Bản án về tội đánh bạc số 09/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN PHƯỚC, TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 09/2021/HS-ST NGÀY 10/03/2021 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Trong ngày 10 tháng 3 năm 2021 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tân Phước, tỉnh Tiền Giang, mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 01/2021/TLST-HS ngày 04 tháng 01 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 03/2021/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 02 năm 2021 đối với các bị cáo:

1. Bùi Thị Kim H, sinh năm 1968 tại tỉnh T; Nơi cư trú: ấp P, xã P, huyện T, tỉnh T; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hoá: 04/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Không biết họ tên và bà Bùi Thị Kim T (đã chết); Bị cáo H có chồng tên Mai Hoàng P sinh năm 1966, ngụ cùng địa chỉ với bị cáo, bị cáo có 01 con tên Mai Thị Hoàng Hoa Th sinh năm 1983; Tiền sự: 01 lần: Ngày 06/4/2020, bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Tân Phước ra Quyết định số: 761/QĐ-XPVPHC xử phạt số tiền 7.500.000 đồng về hành vi dùng nhà, chổ ở của mình để chứa bạc, đã chấp hành xong quyết định ngày 10/4/2020; Bị cáo được điều tra tại ngoại. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

2. Nguyễn Văn H, sinh năm 1974 tại tỉnh L; Nơi cư trú: ấp 3, xã H, thành phố T, tỉnh L; Nghề nghiệp: Buôn bán; Trình độ văn hoá: 03/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Nguyễn Văn T (đã chết) và bà Dương Thị A; Bị cáo H có vợ tên Lương Thị Ngọc D sinh năm 1987, ngụ củng địa chỉ với bị cáo, bị cáo có 02 con, con lớn sinh năm 2012, con nhỏ sinh năm 2014; Tiền sự: 01 lần: Ngày 06/4/2020, bị Công an xã Phú Mỹ, huyện Tân Phước ra Quyết định số: 3606/QĐ-XPVPHC xử phạt số tiền 1.500.000 đồng về hành vi đánh bạc trái phép, đã chấp hành xong quyết định ngày 10/4/2020;

Tiền án: Không; Bị cáo được điều tra tại ngoại. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

3. Nguyễn Thị M, sinh năm 1968 tại tỉnh T; Nơi cư trú: ấp P, xã P, huyện T, tỉnh T; Nghề nghiệp: Buôn bán; Trình độ văn hoá: 04/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Nguyễn Văn H (đã chết) và bà Trần Thị T (đã chết); Bị cáo M có chồng tên Huỳnh văn P sinh năm 1968, ngụ cùng địa chỉ với bị cáo, bị cáo có 01 con tên Huỳnh Nhựt K sinh năm 2002; Tiền sự: 01 lần: Ngày 06/4/2020, bị Công an xã Phú Mỹ, huyện Tân Phước ra Quyết định số: 3608/QĐ-XPVPHC xử phạt số tiền 1.500.000 đồng về hành vi tham gia đánh bạc trái phép, đã chấp hành xong quyết định ngày 10/4/2020; Tiền án: Không; Bị cáo được điều tra tại ngoại. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

+ Chị Nguyễn Thị Ngọc L, sinh năm 1990. (vắng mặt) Nơi cư trú: Ấp 2, xã M, huyện T, tỉnh L.

+ Chị Hồ Thị Kim X, sinh năm 1998. (vắng mặt) Nơi cư trú: Ấp T, xã T, huyện T, tỉnh T.

+ Chị Võ Thị H, sinh năm 1976. (vắng mặt) Nơi cư trú: Ấp P, xã P, huyện T, tỉnh T.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Các bị cáo Bùi Thị Kim H, Nguyễn Văn H và Nguyễn Thị M bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Phước, tỉnh Tiền Giang truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Khoảng 15 giờ ngày 11/6/2020, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về hình sự, kinh tế và ma túy Công an huyện Tân Phước phối hợp Công an xã Phú Mỹ, huyện Tân Phước, tỉnh Tiền Giang bắt quả tang vụ đánh bạc trái phép dưới hình thức đánh bài binh Ấn Độ thắng thua bằng tiền tại nhà bà Bùi Thị Kim H, sinh năm 1968, tại ấp P, xã P, huyện T, tỉnh T. Tại hiện trường nơi đánh bạc thu giữ trên người các đối tượng:

- Tạm giữ trên người của Huỳnh Thị M, sinh năm 1980, ĐKTT: Ấp T, xã T, huyện T, tỉnh T tiền Việt Nam: 90.400.000 đồng và 01 điện thoại di động hiệu Nokia, loại bàn phím, màu trắng, đã qua sử dụng.

- Phạm Thị Như Y, sinh năm 1985, ĐKTT: Ấp P, xã P, huyện T, tỉnh T số tiền 25.000.000 đồng và 01 điện thoại di động hiệu Masstel, loại bàn phím, màu đen, đã qua sử dụng.

- Hồ Thị Kim X, sinh năm 1968, ĐKTT: Ấp T, xã T, huyện T, tỉnh T số tiền 22.500.000 đồng và 01 điện thoại di động hiệu Nokia, loại bàn phím, màu xanh đen, đã qua sử dụng.

