TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ MỚI, TỈNH AN GIANG
BẢN ÁN 03/2024/HS-ST NGÀY 16/01/2024 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC
Ngày 16 tháng 01 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 94/2023/TLST-HS ngày 16 tháng 11 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 98/2023/QĐXXST-HS ngày 28 tháng 12 năm 2023, đối với bị cáo:
Phạm Văn L, sinh năm 1984, tại tỉnh An Giang; nơi cư trú: ấp T, xã T, huyện C, tỉnh An Giang; nghề nghiệp: Làm thuê; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Đạo phật; trình độ văn hóa: 03/12; con ông Phạm Văn Đ (chết) và bà Nguyễn Thị C (chết); anh chị em ruột: có 04 người, bị cáo là người thứ ba; vợ, con: chưa.
Tiền án: không.
Tiền sự: Ngày 14/02/2020, bị Công an xã B xử phạt 1.500.000 đồng, về hành vi “Đánh bạc”, đã nộp phạt xong.
Bị cáo bị tạm giam từ ngày 14/8/2023 cho đến nay, có mặt tại phiên tòa.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Bà Nguyễn Thị Thanh T, sinh năm 1962; nơi cư trú: ấp T, xã T, huyện C, tỉnh An Giang (vắng mặt);
2. Bà Nguyễn Thị G, sinh năm 1990; nơi cư trú: ấp T, xã T, huyện C, tỉnh An Giang (vắng mặt);
3. Bà Nguyễn Thị Kim H, sinh năm 1973; nơi cư trú: ấp T, xã T, huyện C, tỉnh An Giang (vắng mặt);
4. Bà Nguyễn Thị T1, sinh năm 1960; nơi cư trú: ấp T, xã T, huyện C, tỉnh An Giang (vắng mặt);
5. Bà Đỗ Thị Lệ T2, sinh năm 1972; nơi cư trú: ấp T, xã T, huyện C, tỉnh An Giang (vắng mặt);
6. Bà Nông Thị Bạch T3, sinh năm 1972; nơi cư trú: ấp T, xã T, huyện C, tỉnh An Giang (vắng mặt);
7. Bà Nguyễn Thị Diệu H1, sinh năm 1973; nơi cư trú: ấp T, xã T, huyện C, tỉnh An Giang (vắng mặt);
8. Bà Nguyễn Thị Ngọc G1, sinh năm 1973; nơi cư trú: ấp T, xã T, huyện C, tỉnh An Giang (vắng mặt);
9. Bà Nguyễn Ngọc H2, sinh năm 1980; nơi cư trú: ấp T, xã T, huyện C, tỉnh An Giang (vắng mặt);
Người làm chứng:
Ông Nguyễn Văn B, sinh năm 1977 (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 14 giờ 30 phút ngày 23/6/2020, nhận được tin báo của người dân tại khu vực vườn xoài, ấp T, xã T, huyện C có nhiều người đang đánh bạc, nên Công an xã T tiến hành kiểm tra, bắt quả tang Phạm Văn L (đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi đánh bạc), Nguyễn Thị G1, Nguyễn Thị Diệu H1, Nguyễn Thị Ngọc G1, Đỗ Thị Lệ T2, Nguyễn Ngọc H2, Nguyễn Thị Kim H, Nguyễn Thị T1, Nông Thị Bạch T3, Nguyễn Thị Thanh T tham gia đánh bài binh sáu lá được thua bằng tiền. Trong đó, L làm cái, T giúp L chung chi tiền, mỗi ván đặt cược từ 20.000 đồng đến 100.000 đồng.
* Vật chứng thu giữ: 05 bộ bài tây loại 52 lá, đã qua sử dụng; 01 chiếc chiếu và 663.000 đồng dùng đánh bạc (gồm 180.000 đồng trên chiếu bạc, 168.000 đồng của Nguyễn Thị G1, 115.000 đồng của Nguyễn Ngọc H2, 200.000 đồng của Nông Thị Bạch T3).
Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện C đã khởi tố Phạm Văn L để điều tra xử lý.
