, thường trú: khu Lịch X, xã Hương C rủ Th đánh bạc thì Th đồng ý. Sau đó, T gọi điện thoại cho Nguyễn Văn Đồng, sinh năm 1982, thường trú: khu 11, xã Tất Thắng, huyện Thanh S , tỉnh Phú Thọ hỏi Đồng: “Có chỗ nào đánh chắn không” thì Đồng trả lời: “Để anh xem có gì anh gọi”. Đến khoảng 14 giờ cùng ngày, Đồng gọi lại cho T bảo: “Có chân xuống đi” và hẹn gặp T ở khu vực ao cá gần UBND xã Cự Thắng. Sau đó vì quen biết Đinh Văn M, sinh năm 1958, thường trú: khu Gò Tre, xã Cự Thắng, huyện Thanh S , tỉnh Phú Thọ nên Đồng gọi điện cho M hỏi: “Cho hội con vào chơi chắn một lúc” thì M đồng ý, bảo: “Ừ vào mà chơi”. Tiếp đó, Đồng gọi điện thoại rủ Đinh Văn S , sinh năm 1962, thường trú: khu 7, xã Cự Thắng, huyện Thanh S , tỉnh Phú Thọ đánh bạc thì S đồng ý và bảo S đi đến nhà M . Sau đó, Đồng điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Cup, màu trắng, BKS: 19AB-015.xx đi từ nhà ở khu 11, xã Tất Thắng, huyện Thanh S xuống khu vực ao cá gần UBND xã Cự Thắng. Khi đến khu vực ao cá, Đồng gặp T điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Vision, màu S : xanh đen, BKS: 19C1-411.xx chở sau Th thì Đồng dẫn T , Th vào nhà M . Do biết nhà M từ trước nên S tự đi đến nhà M . Khi đến nhà M thì chỉ có M ở nhà. Lúc này Đồng, T , S , Th ngồi uống nước ở phòng khách nhà M . M đi xuống bếp lấy một chiếc chiếu nhựa có hoa văn nhiều màu trên giường rồi trải xuống nền bếp, lấy trong ngăn kéo tủ kê ở bếp 01 bộ bài chắn gồm 100 quân bài, 01 bộ bát đĩa sứ rồi để xuống chiếu. Sau đó, Đồng, T , S , Th đi xuống bếp nhà M và ngồi trên chiếc chiếu M đã trải chơi đánh “Chắn” sát phạt nhau bằng tiền Việt Nam đồng. Quá trình ngồi đánh bạc thì Đồng, T , S , Th thống nhất nếu ván nào ù to thì người thắng sẽ để ra 10.000đ (Mười nghìn đồng) để đến khi kết thúc đánh bạc thì sẽ đưa số tiền đó cho M (việc Đồng, T , S Th thống nhất khi kết thúc chơi đánh bạc cho M tiền thì M không biết). Đến khoảng 17 giờ 00 phút cùng ngày, khi các đối tượng đang đánh bạc thì bị Công an huyện Thanh S bắt quả tang thu giữ trên chiếu bạc số tiền 7.680.000 đồng (Bảy triệu sáu trăm tám mươi nghìn đồng); 100 quân bài chắn, 01 bộ bát đĩa, 01 chiếu nhựa có nhiều hoa văn, 05 điện thoại di động.

Cùng ngày, Cơ quan điều tra - Công an huyện Thanh S tiến hành khám xét chỗ ở của Đinh Văn M, sinh năm 1958 tại khu Gò Tre, xã Cự Thắng, huyện Thanh S , tỉnh Phú Thọ. Quá trình khám xét thu giữ 01 xe mô tô nhãn hiệu Exciter, BKS: 19M1-049.xx ; 01 xe mô tô Vision, BKS: 19C1-411.xx ; 01 xe mô tô cúp, BKS: 19AB-015.xx . Ngoài ra không thu giữ đồ vật gì khác.

Tại cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Thanh S , các đối tượng Trần Văn T , Nguyễn Văn Đồng, Đặng Thị Kim Th và Đinh Văn S đã khai nhận hành vi đánh bạc được thua bằng tiền như đã nêu trên. Khi tham gia đánh bạc các bị can khai nhận: Trần Văn T sử dụng số tiền 3.520.000 đồng;

Nguyễn Văn Đồng sử dụng số tiền 2.700.000 đồng; Đặng Thị Kim Th sử dụng số 560.000 đồng; Đinh Văn S sử dụng số tiền 900.000 đồng. Quá trình đánh bạc các đối tượng chưa kiểm đếm nên không biết thắng thua ra sao. Tổng số tiền các đối tượng khai nhận sử dụng để đánh bạc phù hợp với số tiền mà Cơ quan CSĐT Công an huyện Thanh S đã chứng minh và thu giữ được là 7.680.000 đồng. ). Đinh Văn M mặc dù không tham gia đánh bạc nhưng có hành vi dùng nhà ở của mình cho các đối tượng đánh bạc, đồng thời là người chuẩn bị công cụ (chải chiếu, cung cấp bài chắn, bát, đĩa) cho các đối tượng đánh bạc.

Đối với cách thức chơi, các đối tượng cùng khai nhận đối với hình thức đánh “Chắn”: quy ước về cách chơi, xác định thắng thua như sau: Người chơi sử dụng bộ bài chắn gồm 100 quân được chia ra làm ba chất văn, vạn, sách.