- Nguyễn Thị M, sinh năm 1968, ĐKTT: Ấp P, xã P, huyện T, tỉnh T số tiền 19.000.000 đồng và 01 điện thoại di động hiệu Nokia, loại bàn phím, màu đen, đã qua sử dụng.

- Nguyễn Văn H, sinh năm 1974, ĐKTT: Ấp 3, xã H, thành phố T, tỉnh L số tiền 45.000.000 đồng; 01 điện thoại di động hiệu Iphone và 01 hiệu Nokia, loại bàn phím, màu đen. Tất cả đã qua sử dụng.

- Võ Thị H, sinh năm 1976, ĐKTT: Ấp P, xã P, huyện T, tỉnh T số tiền 1.300.000 đồng và 01 điện thoại di động hiệu OPPO, màu đỏ, đã qua sử dụng.

- Nguyễn Thị Ngọc L, sinh năm 1990, ĐKTT: Ấp 2, xã M, huyện T, tỉnh L số tiền 1.900.000 đồng.

Tang vật thu giữ tại nơi đánh bạc:

- 02 (hai) bộ bài tây 52 lá đã qua sử dụng.

Tang vật thu giữ trên nền gạch trong phòng chứa đồ cạnh nơi đánh bạc:

- Tiền Việt Nam: 700.000 đồng. Trong đó: có 02 tờ mệnh giá 100.000 đồng và 01 tờ mệnh giá 500.000 đồng.

- 01 (một) cái xô nhựa màu xanh có quai xách, cao 17 cm, đường kính miệng xô 20 cm. Bên trong có chứa 04 bộ bài tây 52 lá (02 bộ đã qua sử dụng và 02 bộ chưa sử dụng).

Kết quả điều tra xác định: Khoảng 13 giờ ngày 11/6/2020, tại nhà Bùi Thị Kim H gồm có các đối tượng: Bùi Thị Kim H, Nguyễn Thị Ngọc L, Hồ Thị Kim X, Nguyễn Thị M, Võ Thị H, Huỳnh Thị M, Phạm Thị Như Y và Mai Thị Hoàng Hoa T, sinh năm 1983, ĐKTT: Ấp P, xã P, huyện T, tỉnh T. Thấy có đông người nên L yêu cầu bà H cho chơi đánh bạc, H đồng ý và L rủ X, H, M chơi đánh bạc. Sau đó, H đến cửa hàng tạp hóa gần chợ P mua 08 (tám) bộ bài tây 52 lá để sử dụng đánh bạc. Trước khi chơi, H đưa cho L 01 cái xô màu xanh bên trong có chứa 04 (bốn) bộ bài tây 52 lá và số tiền 50.000 đồng (Năm mươi nghìn đồng) do L mượn của H làm cái đánh bạc dưới hình thức đánh bài binh Ấn Độ tại gian nhà trên của H. L là người làm cái cho M, X và H tham gia đặt cược. Đến khoảng 14 giờ cùng ngày có Nguyễn Văn H, sinh năm 1974, ĐKTT: Ấp 3, xã H, thành phố T, tỉnh L đến nhà H cùng tham gia đánh bạc.

Trước khi chơi đánh bạc, L mang theo số tiền 2.100.000 đồng và sử dụng 800.000 đồng để làm cái. Mỗi ván đặt cược 100.000 đồng. Hình thức chơi là sau khi L chia cho mỗi tụ 06 lá bà tây, người chơi sẽ sắp xếp bài và so sánh bài trực tiếp với người làm cái. Nếu bài của người chơi lớn hơn người làm cái sẽ thắng và nhận được số tiền đặt cược từ người làm cái và ngược lại. Trong quá trình đánh bạc, L có 03 lần “Thắng trắng” (Đây là trường hợp người làm cái thắng tất cả những người chơi) nên đã bỏ tiền xâu với số tiền 150.000 đồng vào xô nhựa màu xanh trên. Đến 15 giờ cùng ngày, khi lực lượng Công an vào bắt quả tang thì L đã thua số tiền 50.000 đồng. Khi bị bắt L bị thu giữ trên người số tiền 1.900.000 đồng.

H mang theo theo số tiền 1.600.000 đồng và sử dụng 1.000.000 đồng để đánh bạc. H đặt cược được 07 ván, mỗi ván 100.000 đồng. Kết quả H thua 300.000 đồng. Khi bị bắt H bị thu giữ số tiền 1.300.000 đồng.

H mang theo số tiền 45.300.000 đồng và sử dụng số tiền 300.000 đồng để đánh bạc. H đặt cược được khoảng 10 ván, mỗi ván 100.000 đồng. Khi lực lượng Công an vào bắt quả tang thì H đã thua hết số tiền 300.000 đồng. Khi bị bắt H bị thu giữ số tiền 45.000.000 đồng.

X mang theo số tiền 23.000.000 đồng và sử dụng 500.000 đồng để đánh bạc. Khi tham gia đánh bạc X để tiền dưới nền gạch nơi X ngồi, X đặt cược được khoảng 20 ván, mỗi ván 100.000 đồng. Khi lực lượng Công an vào bắt quả tang về hành vi đánh bạc, X thua hết số tiền 300.000 đồng còn 200.000 đồng bị rơi mất khi chạy trốn Công an. Khi bị bắt X bị thu giữ số tiền 22.500.000 đồng.

