Bản án về tội đánh bạc số 08/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 08/2022/HS-PT NGÀY 12/01/2022 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 12 tháng 01 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Nghệ An mở phiên toà xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 215/ 2021/TLPT-HS ngày 14 tháng 10 năm 2021 đối với bị cáo Nguyễn Văn K , Nguyễn Duy Th do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 72/2021/HS-ST ngày 28 tháng 7 năm 2021 của Tòa án nhân dân L, tỉnh Nghệ An.

- Các bị cáo có kháng cáo:

1. Họ và tên: Nguyễn Văn K - Giới tính Nam. Sinh ngày 06 tháng 6 năm 1985. Nơi cư trú: xóm 4, xã V, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An; Quốc tịch: Việt Nam, Dân tộc: Kinh, Tôn giáo: Không. Trình độ văn hóa: 7/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do. Con ông Nguyễn Văn L (đã chết) và bà Nguyễn Thị Có vợ Nguyễn Thị Hoa và có 01 con, sinh năm 2021. Tiền sự: không; Tiền án: ngày 16/3/2018, tại bản án số 11/2018/HS-ST của Tòa án nhân dân V xử phạt bị cáo 15.000.000 đồng về tội "Đánh bạc". Bị cáo chưa chấp hành hình phạt.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 03/5/2021 đến ngày 09/5/2021. Hiện tại ngoại có mặt

2. Họ và tên: Nguyễn Duy Th - Giới tính: Nam. Sinh ngày: 02 tháng 12 năm 1992. Nơi cư trú: xóm 5, xã V, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không. Trình độ văn hoá: 8/12. Nghề nghiệp: Lao động tự do. Con ông Nguyễn Duy Ph (Đã chết) và bà Hồ Thị H . Bị cáo có vợ Nguyễn Thị Thanh và có 02 con. Tiền án, tiền sự; nhân thân: Không.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 03/5/2021 đến ngày 09/5/2021. Hiện tại ngoại có mặt.

Ngoài ra trong vụ án còn có 06 bị cáo không kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị, Tòa án không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có tại hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 22 giờ ngày 02/5/2021, Đinh Bạt Kh điều khiển xe ô tô Biển kiểm soát 37A-xxxxx chở Nguyễn Duy Th đi uống rượu về. Khi qua khu vực xóm 4, xã V, huyện V, tỉnh Nghệ An thì gặp Võ Quang Th và Nguyễn Văn K đang đứng chơi bên đường. Kh và Th xuống xe nói chuyện với Võ Quang Th và K một lúc, sau đó cùng rủ nhau vào “Khe Nghi Công” chơi. Trên đường đi, Kh gọi điện cho Ngô Cảnh Th rủ vào nhà bà Nguyễn Thị L ở “Khe Nghi Công”, Th đồng ý. Thời điểm này, Th đang ở cùng Lê Thanh H và Lê Văn Ng nên Th rủ H và Ng đi cùng. Khi Kh, Nguyễn Duy Th, Võ Quang Th, K vào đến nhà bà Nguyễn Thị L thì thấy đang sáng đèn nên đi vào ngồi uống nước tại sân một lúc thì Th, H và Ng cùng đi trên 01 xe mô tô Biển kiểm soát 37K1-xxxxx đến. Các bị cáo cùng rủ nhau đánh bạc, được thua bằng tiền tại nhà bà L và được bà L đồng ý. Các bị cáo đi vào căn phòng bên cạnh phòng khách. Tại đây, Kh lấy 01 bộ bài Túlơkhơ từ trong người ra để Nguyễn Duy Th, Võ Quang Th, K, Th, H và đánh bạc bằng hình thức đánh bài "Liêng". Trong quá trình đánh bạc, Nguyễn Duy Th bị thua hết tiền nên hỏi mượn tiền. Lúc này, K đang thắng nhưng vì không quen Nguyễn Duy Th nên nói với Kh: “Anh Kh có đảm bảo sau này lấy tiền chỗ Th thì em cho mượn”. Kh nghe vậy thì nói với K: “Em cho Th mượn tiền đi, sau này anh đảm bảo lấy cho”. K đồng ý và cho Th mượn 3.000.000 đồng để tiếp tục đánh bạc. Các bị cáo đánh bạc đến 23 giờ 55 phút cùng ngày thì bị Công an L phát hiện bắt quả tang, thu giữ trên chiếu bạc số tiền 7.900.000 đồng và 01 bộ bài Túlơkhơ.