Quân bài chi chi không phân theo chất. Các quân bài khác chia theo thứ tự số nhị, tam, tứ, ngũ, lục, thất, bát, cửu. Khi chơi tối đa chỉ được bốn người chơi.

“Chắn” là hai quân bài đồng số và đồng chất ví dụ như (cửu vạn, cửu vạn), (bát sách, bát sách),… Cạ là hai quân bài cùng số nhưng khác chất ví dụ như (cửu vạn, cửu sách), (bát sách, bát văn),… Người cầm cái chia cho mỗi người chơi 19 quân bài, còn người cầm cái được 20 quân bài để đánh đầu tiên. Số quân bài còn lại gọi là nọc được để trong bát cho người chơi bốc. Mỗi lần người chơi đánh một quân bài và người chơi sau có thể lựa chọn để ăn quân bài đó hoặc bốc một quân bài dưới nọc. Mục đích của người chơi là để bài của mình không lẻ quân nào thì được gọi là “Ù”. Ù xuông thì mỗi người chơi phải trả cho người ù số tiền là 20.000 đồng. Ù có lèo thì mỗi người chơi phải trả cho người ù số tiền là 40.000 đồng (Ù có lèo là bài người chơi phải đủ bộ cửu vạn và bát sách và một đôi chi chi). Ù bạch thủ chi thì mỗi người chơi phải trả cho người ù số tiền là 50.000 đồng (Ù bạch thủ chi là khi người chơi có 5 chắn, 4 cạ và một con chi chi). Khi người chơi ù hai ván liên tiếp nhau thì mỗi người chơi phải trả cho người ù số tiền là 10.000 đồng.

Ngày 03/12/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thanh S đã ra Quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với Đinh Văn M, Trần Văn T , Nguyễn Văn Đồng, Đặng Thị Kim Th và Đinh Văn S về tội Đánh bạc theo quy định tại khoản 1, Điều 321 Bộ luật hình sự. Các bị can bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú. Các quyết định khởi tố bị can đã được Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh S phê chuẩn để điều tra.

Quá trình điều tra các bị can đã thừa nhận hành vi đánh bạc được thua bằng tiền như đã nêu trên, lời khai của các bị can là phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang của Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an huyện Thanh S lập hồi 17 giờ 00 phút ngày 27/11/2022 cùng các tài liệu chứng cứ khác được Cơ quan điều tra Công an huyện Thanh S thu thập, xác lập có trong hồ sơ vụ án.

* Vật chứng, đồ vật và tài sản thu giữ:

Cơ quan điều tra đã thu giữ: 7.680.000 đồng (Bảy triệu sáu trăm tám mươi nghìn đồng); 100 quân bài chắn; 01 bát, đĩa sứ màu trắng; 01 chiếc chiếu nhựa có nhiều hoa văn, đây là số tiền và các đồ vật các bị can sử dụng để đánh bạc; điện thoại di động nhãn hiệu Nokia, màu đen, bàn phím vật lý đã qua sử dụng, bên trong lắp sim số 0398195058 là của bị can Đinh Văn M; điện thoại di động nhãn hiệu Vivo, màu xanh, màn hình cảm ứng đã qua sử dụng, bên trong lắp sim số 0985099444 là của bị can Trần Văn T ; điện thoại di động nhãn hiệu Realme C11, màu đen, màn hình cảm ứng đã qua sử dụng, bên trong lắp sim số 0379553851 là của bị can Nguyễn Văn Đồng; điện thoại di động nhãn hiệu Itel, màu đen, bàn phím vật lý đã qua sử dụng, bên trong lắp sim số 0378052177 là của bị can Đinh Văn S ; điện thoại di động nhãn hiệu Iphone, màu trắng, màn hình cảm ứng đã qua sử dụng, bên trong lắp sim số 0966706616 là của bị can Đặng Thị Kim Th. Cơ quan CSĐT xác định các bị can sử dụng những chiếc điện thoại nêu trên để liên lạc mượn địa điểm và rủ nhau đi đánh bạc ngày 27/11/2022. Các vật chứng trên được chuyển đến kho vật chứng của Chi cục thi hành án dân sự huyện Thanh chờ xử lý.

Đối với xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter, màu S : xanh trắng, BKS:

19M1-049.xx là tài sản hợp pháp của Đinh Văn Giang, sinh năm: 1991, thường trú: khu 7, xã Cự Thắng, huyện Thanh S , tỉnh Phú Thọ (Giang là con đẻ của bị can Đinh Văn S); xe mô tô nhãn hiệu Honda Vision, màu S : xanh đen, BKS: 19C1-411.xx là tài sản hợp pháp của chị Đào Thị Thanh Huệ, sinh năm:

1985, thường trú: khu Lịch 1, xã Hương Cần, huyện Thanh S , tỉnh Phú Thọ (Huệ là vợ của bị can Trần Văn T ); xe mô tô nhãn hiệu Honda Cup, màu trắng, BKS: 19AB-015.xx là tài sản hợp pháp của Vũ Thị Hồng, sinh năm:

1983, thường trú: khu 11, xã Tất Thắng, huyện Thanh S , tỉnh Phú Thọ (Hồng là vợ của bị can Nguyễn Văn Đồng).Những chiếc xe mô tô trên là tài sản hợp pháp của Gi, Hu, H dùng đi lại hàng ngày. Ngày 27/11/2022, S , T và S sử dụng các xe mô tô trên để đi đánh bạc ngày 27/11/2022 thì Gi, Hu, H không biết. Do vậy, ngày 12/12/2022, Cơ quan CSĐT Công an huyện Thanh S đã ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại 03 (ba) xe mô tô trên cho chủ sở hữu hợp pháp là Giang, Huệ, Hồng là đúng quy định của pháp luật.