M mang theo số tiền 18.800.000 đồng và sử dụng 1.500.000 đồng để đánh bạc. M không nhớ đặt cược bao nhiêu ván nhưng mỗi ván đặt 100.000 đồng. Kết quả M thắng được số tiền 200.000 đồng. Khi bị bắt M bị thu giữ số tiền 19.000.000 đồng.

Đối với Bùi Thị Kim H ngoài việc chuẩn bị 04 bộ bài tây cho các đối tượng trên tham gia đánh bạc, H còn chuẩn bị nước uống để các đối tượng dùng trong lúc đánh bạc. H không quy định tiền xâu cụ thể là bao nhiêu nhưng khi nhà cái “Thắng trắng” thì tự động để vào xô nhựa màu xanh số tiền 50.000 đồng hoặc nếu người chơi thắng nhiều lần thì cũng sẽ đưa cho H tiền xâu từ 50.000 – 100.000 đồng. Khi lực lượng Công an vào bắt quả tang, H đã gom xô nhựa màu xanh bên trong đó có 200.000 đồng, 04 bộ bài tây và số tiền 500.000 đồng trên chiếu bạc do các đối tượng chơi đánh bạc làm rớt lại đi cất giấu trong kho chứa đồ tại nơi đánh bạc.

Ngoài ra, khi lực lượng Công an đến bắt quả tang tại hiện trường nơi đánh bạc còn có Huỳnh Thị M, Phạm Thị Như Y và Mai Thị Hoàng Hoa T, sinh năm 1983, ĐKTT: Ấp P, xã P, huyện T, tỉnh T nhưng qua điều tra xác định M, Y và T không có tham gia chơi đánh bạc.

Quá trình điều tra, xác định Nguyễn Văn H và Nguyễn Thị M có tiền sự về hành vi đánh bạc trái phép. Cụ thể:

- Nguyễn Văn H có 01 tiền sự: Ngày 28/3/2020, Nguyễn Văn H có hành vi đánh bạc trái phép tại ấp Phú Xuân, xã Phú Mỹ, huyện Tân Phước, tỉnh Tiền Giang. Ngày 06/4/2020, Công an xã Phú Mỹ ra Quyết định số 3606/QĐ-XPHC xử phạt Nguyễn Văn Hùng với số tiền 1.500.000 đồng, đã nộp phạt xong vào ngày 10/4/2020.

- Nguyễn Thị M có 01 tiền sự: Ngày 28/3/2020, Nguyễn Thị M có hành vi đánh bạc trái phép tại ấp Phú Xuân, xã Phú Mỹ, huyện Tân Phước, tỉnh Tiền Giang. Ngày 06/4/2020, Công an xã Phú Mỹ ra Quyết định số 3608/QĐ-XPHC xử phạt Nguyễn Thị Mười với số tiền 1.500.000 đồng, đã nộp phạt xong vào ngày 10/4/2020.

Đây là vụ đánh bạc do Nguyễn Thị Ngọc L là người rủ rê, đề xướng cho Hồ Thị Kim X, Nguyễn Thị M, Võ Thị H và Nguyễn Văn H tham gia chơi. Tổng số tiền mà các đối tượng đã sử dụng đánh bạc trong vụ án trên là 4.100.000 đồng. Trong đó, L là 800.000 đồng, M là 1.500.000 đồng, H 300.000 đồng, X 500.000 đồng và H 1.000.000 đồng.

Mặc dù tổng số tiền mà những người chơi sử dụng để tham gia đánh bạc là dưới 5000.000 đồng nhưng do Nguyễn Văn H và Nguyễn Thị M đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi đánh bạc trái phép, chưa xóa án tích nên hành vi lần này đã phạm vào tội đánh bạc được quy định tại Khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự.

Ngoài ra, Bùi Thị Kim H cũng có 01 tiền sự. Cụ thể:

- Ngày 28/3/2020, Bùi Thị Kim H có hành vi dùng nhà, chỗ ở của mình tại ấp P, xã P, huyện T, tỉnh T để chứa bạc. Ngày 06/4/2020, Ủy ban nhân dân huyện Tân Phước, tỉnh Tiền Giang ra Quyết định số 761/QĐ-XPVPHC xử phạt Bùi Thị Kim H với số tiền 7.500.000 đồng, đã nộp phạt xong vào ngày 10/4/2020.

Tuy số lượng các con bạc tham gia chơi đánh bạc tại thời điểm bị bắt quả tang trên chỉ có 05 người, số tiền các con bạc sử dụng vào đánh bạc chỉ có 4.100.000 đồng nên hành vi của H chưa đủ yếu tố cấu thành tội gá bạc theo quy định tại Điều 322 Bộ luật Hình sự. Tuy nhiên, do Bùi Thị Kim H đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi dùng nhà, chỗ ở của mình để chứa bạc, chưa xóa án tích nên hành vi lần này đã phạm vào tội gá bạc được quy định tại Khoản 1 Điều 322 Bộ luật hình sự.