Tại Bản cáo trạng số 91/CT-VKSCM ngày 14/1/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang đã truy tố Phạm Văn L về tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Tại phiên tòa Bị cáo Phạm Văn L khai nhận đã thực hiện hành vi tham gia đánh bạc bằng hình thức đánh bài binh sáu lá được thua bằng tiền, phù hợp với lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Ngày 14/02/2020, bị Công an xã B ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính 1.500.000 đồng, về hành vi “Đánh bạc trái phép”, đã nộp phạt xong. Đến ngày 23/6/2020, L tiếp tục tham gia đánh bạc cùng với Nguyễn Thị G1, Nguyễn Thị Diệu H1, Nguyễn Thị Ngọc G1, Đỗ Thị Lệ T2, Nguyễn Ngọc H2, Nguyễn Thị Kim H, Nguyễn Thị T1, Nông Thị Bạch T3 thì bị bắt quả tang, như nội dung vụ án. Bị cáo biết hành vi của mình là vi phạm pháp luật, rất ăn năn, hối cải xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
Quá trình điều tra Nguyễn Thị G1, Nguyễn Thị Diệu H1, Nguyễn Thị Ngọc G1, Đỗ Thị Lệ T2, Nguyễn Ngọc H2, Nguyễn Thị Kim H, Nguyễn Thị T1, Nông Thị Bạch T3 có lời khai: Khoảng 14 giờ 30 phút ngày 23/6/2020 cùng L, T tham gia đánh bài binh sáu lá, trong đó L làm cái, mỗi ván đặt cược từ 20.000 đồng đến 100.000 đồng, thì bị Công an bắt quả tang, thu giữ vật chứng như nội dung vụ án.
Người làm chứng Nguyễn Văn B trình bày: Vườn xoài tại ấp T, xã T là của B, từ trước đến nay không giao người khác quản lý. Việc có người vào vườn xoài đánh bạc thì B không biết.
Đại diện Viện kiểm sát thực hành quyền công tố tại phiên tòa, sau khi xét hỏi, tranh luận, xem xét tính chất vụ án, mức độ và hậu quả từ hành vi phạm tội của bị cáo, xem xét các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, phát biểu lời luận tội và quan điểm giải quyết vụ án, đề nghị với Hội đồng xét xử:
Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 38, Điều 54 Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Xử phạt bị cáo Phạm Văn L 05 (năm) tháng 06 (sáu) ngày tù bằng thời hạn tạm giam về tội “Đánh bạc”. Trả tự do bị cáo tại phiên tòa.
Hình phạt bổ sung: Bị cáo làm thuê không có thu nhập ổn định đề nghị Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung.
Về xử lý vật chứng: Đã được xử lý trong quá trình điều tra nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về thủ tục tố tụng:
[1.1] Tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng và chứng cứ trong hồ sơ vụ án: Trong quá trình điều tra, truy tố, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện C, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng cũng như các chứng cứ được thu thập trong quá trình điều tra. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện và chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đều hợp pháp.
[1.2] Về trách nhiệm hình sự của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
Đối với Nguyễn Thị Thanh T, Nguyễn Thị G1, Nguyễn Thị Diệu H1, Nguyễn Thị Ngọc G1, Đỗ Thị Lệ T2, Nguyễn Ngọc H2, Nguyễn Thị Kim H, Nguyễn Thị T1, Nông Thị Bạch T3 có hành vi tham gia đánh bạc với tổng số tiền 663.000 đồng nhưng T, Thị G1, Diệu H1, Ngọc G1, T2, Ngọc H2, H, T1, T3 chưa có tiền án, tiền sự về hành vi “Đánh bạc hoặc tổ chức đánh bạc” nên Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an huyện C quyết định xử phạt hành chính đối với T, T, Diệu H1, Ngọc G1, T2, Ngọc H2, H, T1, T3 là đúng pháp luật.
[1.3] Tại phiên tòa, còn có một số người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng vắng mặt không rõ lý do, mặc dù Tòa án đã tống đạt giấy triệu tập hợp lệ. Xét thấy, sự vắng mặt của họ không gây trở ngại đến việc xét xử giải quyết vụ án, mặt khác, những người này đã có lời khai trong quá trình điều tra, khi cần thiết Hội đồng xét xử sẽ công bố lời khai của họ tại phiên tòa. Căn cứ Điều 292, Điều 293 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án.