Bản cáo trạng số: 05/CT-VKS -ThS ngày 22/02/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh S, tỉnh Phú Thọ. Truy tố bị cáo Trần Văn T ; Nguyễn Văn Đồng; Đinh Văn S ; Đinh Văn M; Đặng Thị Kim Th về tội “Đánh bạc” theo Khoản 1 Điều 321 - Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa hôm nay Kiểm sát viên – Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh S vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố các bị cáo Trần Văn T ; Nguyễn Văn Đồng; Đinh Văn S ; Đinh Văn M; Đặng Thị Kim Th; về tội “Đánh bạc” theo Khoản 1 Điều 321 - Bộ luật Hình sự và đề nghị Hội đồng xét xử:

Căn cứ vào: Khoản 1, Khoản 3 Điều 321, điểm i, điểm s, Khoản 1 Điều 51, Điều 38 - Bộ luật Hình sự.

1 - Xử phạt bị cáo: Trần Văn T từ 9 đến 12 tháng tù được khấu trừ 06 ngày bị tạm giữ từ ngày 27/11/2022 đến ngày 03/12/2022. Bị cáo T còn phải chấp hành từ 8 tháng 24 ngày đến 11 tháng 24 ngày tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt đi thi hành án.

Căn cứ vào: Khoản 1, Khoản 3 Điều 321, điểm i, điểm s, Khoản 1 Điều 51, Khoản 2 Điều 51, Điều 38 - Bộ luật Hình sự.

2 - Xử phạt bị cáo: Nguyễn Văn Đồng từ 6 đến 9 tháng tù được khấu trừ 06 ngày bị tạm giữ từ ngày 27/11/2022 đến ngày 03/12/2022. Bị cáo Đồng còn phải chấp hành từ 5 tháng 24 ngày đến 8 tháng 24 ngày tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt đi thi hành án.

Căn cứ vào: Khoản 1, Khoản 3 Điều 321, điểm i, điểm s, Khoản 1 Điều 51, Khoản 2 Điều 51, Điều 65 - Bộ luật Hình sự.

3 - Xử phạt bị cáo: Đinh Văn S từ 9 đến 12 tháng tù cho bị cáo hưởng án treo, thời gian thử thách từ 18 đến 24 tháng, thời hạn thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. Giao bị cáo S cho Ủy ban nhân dân xã Cự Thắng, huyện Thanh S , tỉnh Phú Thọ và gia đình giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách.

4 - Xử phạt bị cáo: Đinh Văn M từ 9 đến 12 tháng tù cho bị cáo hưởng án treo, thời gian thử thách từ 18 đến 24 tháng, thời hạn thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. Giao bị cáo M cho Ủy ban nhân dân xã Cự Thắng, huyện Thanh S , tỉnh Phú Thọ và gia đình giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách.

Phạt bổ sung bị cáo Trần Văn T ; bị cáo Nguyễn Văn Đồng; bị cáo Đinh Văn S ; bị cáo Đinh Văn M mỗi bị cáo từ 15.000.000đ đến 20.000.000đ theo Khoản 3 Điều 321 – BLHS để sung quỹ Nhà nước.

Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 321, điểm i, điểm s, Khoản 1 Điều 51, Khoản 2 Điều 51, Điều 35 - Bộ luật Hình sự.

5 - Xử phạt bị cáo: Đặng Thị Kim Th từ 20.000.000đ đến 25.000.000đ để sung quỹ Nhà nước Về vật chứng vụ án: Căn cứ vào Điều 47 - Bộ luật Hình sự; Điều 106 - Bộ luật tố tụng Hình sự.

Tịch thu: 100 quân bài chắn; 01 bát, đĩa sứ màu trắng đã cũ; 01 chiếc chiếu nhựa có nhiều hoa văn đã cũ để tiêu hủy. Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 16/3/2023, tại Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Thanh S , tỉnh Phú Thọ.

Tịch thu số tiền 7.680.000đ (Bảy triệu sáu trăm tám mươi nghìn đồng) số tiền này đã được chuyển vào tài khoản: 3949.0.1054594.00000 của Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Thanh S ngày 16/3/2022 để xung quỹ Nhà nước.

Tịch thu của bị cáo Trần Văn T 01 điện thoại di động nhãn hiệu Vivo màu xanh, màn hình cảm ứng đã qua sử dụng, góc màn hình bị vỡ (Không lên nguồn); thu của bị cáo Nguyễn Văn Đồng 01 điện thoại di động nhãn hiệu Realme C11, màu đen, màn hình cảm ứng đã qua sử dụng, góc màn hình bị vỡ (Không lên nguồn); thu của bị cáo Đinh Văn S 01 điện thoại di động nhãn hiệu Itel, màu đen, bàn phím vật lý đã qua sử dụng (Không lên nguồn); thu của bị cáo Đặng Thị Kim Th 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu trắng, màn hình cảm ứng đã qua sử dụng (Không lên nguồn); thu của bị cáo Đinh Văn M 01 điện thoại di động nhãn hiệuNokia, màu đen, bàn phím vật lý đã qua sử dụng, góc màn hình bị vỡ (Không lên nguồn) để bán sung quỹ Nhà nước.