Về xử lý vật chứng:

- Đối với số tiền 90.400.000 đồng và 01 điện thoại di động hiệu Nokia, loại bàn phím, màu trắng, đã qua sử dụng tạm giữ trên người Huỳnh Thị M. Qua điều tra, xác định ngày 11/6/2020, M đến nhà bà H là để giao tiền hụi, không có tham gia chơi đánh bạc nên Cơ quan điều tra trả lại tiền và điện thoại cho M là có căn cứ.

- Đối với số tiền 25.000.000 đồng và 01 điện thoại di động hiệu Masstel, loại bàn phím, màu đen, đã qua sử dụng tạm giữ trên người Phạm Thị Như Y. Qua điều tra, xác định ngày 11/6/2020, Y đến nhà bà H là để tham gia khui hụi, không có tham gia chơi đánh bạc nên Cơ quan điều tra trả lại tiền và điện thoại cho Y.

- Đối với số tiền 22.500.000 đồng và 01 điện thoại di động hiệu Nokia, loại bàn phím, màu xanh đen, đã qua sử dụng tạm giữ trên người Hồ Thị Kim X. Qua điều tra, xác định X mang theo số tiền 23.000.000 đồng và sử dụng 500.000 đồng để đánh bạc. Khi lực lượng Công an vào bắt quả tang về hành vi đánh bạc, X thua hết số tiền 300.000 đồng còn 200.000 đồng bị rơi mất khi chạy trốn Công an. Cơ quan điều tra đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại số tiền 22.500.000 đồng cho X.

Riêng đối với điện thoại di động hiệu Nokia, loại bàn phím, màu xanh đen nêu trên. Qua điều tra xác định X chỉ mang điện thoại để liên lạc khi có trường hợp cần thiết, không có mục đích sử dụng vào việc đánh bạc, Cơ quan điều tra đã ra quyết định xử lý đồ vật, tài liệu trả lại điện thoại di động cho X xong.

- Đối với điện thoại di động hiệu Nokia, loại bàn phím, màu đen thu trên người của Nguyễn Thị M. Qua điều tra xác định M chỉ mang điện thoại để liên lạc khi có trường hợp cần thiết, không có mục đích sử dụng vào việc đánh bạc, Cơ quan điều tra đã ra quyết định xử lý đồ vật, tài liệu trả lại điện thoại di động cho M xong.

- Đối với 01 điện thoại di động hiệu Iphone và 01 hiệu Nokia, loại bàn phím, màu đen, đều đã qua sử dụng tạm giữ trên người Nguyễn Văn H. Qua điều tra, xác định H chỉ mang 02 điện thoại để liên lạc khi có trường hợp cần thiết, không có mục đích sử dụng vào việc đánh bạc, Cơ quan điều tra đã ra quyết định xử lý đồ vật, tài liệu trả lại 02 điện thoại di động cho H xong.

- Đối với số tiền 1.300.000 đồng và 01 điện thoại di động hiệu OPPO, màu đỏ, đã qua sử dụng tạm giữ trên người Võ Thị H. Qua điều tra, xác định H mang theo theo số tiền 1.600.000 đồng và sử dụng 1.000.000 đồng để đánh bạc. Kết quả H thua 300.000 đồng. Cơ quan điều tra đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại số tiền 600.000 đồng cho H.

Riêng đối với hiệu OPPO, màu đỏ, đã qua sử dụng nêu trên. Qua điều tra xác định H chỉ mang điện thoại để liên lạc khi có trường hợp cần thiết, không có mục đích sử dụng vào việc đánh bạc, Cơ quan điều tra đã ra quyết định xử lý đồ vật, tài liệu trả lại điện thoại di động cho H xong.

- Đối với số tiền 1.900.000 đồng tạm giữ trên người Nguyễn Thị Ngọc L. Qua điều tra, xác định L mang theo L mang theo số tiền 2.100.000 đồng và sử dụng 800.000 đồng để làm cái. Ngoài ra, L có mượn của bà H số tiền 50.000 đồng để chung tiền. Khi lực lượng Công an vào bắt quả tang thì L đã thua số tiền 50.000 đồng. Cơ quan điều tra đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại số tiền 1.300.000 đồng cho L.

Viện kiểm sát nhân dân ra quyết định chuyển đến Chi cục thi hành án Dân sự huyện Tân Phước quản lý gồm:

- 04 (bốn) bộ bài tây 52 lá đã qua sử dụng và 02 bộ bài tây 52 lá chưa qua sử dụng. Qua điều tra xác định 06 bộ bài tây trên là do Bùi Thị Kim H mua về để sử dụng vào mục đích đánh bạc, nhằm thu lợi bất chính.

- 01 (một) cái xô nhựa màu xanh có quai xách, cao 17 cm, đường kính miệng xô 20 cm. Qua điều tra xác định đây là xô nhựa mà Bùi Thị Kim H đưa cho Nguyễn Thị Ngọc L dùng để đựng các dụng cụ chơi đánh bạc.