Hình thức đánh bài “Liêng” được quy ước như sau: Trước khi bắt đầu chơi, tất cả đều phải đặt một số tiền bằng nhau gọi là tẩy (50.000 đồng). Sau đó, 01 người cầm bộ bài Túlơkhơ có 52 lá bài chia cho mỗi người 03 lá bài (Các lá bài đều được chia úp để đảm bảo bí mật). Thứ tự chơi sẽ bắt đầu từ người chia bài lần lượt theo chiều ngược kim đồng hồ. Những người chơi sẽ cầm 03 lá bài được chia lên xem (Giữ bí mật 03 lá bài của mình) và có 03 sự lựa chọn sau:

- Úp bài: Thì sẽ mất số tẩy ban đầu và người này kết thúc ván bài.

- Theo (Cân): Đặt số tiền cược bằng với người cửa trên đặt. Khi theo sẽ phải chấp nhận có thể vừa mất tiền cược vừa mất tiền theo, ngược lại khi thắng thì sẽ được cả hai.

- Phạt (không quá 500.000 đồng): Đặt cược thêm tiền cao hơn so với số tiền của người cửa trên đặt. Nếu những người còn lại không theo thì người phạt thắng toàn bộ số tiền.

Sau khi tất cả đã lựa chọn xong, bộ bài của người nào mang giá trị cao nhất thì người đó thắng cuộc. Các bộ bài được tính từ lớn đến nhỏ như sau:

- Sáp: Là bộ bài có 03 lá giống nhau (03 lá 2 thì gọi là Sáp 2). Nếu như người chơi đều có Sáp thì tính ai có Sáp cao hơn sẽ thắng. Thứ tự tăng dần từ 2 đến A.

- Liêng: Là bộ bài có 03 lá liên tiếp nhau (4, 5, 6). Liêng nhỏ nhất là A, 2, 3 và Liêng cao nhất là Q, K, A. Khi hai người cùng có Liêng thì ai có Liêng cao hơn sẽ thắng. Trong trường hợp Liêng giống nhau thì phân thắng thua bằng lá bài có chất cao nhất theo thứ tự từ lớn đến nhỏ là Rô, Cơ, Tép, Bích.

- Ảnh: Là bộ bài có cả 03 lá bài đều là Tây (Đầu người J, Q, K). Nếu cả hai người đều có Ảnh thì buộc phải so sánh chất cao nhất trong bài. Trường hợp cùng chất thì trở về so sánh thứ tự quân bài J, Q, K.

- Điểm: Đây là cách tính lá cơ bản nhất nếu bài không có Sáp, Liêng, Ảnh. Lấy tổng số điểm của 03 lá chia cho 10, số dư sau khi chia sẽ là điểm của người chơi. Điểm của các lá bài số giữ Ng còn 10, J, Q, K đều tính là 0 điểm. Nếu cùng điểm thì so sánh lá bài có chất cao nhất, cùng chất thì so sánh lá bài có chất cao nhất theo thứ tự từ lớn đến nhỏ là Rô, Cơ, Tép, Bích.

Quá trình điều tra xác định được số tiền các bị cáo sử dụng để đánh bạc là 7.900.000 đồng (Bảy triệu chín trăm nghìn đồng). Cụ thể, số tiền mang theo và dùng đánh bạc của từng người như sau: Nguyễn Duy Th 3.900.000 đồng; Võ Quang Th 1.800.000; Lê Văn Ng 800.000 đồng; Nguyễn Văn K 350.000 đồng; Lê Thanh H 750.000 đồng; Ngô Cảnh Th 300.000 đồng.