Tịch thu của bị cáo Trần Văn T 01 sim điện thoại số 0985.099.444;

thu của bị cáo Nguyễn Văn Đồng 01 sim điện thoại số 0379.553.851; thu của bị cáo Đinh Văn S 01 sim điện thoại số 0378.052.177; thu của bị cáo Đặng Thị Kim Th 01 sim điện thoại số 0966.706.616; thu của bị cáo Đinh Văn M 01 sim điện thoại số 0398.195.058 để tiêu hủy.

T bộ số vật chứng vụ án trên được bàn giao theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 16/3/2023 tại Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Thanh S , tỉnh Phú Thọ.

Xác nhận Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thanh S trả lại tài sản cho các chủ sở hữu gồm:

Trả cho anh Đinh Văn Giang 01 bản phô tô chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số 012183 mang tên Đinh Văn Giang BKS 19M1 - 04927; 01 bản phô tô chứng nhận bảo hiểm bắt buộc TNDS của chủ xe mô tô BKS 19M1 – 04927; 01 bản phô tô căn cước công dân mang tên Đinh Văn Giang; Trả cho chị Đào Thị Thanh Huệ 01 bản phô tô chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số 003424 mang tên Đào Thị Thanh Huệ BKS 19C1 – 411.56; 01 bản phô tô chứng nhận bảo hiểm bắt buộc TNDS của chủ xe mô tô BKS 19C1 – 411.56; 01 bản phô tô căn cước công dân mang tên Đào Thị Thanh Huệ; Trả cho chị Vũ Thị Hồng 01 bản phô tô chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số 029522 mang tên Vũ Thị Hồng BKS 19AB – 015.42; 01 bản phô tô căn cước công dân mang tên Vũ Thị Hồng. T bộ vật chứng trên được trao trả theo biên bản trao trả ngày 11/12/2022.

Trả cho chị Đào Thị Thanh Huệ 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Vi sion, màu S xanh đen, BKS 19C1 – 411.56 xe cũ đã qua sử dụng; Trả cho anh Đinh Văn Giang 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter, màu S xanh, trắng, BKS 19M1 – 04927; Trả cho chị Vũ Thị Hồng 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Cup, màu trắng, BKS 19AB – 015.42. T bộ vật chứng trên được trao trả theo biên bản trao trả tài sản ngày 12/12/2022.

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án và đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, T diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, lời khai của bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Nội dung vụ án: Tại phiên toà hôm nay các bị cáo Trần Văn T ;

Nguyễn Văn Đồng; Đinh Văn S ; Đinh Văn M; Đặng Thị Kim Th đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh S đã truy tố, không oan sai. Lời nhận tội của các bị cáo là phù hợp với vật chứng thu được và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó đã đủ cơ sở kết luận:

Từ 14 giờ 30 phút ngày 27/12/2022. Tại nhà ở của bị cáo Đinh Văn M, sinh năm 1958 thuộc xóm Gò Tre, xã Cự Thắng huyện Thanh S , tỉnh Phú Thọ cáo bị cáo M đã cho các bị cáo Trần Văn T , sinh năm 1993; bị cáo Đặng Thị Kim Th, sinh năm 1986 đều trú tại khu Lịch 1 xã Hương Cần; bị cáo Nguyễn Văn Đồng, sinh năm 1982 ở khu 11, xã Tất Thắng; bị cáo Đinh Văn S , sinh năm 1962 ở khu 7 xã Cự Thắng, huyện Thanh S , tỉnh Phú Thọ sử dụng nhà ở của mình và cung cấp chiếu, quân bài, bát, đĩa cho các bị cáo trên để thực hiện hành vi đánh bạc dưới hình thức chơi “Chắn” được thua bằng tiền với tổng số tiền các bị cáo sử dụng vào mục đích đánh bạc là 7.680.000đ (Bảy triệu sáu trăm tám mươi ngàn đồng). Hành vi đánh bạc của các bị cáo đã bị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Thanh S phát hiện bắt giữ, cần xử lý theo quy định tại Khoản 1 Điều 321 – Bộ luật Hình sự.

Khoản 1 Điều 321 – Bộ luật Hình sự quy định.

“1. Người nào đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật trị giá từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 5.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc hành vi quy định tại Điều 322 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm” Xét về tính chất vụ án, hành vi phạm tội, tính chất mức độ nguy hiểm, vai trò phạm tội của các bị cáo trong vụ án Hội đồng xét xử nhận thấy: Xét về tính chất vụ án thuộc tội phạm ít nghiêm trọng, nhưng hành vi đánh bạc của các bị cáo Trần Văn T ; Nguyễn Văn Đồng; Đinh Văn S ; Đặng Thị Kim Th là lỗi cố ý trực tiếp, đây là hành vi hiểm cho xã hội, gây mất an ninh trật tự, an T xã hội, hành vi đánh bạc của các bị cáo đã xâm phạm đến trật tự công cộng và nếp sống văn minh tại địa phương, làm ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế của gia đình bị cáo và nhiều gia đình khác. Trên địa bàn huyện Thanh S hiện nay các hình thức đánh bạc đang có chiều hướng ra tăng, diễn ra ở nhiều nơi, mặc dù nhiều vụ án đánh bạc đã được đưa ra xét xử nhằm tuyên truyền, giáo dục pháp luật, hình thức đánh bạc của các bị cáo ngày càng tinh vi, diễn ra ở nhiều nơi đã gây bất bình trong quần chúng nhân dân. Tuy nhiên, hành vi đánh bạc của các bị cáo có tính chất đơn giản, vai trò của từng bị cáo không được phân công rõ ràng, nên chỉ coi là đồng phạm trong vụ án mà không coi đó là đánh bạc có tổ chức.