- Tiền Việt Nam: 66.000.000 đồng. Trong đó 700.000 đồng (có 02 tờ mệnh giá 100.000 đồng và 01 tờ mệnh giá 500.000 đồng). Qua điều tra xác định trong đó có 200.000 đồng là tiền xâu mà Liễu cho H nhưng H chưa nhận. Còn 500.000 đồng là do H nhặt được khi gom các dụng cụ dùng để đánh bạc mang đi giấu trong không chứa đồ nhưng không xác định được chủ sở hữu. Riêng số tiền 65.300.000 đồng là tiền đã sử dụng vào việc đánh bạc và tiền cá nhân của các bị can H, M và các đối tượng L, H.

Tại bản cáo trạng số 04/CT-VKSTP ngày 30/12/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Phước đã truy tố ra trước Tòa án nhân dân huyện Tân Phước để xét xử đối với bị cáo Bùi Thị Kim H về tội “Gá bạc” theo quy định tại Điểm đ Khoản 1 Điều 322 của Bộ luật hình sự, bị cáo Nguyễn Văn H và Nguyễn Thị M về tội " Đánh bạc" theo quy định tại Khoản 1 Điều 321 của Bộ luật hình sự Tại phiên tòa hôm nay, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận xác định: Khoảng 13 giờ ngày 11/6/2020, tại nhà Bùi Thị Kim H thuộc ấp P, xã P, huyện T, tỉnh T. Nguyễn Thị Ngọc L đã có đề nghị Bùi Thị Kim H cho chơi đánh bạc, H đồng ý. Sau đó, L rủ Hồ Thị Kim X, Nguyễn Thị M, Võ Thị H và Nguyễn Văn H chơi đánh bạc thắng thua bằng tiền với hình thức đánh bài binh Ấn Độ. Tuy số tiền đánh bạc chỉ có 4.100.000đồng nhưng do Nguyễn Văn H và Nguyễn Thị M đã có tiền sự về hành vi đánh bạc trái phép nên phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự.

Riêng Bùi Thị Kim H có hành vi chứa bạc. Tuy số lượng các con bạc tham gia chơi đánh bạc tại thời điểm bị bắt quả tang trên chỉ có 05 người, số tiền các con bạc sử dụng vào đánh bạc chỉ có 4.100.000 đồng. Nhưng do Bùi Thị Kim H đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi dùng nhà, chỗ ở của mình để chứa bạc, chưa xóa án tích nên hành vi lần này đã phạm vào tội gá bạc được quy định tại Khoản 1 Điều 322 Bộ luật hình sự.

Do đó có cơ sở xác định bị cáo Bùi Thị Kim H đã phạm tội “Gá bạc” theo quy định tại Điểm đ Khoản 1 Điều 322 của Bộ luật hình sự; các bị cáo Nguyễn Văn H và Nguyễn Thị M đã phạm tội “Đánh bạc” theo Khoản 1 Điều 321 của Bộ luật hình sự. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điểm đ Khoản 1 Điều 322; Điểm i, s Khoản 1 Điều 51, Điều 54; Điều 65 của Bộ luật hình sự 2015 xử phạt bị cáo Bùi Thị Kim H từ 09 đến 12 tháng tù, cho hưởng án treo; áp dụng Khoản 1 Điều 321; Điểm i, s Khoản 1 Điều 51, Điều 65 của Bộ luật hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Nguyễn Thị M từ 06 đến 09 tháng tù, cho hưởng án treo; áp dụng Khoản 1 Điều 321; Điều 35; Điểm s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H số tiền từ 20.000.000đồng đến 30.000.000 đồng; xử lý vật chứng của vụ án và các bị cáo phải chịu án phí theo quy định.

Các bị cáo thống nhất với ý kiến luận tội của đại diện Viện kiểm sát, không có ý kiến tranh luận gì.

Các bị cáo nói lời sau cùng: Các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình, ăn năn hối cãi, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa; trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng: Về hành vi tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Tân Phước, của Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Phước, của Kiểm sát viên trong quá trình tiến hành tố tụng điều tra, truy tố đã được thực hiện đúng thẩm quyền, tình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ai có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp theo quy định của pháp luật.

[2] Về hành vi phạm tội của các bị cáo: Tại phiên tòa hôm nay các bị cáo Bùi Thị Kim H, Nguyễn Văn H và Nguyễn Thị M đã thừa nhận toàn bộ hành vi của mình là vào Khoảng 13 giờ ngày 11/6/2020, tại nhà Bùi Thị Kim H thuộc ấp P, xã P, huyện T, tỉnh T. Nguyễn Thị Ngọc L đã có đề nghị Bùi Thị Kim H cho chơi đánh bạc, H đồng ý. Sau đó, L rủ Hồ Thị Kim X, Nguyễn Thị M, Võ Thị H và Nguyễn Văn H chơi đánh bạc thắng thua bằng tiền với hình thức đánh bài binh Ấn Độ. Mặc dù tổng số tiền đánh bạc chỉ có 4.100.000 đồng về định lượng chưa đủ yếu tố cấu thành tội đánh bạc theo quy định tại Điều 321 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, do Nguyễn Văn H và Nguyễn Thị M đã có tiền sự về hành vi đánh bạc trái phép, chưa xóa tiền sự nên hành vi lần này đã phạm vào tội "đánh bạc" được quy định tại Khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự.