Với nội dung trên, Bản án hình sự sơ thẩm số 72/2021/HS-ST ngày 28 tháng 7 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An đã quyết định:

Tuyên bố bị cáo: Nguyễn Văn K, Nguyễn Duy Th cùng 06 bị cáo khác phạm tội “Đánh bạc”; Áp dụng khoản 1 Điều 321, các điểm s, v khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự 2015, xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn K 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo để thi hành án, nhưng được khấu trừ thời gian đã tạm giữ (Từ ngày 03/5/2021 đến ngày 09/5/2021).

Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 54 Bộ luật hình sự 2015, xử phạt: Bị cáo Nguyễn Duy Th 03 (Ba) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo để thi hành án, nhưng được khấu trừ thời gian đã tạm giữ (Từ ngày 03/5/2021 đến ngày 09/5/2021).

Ngoài ra bản án còn tuyên về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo của các bị cáo.

Ngày 02/8/2021, bị cáo Nguyễn Văn K làm đơn kháng cáo với nội dung xin cấp Tòa án phúc thẩm giảm hình phạt và cho bị cáo được hưởng án treo Ngày 29/7/2021, bị cáo Nguyễn Duy Th làm đơn kháng cáo với nội dung xin Tòa án cấp phúc thẩm giảm hình phạt và cho bị cáo được hưởng án treo Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo giữ Ng nội dung kháng cáo. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An, đề nghị Hội đồng xét xử:

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự 2015; không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn K, giữ Ng Bản án sơ thẩm đối với bị cáo K. Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Văn K 06 tháng tù về tội “Đánh bạc”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án nhưng được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 03/5/2021 đến ngày 09/5/2021.

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm e khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự, chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo Nguyễn Duy Th, sửa Bản án sơ thẩm, giữ Ng hình phạt tù cho và bị cáo hưởng án treo.

Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm s, i khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54, Điều 65 Bộ luật hình sự. Đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Duy Th 03 tháng tù về tội “Đánh bạc” và cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 tháng. Thời hạn thử thách tính từ ngày tuyên án phúc thẩm.

Các bị cáo không có ý kiến tranh luận gì với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của các bị cáo, cho được hưởng án treo, để có cơ hội tự cải tạo tốt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo Nguyễn Văn K, Nguyễn Duy Th khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như bản án sơ thẩm đã xét xử, nên có đủ cơ sở kết luận: Đêm ngày 02/5/2021, tại nhà Nguyễn Thị L ở xóm 2, xã V, huyện N, tỉnh Nghệ An, các bị cáo Nguyễn Văn K, Nguyễn Duy Th, Võ Quang Th, Lê Thanh H, Lê Văn Ng, Ngô Cảnh Th đang có hành vi đánh bạc bằng hình thức đánh bài "Liêng", thì bị Công an V, tỉnh Nghệ An phát hiện bắt quả tang, thu giữ tại chiếu bạc tổng số tiền các bị cáo tham gia đánh bạc 7.900.000 đồng, trong đó xác định: Nguyễn Duy Th 3.900.000 đồng; Võ Quang Th 1.800.000; Lê Văn Ng 800.000 đồng; Nguyễn Văn K 350.000 đồng; Lê Thanh H 750.000 đồng; Ngô Cảnh Th 300.000 đồng. Như vậy, hành vi phạm tội của các bị cáo Nguyễn Văn K, Nguyễn Duy Th và các bị cáo khác bị Tòa án nhân dân V, tỉnh Nghệ An xử phạt về tội "Đánh bạc" theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2] Xét nội dung kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn K, Nguyễn Duy Th, Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy rằng: Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trực tiếp đến an ninh trật tự công cộng, đạo đức, lối sống cộng đồng. Các bị cáo đều nhận thức được hành vi đánh bạc là vi phạm pháp luật và tệ nạn xã hội, nhưng vẫn cố thực hiện hành vi phạm tội. Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét tính chất hành vi, vai trò, nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự và quyết định hình phạt đối với bị cáo K 06 tháng tù, bị cáo Th 03 tháng tù là đúng pháp luật, nên không có cơ sở để giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