Đối với bị cáo Đinh Văn M là chủ sở hữu ngôi nhà trên đã đồng ý cho các bị cáo Trần Văn T ; Nguyễn Văn Đồng; Đinh Văn S ; Đặng Thị Kim Th đánh bạc tại nhà ở của mình. Bị cáo M không trực tiếp tham gia đánh bạc, nhưng có hành vi dùng nhà ở của mình cho các bị cáo đánh bạc, đồng thời bị cáo đã chuẩn bị quân bài, chiếu, bát, đĩa cho các bị cáo đánh bạc. Tuy nhiên bị cáo M không nhận bất kỳ khoản tiền nào từ hành vi đánh bạc các bị cáo, nên hành vi phạm tội của bị cáo M không cấu thành tội Gá bạc theo quy định tại Điều 322 – BLHS. Do vậy bị cáo M bị xét xử về tội đánh bạc theo quy định tại Khoản 1 Điều 321 – BLHS là phù hợp.

Xét vai trò phạm tội của từng bị cáo thấy rằng, bị cáo Trần Văn T là người chủ động rủ rê bị cáo Th , bị cáo Đồng tham gia đánh bạc, sau đó bị cáo Đồng trực tiếp điện thoại cho bị cáo M mượn địa điểm là nhà riêng của bị cáo M để đánh bạc, bị cáo M đồng ý nên đã chuẩn bị bát, đĩa, chiếu để cho các bị cáo đánh bạc, sau đó bị cáo Đồng đã điện thoại rủ bị cáo S cùng tham gia đánh bạc. Bị cáo M không trực tiếp tham gia đánh bạc nhưng là người giúp sức tham gia với vai trò tích cực như cho mượn địa điểm, chuẩn bị quân bài, chiếu, bát, đĩa cho các bị cáo khác để thực hiện hành vi đánh bạc. Do vậy bị cáo M phải chịu trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc theo Điều 321 – BLHS.

Số tiền các bị cáo sử dụng vào mục đích đánh bạc như sau: Bị cáo T có số tiền là 3.520.000đ; bị cáo Đồng có số tiền là 2.700.000đ; bị cáo S có số tiền là 900.000đ; bị cáo Th có số tiền là 560.000đ. Như vậy bị cáo T , bị cáo Đồng là người đã sử dụng số tiền vào mục đích đánh bạc lớn hơn nên phải chịu hình phạt cao hơn các bị cáo khác trong cùng vụ án. Xét về độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thì các bị cáo đều là người đã trưởng thành có đầy đủ năng lực pháp luật, nhận thức được hành vi đánh bạc trái phép là vi phạm, bị pháp luật nghiêm cấm, nhưng vì không muốn lao động mà muốn được hưởng thụ từ hành vi trái pháp luật đã cố tình thực hiện hành vi đánh bạc, thể hiện tính coi thường pháp luật. Vì vậy, cần đưa các bị cáo ra xét xử và có hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của từng bị cáo mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

Xong trước khi quyết định hình phạt HĐXX xem xét đến nhân thân của từng bị cáo thấy rằng: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo đều chưa có tiền án, tiền sự, thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, các bị cáo có nơi cư trú rõ ràng. Tội phạm ít nghiêm trọng, sau khi phạm tội các bị cáo được áp dụng Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú tại địa phương. Bị cáo Nguyễn Văn Đồng có bố, mẹ đẻ là ông Nguyễn Quang Bẩm và bà Trần Thị Yên tham gia kháng chiến chống Mỹ có thành tích được Nhà nước tặng thưởng Huân, Huy chương kháng chiến; bị cáo Đinh Văn S có bố đẻ là ông Đinh Quý Đệ tham gia kháng chiến chống Mỹ được Nhà nước tặng thưởng Huy chương kháng chiến; bị cáo Đặng Thị Kim Th có ông nội là Đặng Quang Liễu là Thương binh được hưởng trợ cấp của Nhà nước; bị cáo Đinh Văn M tham gia Công an viên có thành tích trong công tác được Bộ công an tặng kỷ niệm Chương. Do đó bị cáo Đồng, bị cáo S , bị cáo Th , bị cáo M được hưởng 03 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, điểm s, Khoản 1 Điều 51, Khoản 2 Điều 51 – BLHS. Bị cáo T được hưởng 02 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, điểm s, Khoản 1 Điều 51 – BLHS.

Trong vụ án này các bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại Khoản 1 Điều 52 của BLHS. Căn cứ vào nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ của từng bị cáo. HĐXX thấy rằng không cần thiết xử phạt bị cáo T , bị cáo Đồng, bị cáo S , bị cáo M hình phạt tù giam mà cho bị các cáo hưởng án treo, ấn định thời gian thử thách và giao các bị cáo cho Ủy ban nhân dân nơi các bị cáo cư trú giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách, để bị cáo tiếp tục rèn luyện, lao động cải tạo trở thành người công dân sống có ích cho gia đình và xã hội, cũng như các bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật. Xử phạt bị cáo Đặng Thị Kim Th hình phạt chính là phạt tiền để sung quỹ Nhà nước.

Áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo Trần Văn T ; Nguyễn Văn Đồng; Đinh Văn S ; bị cáo Đinh Văn M mỗi bị cáo từ 10.000.000đ đến 15.000.000đ theo Khoản 3 Điều 321 – BLHS để sung quỹ Nhà nước.

Trong quá trình điều tra Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Thanh S thu giữ của bị cáo Trần Văn T 01 điện thoại di động nhãn hiệu Vivo màu xanh, màn hình cảm ứng đã qua sử dụng bên trong lắp sim số 0985.099.444;

thu giữ của bị cáo Nguyễn Văn Đồng 01 điện thoại di động nhãn hiệu Realme C11, màu đen, màn hình cảm ứng đã qua sử dụng bên trong lắp sim số 0379.553.851; thu của bị cáo Đinh Văn S 01 điện thoại di động nhãn hiệu Itel, màu đen đã qua sử dụng bên trong lắp sim01 sim số 0378.052.177; thu giữ của bị cáo Đặng Thị Kim Th 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu trắng, màn hình cảm ứng đã qua sử dụng bên trong lắp sim số 0966.706.616; thu giữ của bị cáo Đinh Văn M 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia, màu đen đã qua sử dụng bên trong lắp sim số 0398.195.058. Cơ quan điều tra xác định các bị cáo đã sử dụng điện thoại có lắp sim để liên lạc thực hiện hành vi phạm tội. Nay cần tịch thu 05 (Năm) điện thoại trên để sung quỹ nhà nước. Tịch thu 05 (Năm) sim điện thoại để tiêu hủy.

Thu giữ của bị cáo Trần Văn T 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Vi sion, màu S xanh đen, BKS 19C1 – 411.56, chiếc xe mô tô trên là tài sản hợp pháp của chị Đào Thị Thanh Huệ; thu giữ của bị cáo Đinh Văn S 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter, màu S xanh, trắng, BKS 19M1 – 04927, chiếc xe mô tô trên là tài sản hợp pháp của anh Đinh Văn Giang; thu giữ của bị cáo Nguyễn Văn Đồng 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Cup, màu trắng, BKS 19AB – 015.42 là tài sản hợp pháp của chị Vũ Thị Hồng, những chiếc xe mô tô trên là của gia đình chị Huệ, anh Giang, chị Hồng sử dụng làm phương tiện đi lại. Ngày 27/11/2022 bị cáo T , bị cáo S , bị cáo Đồng sử dụng xe mô tô trên đi đánh bạc chị Huệ, anh Giang, chị Hồng không biết. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thanh S trả lại cho chị Huệ, anh Giang, chị Hồng ngày 12/12/2022 là phù hợp.

Trước khi chuẩn bị xét xử Tòa án nhân dân huyện Thanh S đã áp dụng Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú đối với các bị cáo: Trần Văn T số 02; Nguyễn Văn Đồng số 03; Đinh Văn S số 04; Đặng Thị Kim Th số 05; Đinh Văn M số 06. Nay HĐXX xét thấy nay cần hủy bỏ lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú đối với các bị cáo trên theo quy định tại Khoản 1 Điều 125 của BLTTHS là phù hợp.

[2] Về vật chứng vụ án:

Căn cứ vào Khoản 1 Điều 47 - Bộ luật Hình sự; Khoản 2, Khoản 3 Điều 106 - Bộ luật tố tụng Hình sự.

Tịch thu: 100 quân bài chắn; 01 bát, đĩa sứ màu trắng đã cũ; 01 chiếc chiếu nhựa có nhiều hoa văn đã cũ để tiêu hủy. Theo biên bản giao nhận ngày 16/3/2023, tại Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Thanh S , tỉnh Phú Thọ.

Tịch thu số tiền 7.680.000đ (Bảy triệu sáu trăm tám mươi nghìn đồng) số tiền này đã được chuyển vào tài khoản: 3949.0.1054594.00000 của Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Thanh S ngày 16/3/2022 để xung quỹ Nhà nước.

Tịch thu của bị cáo Trần Văn T 01 điện thoại di động nhãn hiệu Vivo màu xanh, màn hình cảm ứng đã qua sử dụng, góc màn hình bị vỡ (Không lên nguồn); Tịch thu của bị cáo Nguyễn Văn Đồng 01 điện thoại di động nhãn hiệu Realme C11, màu đen, màn hình cảm ứng đã qua sử dụng, góc màn hình bị vỡ (Không lên nguồn); Tịch thu của bị cáo Đinh Văn S 01 điện thoại di động nhãn hiệu Itel, màu đen, bàn phím vật lý đã qua sử dụng, để bán sung quỹ Nhà nước (Không lên nguồn); Tịch thu của bị cáo Đặng Thị Kim Th 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu trắng, màn hình cảm ứng đã qua sử dụng, (Không lên nguồn); Tịch thu của bị cáo Đinh Văn M 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia, màu đen, bàn phím vật lý đã qua sử dụng, góc màn hình bị vỡ (Không lên nguồn) để bán sung quỹ Nhà nước.