Riêng Bùi Thị Kim H có hành vi chứa bạc, là người là người chuẩn bị dụng cụ cho các bị cáo khác đánh bạc. Tuy số lượng các con bạc tham gia chơi đánh bạc tại thời điểm bị bắt quả tang trên chỉ có 05 người, số tiền các con bạc sử dụng vào đánh bạc chỉ có 4.100.000 đồng. Nhưng do Bùi Thị Kim H đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi dùng nhà, chỗ ở của mình để chứa bạc, chưa xóa tiền sự nên hành vi lần này đã phạm vào tội "gá bạc" được quy định tại Khoản 1 Điều 322 Bộ luật hình sự.

Lời thừa nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa hôm nay là hoàn toàn phù hợp với các chứng cứ, tài liệu đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án, phù hợp với lời khai của người làm chứng, người có liên quan trong vụ án. Các bị cáo Nguyễn Văn H và Nguyễn Thị M đã có hành vi đánh bạc ăn thua bằng tiền và đã có tiền sự, bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi đánh bạc trái phép, chưa được xóa tiền sự nên hành vi lần này của các bị cáo đã phạm vào tội "đánh bạc" được quy định tại Khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự. Bị cáo Bùi Thị Kim H đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi dùng nhà, chỗ ở của mình để chứa bạc, chưa xóa tiền sự nên hành vi lần này đã phạm vào tội "gá bạc" được quy định tại Khoản 1 Điều 322 Bộ luật hình sự.

Như vậy đã có đủ cơ sở để kết luận, hành vi phạm tội của các bị cáo Nguyễn Văn H và Nguyễn Thị M đã cấu thành tội “Đánh bạc”. Tội danh và hình phạt được quy định tại Khoản 1 Điều 321 của Bộ luật hình sự năm 2015. Hành vi phạm tội của bị cáo Bùi Thị Kim H đã cấu thành tội “Gá bạc”. Tội danh và hình phạt được quy định tại Khoản 1 Điều 322 của Bộ luật hình sự năm 2015, nên bản cáo trạng số 04/CT-VKSTP ngày 30/12/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Phước truy tố các bị cáo Bùi Thị Kim H, Nguyễn Văn H và Nguyễn Thị M về tội danh và hình phạt đã nêu trên là có căn cứ đúng pháp luật.

[3] Về tính chất mức độ của hành vi phạm tội và tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của từng bị cáo, nhân thân và hình phạt cần áp dụng đối với từng bị cáo: Hành vi phạm tội của các bị cáo là nghiêm trọng, nó đã trực tiếp xâm phạm đến sự quản lý nhà nước về trật tự an toàn công cộng, làm ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương nơi xảy ra vụ án, gây tư tưởng bất bình trong nhân dân. Bản thân các bị cáo nhận thức được rằng hành vi gá bạc, đánh bạc là bị nhà nước nghiêm cấm triệt để, là tạo điều kiện phát sinh cho các loại tội phạm khác, nhưng vì bản chất xem thường pháp luật, chay lười lao động chỉ muốn có tiền để tiêu xài bằng cách gá bạc, đánh bạc để ăn tiền của người khác, nên các bị cáo bất chấp tất cả để thực hiện hành vi của mình. Nhân dân lao động và xã hội đang lên án những hành vi, việc làm như các bị cáo, do đó cần áp dụng một mức hình phạt thỏa đáng, tương xứng với hành vi phạm tội của từng bị cáo, để cải tạo, giáo dục bản thân các bị cáo trở thành công dân tốt, có ích cho xã hội, biết tôn trọng quy định của pháp luật nhà nước, đồng thời để làm thức tỉnh những ai đang mang tư tưởng đánh bạc như các bị cáo.

Trong vụ án này bị cáo Bùi Thị Kim H là người chuẩn bị dụng cụ cho các bị cáo khác đánh bạc, dùng nhà của mình để cho các bị cáo khác đánh bạc để thu tiền xâu, là tạo điều kiện cho các bị cáo khác phạm tội. Bản thân bị cáo ngày 06/4/2020, bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Tân Phước ra Quyết định số:

761/QĐ-XPVPHC xử phạt số tiền 7.500.000 đồng về hành vi dùng nhà, chổ ở của mình để chứa bạc, đã chấp hành xong quyết định ngày 10/4/2020 nhưng vẫn không sữa chửa sai lầm khuyết điểm. Do đó bị cáo phải chịu hình phạt cao trong vụ án. Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo H mới phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, sau khi phạm tội bị cáo đã thật thà khai báo, ăn năn hối cãi đây là các tình tiết giảm nhẹ được qui định tại Điểm i, s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo Bùi Thị Kim H đã có 02 tình tiết giảm nhẹ qui định tại Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Bản thân bị cáo có nơi cư trú rõ ràng, xét thấy không cần thiết phải bắt bị cáo chấp hành hình phạt tù, bị cáo có khả năng tự cải tạo, không gây nguy hiểm cho xã hội. Do đó Hội đồng xét xử xét thấy không cần thiết cách ly bị cáo ra khỏi xã hội, mà cho bị cáo được hưởng án treo theo quy định tại điều 65 của Bộ luật hình sự là cũng đã đủ để giáo dục, cải tại bản thân bị cáo trở thành công dân tốt, có ích cho xã hội.