2.1. Đối với kháng cáo xin hưởng án treo của bị cáo Nguyễn Văn K: Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, đã bị xét xử về tội đánh bạc, chưa thi hành xong hình phạt lại tiếp tục phạm tội đánh bạc, lần phạm tội này thuộc trường hợp tái phạm nên phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Tại cấp phúc thẩm, bị cáo không xuất trình thêm được tình tiết giảm nhẹ nào mới, hơn nữa trong qúa trình sinh sống ở địa phương, bị cáo chỉ có thành tích trong việc phòng chữa cháy rừng được chính quyền địa phương xác nhận, nhưng cấp sơ thẩm cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm v khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự là không phù hợp, cấp sơ thẩm cần rút kinh nghiệm. Do đó, không có cơ sở chấp nhận kháng cáo của bị cáo về việc xin giảm nhẹ hình phạt và được hưởng án treo.

2.2. Đối với kháng cáo xin hưởng án treo của bị cáo Nguyễn Duy Th: Bị cáo phạm tội không có tình tiết tăng nặng; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, sau khi phạm tội đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Cấp sơ thẩm đã áp dụng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s, i khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo 03 tháng tù là mức hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt là phù hợp. Tuy nhiên, tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo xuất trình thêm tình tiết giảm nhẹ; trong quá trình sinh sống ở địa phương bị cáo có thành tích 03 năm liền (2016, 2017, 2018) có thành tích trong phong trào xây xựng nông thôn mới được chính quyền địa phương tặng Giấy khen và bị cáo hiện đang nuôi hai con nhỏ, hoàn cảnh gia đình khó khăn, đây là tình tiết giảm nhẹ mới quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Xét thấy, bị cáo nhân thân tốt, có nhiều tình tiết giảm nhẹ và có nơi cư trú ổn định nên không cần thiết phải cách ly ra khỏi xã hội mà cho bị cáo cải tạo dưới sự giám sát, giáo dục của chính quyền địa phương là cũng đủ nghiêm. Do đó, có căn cứ để chấp nhận kháng cáo của bị cáo Th, sửa bản án sơ thẩm, giữ Ng hình phạt tù và cho bị cáo hưởng án treo cũng đủ sức răn đe, thể hiện sự khoan hồng của pháp luật, như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An tại phiên tòa phúc thẩm là phù hợp.

[3] Về án phí phúc thẩm: Kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn K không được cấp nhận nên phải chịu án phí Hình sự phúc thẩm. Bị cáo Nguyễn Duy Th kháng cáo được chấp nhận nên không phải chịu án phí Hình sự phúc thẩm.

[4] Các quyết định của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị, đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị, Hội đồng xét xử không xem xét.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn K, giữ Ng bản án sơ thẩm;

Áp dụng khoản 1 Điều 321; các điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn K 06 (sáu) tháng tù về tội “Đánh bạc”. Thời hạn tù được tính từ ngày bắt bị cáo thi hành án, nhưng được trừ đi thời gian tạm giữ từ ngày 03/5/2021 đến ngày 09/5/2021.

2. Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; điểm e khoản 1 Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự; chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo Nguyễn Duy Th, sửa bản án sơ thẩm, giữ Ng mức hình phạt tù và cho bị cáo hưởng án treo.

Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm s, i khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54; Điều 65 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Nguyễn Duy Th 03 (Ba) tháng tù về tội “Đánh bạc”, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 (Mười hai) tháng. Thời hạn thử thách tính từ ngày tuyên án phúc thẩm (Ngày 12/01/2022) Giao bị cáo Nguyễn Duy Th cho Ủy ban nhân dân V, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo Nguyễn Duy Th có trách nhiệm phối hợp với Chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.

Trong thời gian thử thách, bị cáo Nguyễn Duy Th cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù của Bản án đã cho hưởng án treo.

Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo Điều 92 của Luật Thi hành án hình sự.

3. Về án phí phúc thẩm: Bị cáo Nguyễn Văn K phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

Bị cáo Nguyễn Duy Th phải không phải chịu án phí Hình sự phúc thẩm.

4. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

88
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội đánh bạc số 08/2022/HS-PT

Số hiệu:08/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;