Tịch thu của bị cáo Trần Văn T 01 sim điện thoại số 0985.099.444; thu của bị cáo Nguyễn Văn Đồng 01 sim điện thoại số 0379.553.851; thu của bị cáo Đinh Văn S 01 sim điện thoại số 0378.052.177; thu của bị cáo Đặng Thị Kim Th 01 sim điện thoại số 0966.706.616; thu của bị cáo Đinh Văn M 01 sim điện thoại số 0398.195.058 để tiêu hủy.

T bộ số vật chứng vụ án trên được bàn giao theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 16/3/2023 tại Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Thanh S , tỉnh Phú Thọ.

Xác nhận Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thanh S trả lại tài sản cho các chủ sở hữu gồm:

Trả cho anh Đinh Văn Giang 01 bản phô tô chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số 012183 mang tên Đinh Văn Giang BKS 19M1 - 04927; 01 bản phô tô chứng nhận bảo hiểm bắt buộc TNDS của chủ xe mô tô BKS 19M1 – 04927; 01 bản phô tô căn cước công dân mang tên Đinh Văn Giang; Trả cho chị Đào Thị Thanh Huệ 01 bản phô tô chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số 003424 mang tên Đào Thị Thanh Huệ BKS 19C1 – 411.56; 01 bản phô tô chứng nhận bảo hiểm bắt buộc TNDS của chủ xe mô tô BKS 19C1 – 411.56 ; 01 bản phô tô căn cước công dân mang tên Đào Thị Thanh Huệ; Trả cho chị Vũ Thị Hồng 01 bản phô tô chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số 029522 mang tên Vũ Thị Hồng BKS 19AB – 015.42; 01 bản phô tô căn cước công dân mang tên Vũ Thị Hồng. T bộ vật chứng trên được trao trả theo biên bản trao trả ngày 11/12/2022.

Trả cho chị Đào Thị Thanh Huệ 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Vi sion, màu S xanh đen, BKS 19C1 – 411.56 xe cũ đã qua sử dụng; Trả cho anh Đinh Văn Giang 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter, màu S xanh, trắng, BKS 19M1 – 04927; Trả cho chị Vũ Thị Hồng 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Cup, màu trắng, BKS 19AB – 015.42. T bộ vật chứng trên được trao trả theo biên bản trao trả tài sản ngày 12/12/2022.

Sau khi nhận lại tài sản chị Huệ, anh Giang, chị Hồng không ai có ý kiến gì. Do đó HĐXX không xem xét giải quyết.

[3] Về án phí: Bị cáo Trần Văn T ; bị cáo Nguyễn Văn Đồng; bị cáo Đinh Văn S ; bị cáo Đinh Văn M; bị cáo Đặng Thị Kim Th phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[4] Quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền theo quy định của pháp luật.

[5] Các quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử là hợp pháp.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 321 - Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Trần Văn T ; bị cáo Nguyễn Văn Đồng; bị cáo Đinh Văn S ; bị cáo Đinh Văn M; bị cáo Đặng Thị Kim Th phạm tội "Đánh bạc".

Căn cứ vào: Khoản 1, Khoản 3 Điều 321, điểm i, điểm s, Khoản 1 Điều 51, Khoản 1, Khoản 2, Khoản 5 Điều 65 của Bộ luật Hình sự.

1 - Xử phạt bị cáo: Trần Văn T 12 (Mười hai) tháng tù cho bị cáo hưởng án treo, thời gian thử thách 24 tháng, thời hạn thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. Giao bị cáo Trần Văn T cho Ủy ban nhân dân xã Hương Cần, huyện Thanh S , tỉnh Phú Thọ và gia đình giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách.

Căn cứ vào: Khoản 1, Khoản 3 Điều 321, điểm i, điểm s, Khoản 1 Điều 51, Khoản 2 Điều 51, Khoản 1, Khoản 2, Khoản 5 Điều 65 của Bộ luật Hình sự.

2 - Xử phạt bị cáo: Nguyễn Văn Đồng 09 (Chín) tháng tù cho bị cáo hưởng án treo, thời gian thử thách 18 tháng, thời hạn thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. Giao bị cáo Nguyễn Văn Đồng cho Ủy ban nhân dân xã Tất Thắng, huyện Thanh S , tỉnh Phú Thọ và gia đình giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách.

3 - Xử phạt bị cáo: Đinh Văn S 06 (Sáu) tháng tù cho bị cáo hưởng án treo, thời gian thử thách 12 tháng, thời hạn thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. Giao bị cáo Đinh Văn S cho Ủy ban nhân dân xã Cự Thắng, huyện Thanh S , tỉnh Phú Thọ và gia đình giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách.

4 - Xử phạt bị cáo: Đinh Văn M 06 (Sáu) tháng tù cho bị cáo hưởng án treo, thời gian thử thách 12 tháng, thời hạn thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. Giao bị cáo Đinh Văn M cho Ủy ban nhân dân xã Cự Thắng, huyện Thanh S , tỉnh Phú Thọ và gia đình giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách.

Phạt bổ sung bị cáo Trần Văn T ; bị cáo Nguyễn Văn Đồng; bị cáo Đinh Văn S ; bị cáo Đinh Văn M mỗi bị cáo 10.000.000đ (Mười triệu đồng) theo Khoản 3 Điều 321 – BLHS để sung quỹ Nhà nước.