Đối với bị cáo Nguyễn Thị M trong vụ án này giữ vai trò đồng phạm là người thực hành. Khi được Nguyễn Thị Ngọc L rủ tham gia đánh bạc thì bị cáo đồng ý ngay và tham gia cho đến khi bị bắt với số tiền là 1.700.000đồng. Bản thân bị cáo ngày 06/4/2020, bị Công an xã Phú Mỹ, huyện Tân Phước ra Quyết định số:

3608/QĐ-XPVPHC xử phạt số tiền 1.500.000 đồng về hành vi tham gia đánh bạc trái phép, đã chấp hành xong quyết định ngày 10/4/2020 nhưng vẫn không sữa chửa sai lầm khuyết điểm. Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo mới phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, sau khi phạm tội bị cáo đã thật thà khai báo, ăn năn hối cãi đây là các tình tiết giảm nhẹ được qui định tại Điểm i, s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự nên Hội đồng xét xử có xem xét giảm nhẹ phần nào hình phạt cho bị cáo. Bản thân bị cáo có nơi cư trú rõ ràng, xét thấy không cần thiết phải bắt bị cáo chấp hành hình phạt tù, bị cáo có khả năng tự cải tạo, không gây nguy hiểm cho xã hội. Do đó Hội đồng xét xử xét thấy không cần thiết cách ly bị cáo ra khỏi xã hội, mà cho bị cáo được hưởng án treo theo quy định tại điều 65 của Bộ luật hình sự là cũng đã đủ để giáo dục, cải tại bản thân bị cáo trở thành công dân tốt, có ích cho xã hội.

Đối với bị cáo Nguyễn văn H trong vụ án này giữ vai trò đồng phạm là người thực hành. Khi được Nguyễn Thị Ngọc L rủ tham gia đánh bạc thì bị cáo đồng ý ngay và tham gia cho đến khi bị bắt. Bản thân bị cáo ngày 06/4/2020, bị Công an xã Phú Mỹ, huyện Tân Phước ra Quyết định số: 3608/QĐ-XPVPHC xử phạt số tiền 1.500.000 đồng về hành vi tham gia đánh bạc trái phép, đã chấp hành xong quyết định ngày 10/4/2020 nhưng vẫn không sữa chửa sai lầm khuyết điểm. Ngày 26/01/2015 bị cáo bị Tòa án nhân dân thành phố Tân An, tỉnh Long An xử phạt 06 tháng tù cho hưởng án treo về hành vi "Đánh bạc" đã chấp hành xong, tuy đã được xóa án tích nhưng bị cáo được xem là có nhân thân xấu. Bản thân bị cáo đánh bạc lần này tuy số tiền dưới mức quy định cấu thành tội phạm, tuy nhiên bị cáo có tiền sự, đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi đánh bạc trái phép, chưa xóa tiền sự nên hành vi lần này đã phạm vào tội đánh bạc được quy định tại Khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự. Hội đồng xét xử xét thấy sau khi phạm tội bị cáo đã thật thà khai báo, ăn năn hối cãi đây là tình tiết giảm nhẹ được qui định tại Điểm s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự nên Hội đồng xét xử có xem xét giảm nhẹ phần nào hình phạt cho bị cáo và xét thấy không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội mà áp dụng hình phạt tiền đối với bị cáo là cũng đã đủ để cải tạo, giáo dục bản thân bị cáo trở thành công dân tốt, có ích cho xã hội.

[4] Về hình phạt bổ sung: Hội đồng xét xử thống nhất không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo [5] Về vật chứng của vụ án gồm:

- 04 (bốn) bộ bài tây 52 lá đã qua sử dụng và 02 bộ bài tây 52 lá chưa qua sử dụng. Qua điều tra xác định 06 bộ bài tây trên là do Bùi Thị Kim H mua về để sử dụng vào mục đích đánh bạc, nhằm thu lợi bất chính.

- 01 (một) cái xô nhựa màu xanh có quai xách, cao 17 cm, đường kính miệng xô 20 cm. Qua điều tra xác định đây là xô nhựa mà Bùi Thị Kim H đưa cho Nguyễn Thị Ngọc L dùng để đựng các dụng cụ chơi đánh bạc.

- Tiền Việt Nam: 66.000.000 đồng.

Tất cả vật chứng hiện Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tân Phước đang tạm giữ.

Xét thấy:

Đối với 04 (bốn) bộ bài tây 52 lá đã qua sử dụng và 02 bộ bài tây 52 lá chưa qua sử dụng và 01 (một) cái xô nhựa màu xanh có quai xách, đây là công cụ phương tiện phạm tội không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.