[2] Những chứng cứ xác định hành vi phạm tội của bị cáo:
Lời nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo trong giai đoạn điều tra, phù hợp với lời khai của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Do đó có đủ cơ sở để xác định: Ngày 14/02/2020, bị cáo có hành vi đánh bạc trái phép, bị công an bị công an xã B xử phạt vi phạm hành chính số tiền 1.500.000 đồng đã nộp phạt xong. Đến ngày 23/6/2023, bị cáo tiếp tục tham gia đánh bạc cùng với T, Thị G1, Diệu H1, Ngọc G1, T2, Ngọc H2, H, T1, T3 thì bị bắt quả tang với tổng số tiền đánh bạc là 663.000 đồng.
Do đó hành vi của bị cáo Phạm Văn L đã cấu thành tội “Đánh bạc”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Cho nên, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang đã truy tố bị cáo Phạm Văn L về tội danh và Điều luật đã viện dẫn là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng quy định của pháp luật.
[3] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:
[3.1]. Mọi loại hình sát phạt ăn thua bằng tiền đều được xem là hành vi “Đánh bạc”, nó là nguyên nhân làm tiêu tán tài sản, phá vỡ hạnh phúc gia đình, làm phát sinh nhiều loại tệ nạn xã hội và tội phạm hình sự khác; ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an tại địa phương và cuộc sống bình thường của xã hội.
[3.2]. Bị cáo Phạm Văn L là một người trưởng thành, có điều kiện làm ăn chân chính. Lẽ ra, bị cáo phải biết cố gắng lao động để tạo ra của cải vật chất một cách chính đáng nuôi sống bản thân và trở thành công dân có ích cho gia đình, xã hội, làm tấm gương tốt cho con cháu noi theo. Thế nhưng không làm được đều này, do ham mê thắng thua bằng hình thức may rủi, muốn có nhiều tiền để tiêu xài mà không phải tốn nhiều công sức lao động cực nhọc nên bị cáo đã cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Bị cáo hoàn toàn nhận thức rồ hành vi đánh bạc là vi phạm pháp luật và gây ra nhiều hậu quả xấu cho xã hội nhưng vẫn cố ý thực hiện. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội cho nên việc đề nghị mức án bằng thời hạn tạm giam của đại diện Viện kiểm sát là chưa thật sự nghiêm mà cần phải có một mức án nghiêm mới có đủ tác dụng giáo dục, cải tạo bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung cho xã hội, nhất là trong tình hình các tệ nạn xã hội đang diễn ra ngày càng nhiều và diễn biến ngày càng phức tạp như hiện nay.
[3.3]. Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo chưa có tiền án; quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đối với hành vi vi phạm của bản thân và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm i, s khoản 1, Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 nên Hội đồng xét xử xem xét áp dụng để giảm nhẹ một phần hình phạt đối với bị cáo.
[3.4]. Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
[4]. Về hình phạt bổ sung: Do bị cáo làm thuê không có thu nhập ổn định nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[5] Về biện pháp tư pháp và xử lý vật chứng:
Về xử lý vật chứng: vật chứng thu giữ gồm 05 bộ bài tây loại 52 lá, đã qua sử dụng; 01 chiếc chiếu và 663.000 đồng dùng đánh bạc. Quá trình điều tra đã được xử lý xong nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.
[6] Án phí và quyền kháng cáo:
Bị cáo Phạm Văn L bị kết án nên phải chịu án phí hình sự theo quy định của pháp luật.
Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo Bản án theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ: Khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1, Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Tuyên bố bị cáo Phạm Văn L phạm tội “Đánh bạc”. Xử phạt bị cáo Phạm Văn L 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày tạm giam 14/8/2023.
2. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.
Buộc bị cáo Phạm Văn L phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.
3. Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331; Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, sự tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, Điều 7a và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án về tội đánh bạc số 03/2024/HS-ST
Số hiệu: | 03/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Chợ Mới - An Giang |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 16/01/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về