Trong trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì việc giám sát và giáo dục bị cáo được thực hiện theo Điều 68, Khoản 3 Điều 92 Luật thi hành án Hình sự năm 2019 có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2020.

“ Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo”.

Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 321, điểm i, điểm s, Khoản 1 Điều 51, Khoản 2 Điều 51, Điều 35 - Bộ luật Hình sự.

5 - Xử phạt bị cáo: Đặng Thị Kim Th 20.000.000đ (Hai mươi triệu đồng) để sung quỹ Nhà nước Về vật chứng vụ án: Căn cứ vào Khoản 1 Điều 47 - Bộ luật Hình sự;

Khoản 2, Khoản 3 Điều 106 - Bộ luật tố tụng Hình sự.

Tịch thu: 100 quân bài chắn; 01 bát, đĩa sứ màu trắng đã cũ; 01 chiếc chiếu nhựa có nhiều hoa văn đã cũ. Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 16/3/2023, tại Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Thanh S , tỉnh Phú Thọ để tiêu hủy.

Tịch thu số tiền 7.680.000đ (Bảy triệu sáu trăm tám mươi nghìn đồng) số tiền này đã được chuyển vào tài khoản: 3949.0.1054594.00000 của Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Thanh S ngày 16/3/2022 để xung quỹ Nhà nước.

Tịch thu của bị cáo Trần Văn T 01 điện thoại di động nhãn hiệu Vivo màu xanh, màn hình cảm ứng đã qua sử dụng, góc màn hình bị vỡ (Không lên nguồn); Tịch thu của bị cáo Nguyễn Văn Đồng 01 điện thoại di động nhãn hiệu Realme C11, màu đen, màn hình cảm ứng đã qua sử dụng, góc màn hình bị vỡ (Không lên nguồn); Tịch thu của bị cáo Đinh Văn S 01 điện thoại di động nhãn hiệu Itel, màu đen, bàn phím vật lý đã qua sử dụng (Không lên nguồn); Tịch thu của bị cáo Đặng Thị Kim Th 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu trắng, màn hình cảm ứng đã qua sử dụng, (Không lên nguồn); Tịch thu của bị cáo Đinh Văn M 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia, màu đen, bàn phím vật lý đã qua sử dụng, góc màn hình bị vỡ (Không lên nguồn) để bán sung quỹ Nhà nước.

Tịch thu của bị cáo Trần Văn T 01 sim điện thoại số 0985.099.4xx; thu của bị cáo Nguyễn Văn Đồng 01 sim điện thoại số 0379.553.8xx; thu của bị cáo Đinh Văn S 01 sim điện thoại số 0378.052.1xx; thu của bị cáo Đặng Thị Kim Th 01 sim điện thoại số 0966.706.6xx; thu của bị cáo Đinh Văn M 01 sim điện thoại số 0398.195.0xx để tiêu hủy. T bộ số vật chứng trên được bàn giao theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 16/3/2023 tại Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Thanh S , tỉnh Phú Thọ.

Xác nhận Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thanh S trả lại tài sản cho các chủ sở hữu gồm:

Trả cho anh Đinh Văn Giang 01 bản phô tô chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số 012183 mang tên Đinh Văn Giang BKS 19M1 - 049xx; 01 bản phô tô chứng nhận bảo hiểm bắt buộc TNDS của chủ xe mô tô BKS 19M1 – 049xx; 01 bản phô tô căn cước công dân mang tên Đinh Văn Giang; Trả cho chị Đào Thị Thanh Huệ 01 bản phô tô chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số 003424 mang tên Đào Thị Thanh Huệ BKS 19C1 – 411.xx; 01 bản phô tô chứng nhận bảo hiểm bắt buộc TNDS của chủ xe mô tô BKS 19C1 – 411.xx; 01 bản phô tô căn cước công dân mang tên Đào Thị Thanh Huệ; Trả cho chị Vũ Thị Hồng 01 bản phô tô chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số 0295xx mang tên Vũ Thị Hồng BKS 19AB – 015.xx; 01 bản phô tô căn cước công dân mang tên Vũ Thị Hồng. T bộ vật chứng trên được trao trả theo biên bản trao trả ngày 11/12/2022.

Trả cho chị Đào Thị Thanh Huệ 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Vi sion, màu S xanh đen, BKS 19C1 – 411.xx; Trả cho anh Đinh Văn Giang chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter, màu S xanh, trắng, BKS 19M1 – 049xx; Trả cho chị Vũ Thị Hồng 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Cup, màu trắng, BKS 19AB – 015.xx. T bộ vật chứng trên được trao trả theo biên bản trao trả tài sản ngày 12/12/2022.

Sau khi nhận lại tài sản chị Huệ, anh Giang, chị Hồng không ai có ý kiến gì. Do đó HĐXX không xem xét giải quyết.

Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ Khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự; điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Quy định về mức Thu, Miễn, Giảm, Thu, Nộp, Quản lý và sử dụng Án phí, Lệ phí Tòa án.

Bị cáo Trần Văn T ; bị cáo Nguyễn Văn Đồng; bị cáo Đinh Văn S ;

bị cáo Đinh Văn M ; bị cáo Đặng Thị Kim Th mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án bị cáo; Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt được quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ để yêu cầu xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

17
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội đánh bạc số 10/2023/HS-ST

Số hiệu:10/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thanh Sơn - Phú Thọ
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/03/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;