Đối với tổng số tiền đã thu 66.000.000đồng: Trong đó có số tiền thu trên người của bị cáo Nguyễn văn H là 45.000.000đồng, bị cáo H bị xử phạt tiền nên cần thiết tiếp tục tạm giữ của bị cáo một khoản tiền tương ứng với số tiền bị cáo bị xử phạt để đảm bảo cho việc thi hành án, khoản tiền còn lại của bị cáo H giao trả cho bị cáo. Đối với số tiền thu trên người của bị cáo Nguyễn Thị M là 19.000.000đồng, bị cáo sử dụng 1.500.000đồng để đánh bạc và ăn được 200.000đồng, tổng cộng 1.700.00đồng, số tiền này tịch thu sung quỹ nhà nước, trả lại cho bị cáo 17.300.000đồng. Số tiền còn lại của Võ Thị H là 700.000đồng, của Nguyễn Thị Ngọc L là 600.000đồng và tiền thu trên chiếu bạc 700.000đồng tịch thu sung quỹ nhà nước.

[6] Đối với Nguyễn Thị Ngọc L, Hồ Thị Kim X, Võ Thị H cùng tham gia đánh bạc. Tuy nhiên, do số tiền không đủ định lượng để cấu thành tội phạm “Đánh bạc” quy định tại Điều 321 Bộ luật hình sự. Vì vậy, Cơ quan cảnh sát điều tra điều tra đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính Nguyễn Thị Ngọc L, Hồ Thị Kim X và Võ Thị H về hành vi đánh bạc trái phép là có cơ sở.

[7] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

[8] Xét lời đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa là có căn cứ, phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử về tội danh, hình phạt, xử lý vật chứng, Hội đồng xét xử có ghi nhận khi nghị án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố các bị cáo Bùi Thị Kim H đã phạm tội “Gá bạc”; các bị cáo Nguyễn Văn H và Nguyễn Thị M đã phạm tội “Đánh bạc”.

- Áp dụng Điểm đ Khoản 1 Điều 322; Điểm i, s Khoản 1 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Bùi Thị Kim H 01 (một) năm tù, cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 02 (hai) năm, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo Bùi Thị Kim H cho Ủy ban nhân xã P, huyện T, tỉnh T giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách.

Trường hợp bị cáo Bùi Thị Kim H thay đổi nơi cư trú trong thời gian thử thách thì việc giám sát giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách được thực hiện theo điều 68, điều 92 của Luật Thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách bị cáo Bùi Thị Kim H được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc bị cáo được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo theo quy định tại Khoản 5 Điều 65 của Bộ luật hình sự và Điều 93 của Luật Thi hành án hình sự.

- Áp dụng Khoản 1 Điều 321; Điều 35; điểm s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H số tiền 25.000.000 đồng (hai mươi lăm triệu đồng). Thời hạn thực hiện khi án có hiệu lực pháp luật.

- Áp dụng Khoản 1 Điều 321; Điểm i, s Khoản 1 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị M 09 (chín) tháng tù, cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 01 (một) năm 08 (tám) tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo Nguyễn Thị M cho Ủy ban nhân xã P, huyện T, tỉnh T giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách.

Trường hợp bị cáo Nguyễn Thị M thay đổi nơi cư trú trong thời gian thử thách thì việc giám sát giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách được thực hiện theo điều 68, điều 92 của Luật Thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách bị cáo Nguyễn Thị M được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc bị cáo được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo theo quy định tại Khoản 5 Điều 65 của Bộ luật hình sự và Điều 93 của Luật Thi hành án hình sự.

2. Về vật chứng:

- Áp dụng Khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự và Khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

+ Tịch thu tiêu hủy vật chứng gồm:

- 04 (bốn) bộ bài tây 52 lá đã qua sử dụng - 02 bộ bài tây 52 lá chưa qua sử dụng.

- 01 (một) cái xô nhựa màu xanh có quai xách, cao 17 cm, đường kính miệng xô 20 cm.

+ Giao trả cho bị cáo Nguyễn văn H số tiền 20.000.000đồng trong tổng số tiền 66.000.000đồng + Giao trả cho bị cáo Nguyễn Thị M số tiền 17.300.000đồng trong tổng số tiền 66.000.000đồng + Tiếp tục tạm giữ số tiền 25.000.000đồng của bị cáo Nguyễn văn H trong tổng số tiền 66.000.000đồng để đảm bảo cho việc thi hành án.

+ Tịch thu sung quỹ nhà nước số tiền còn lại 3.700.000đồng trong tổng số tiền 66.000.000đồng Tất cả số vật chứng trên hiện do Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tân Phước, tỉnh Tiền Giang đang tạm giữ. Thực hiện việc giao trả, tạm giữ, tịch thu tiêu hủy và sung quỹ khi án có hiệu lực pháp luật.

3. Về án phí:

- Áp dụng Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Các bị cáo Bùi Thị Kim H, Nguyễn văn H và Nguyễn Thị M mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo:

Các bị cáo được thực hiện quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm; người có liên quan được thực hiện quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày Tòa án tống đạt hợp lệ bản án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

35
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội đánh bạc số 09/2021/HS-ST

Số hiệu:09/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Phước - Tiền Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;