TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG
BẢN ÁN 563/2023/HS-PT NGÀY 30/11/2023 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC
Ngày 30-11-2023, tại trụ sở. Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 486/2023/TLPT-HS ngày 05-10-2023 đối với bị cáo Nguyễn Thái S và các bị cáo khác. Do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 82/2023/HS-ST ngày 30-8-2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai.
- Các bị cáo kháng cáo:
1. Nguyễn Thái S, sinh ngày 12-8-1991, tại Bình Định; nơi đăng ký HKTT và chỗ ở: Số A H, tổ C, phường A, thị xã A, tỉnh Gia Lai; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; trình độ văn hóa: 12/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; con ông Nguyễn Văn T (đã chết) và bà Phạm Thị H; vợ là Tạ Thị Lệ T1 vàcó 02 con; tiền án, tiền sự: Không.
Nhân thân:
- Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 04/2022/HS-ST ngày 06-11-2022, Tòa án nhân dân thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam xử phạt 03 tháng 28 ngày tù về tội “Đánh bạc”; tại Bản án hình sự phúc thẩm số 83/2022/HS-PT ngày 25-4-2022, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại. Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 29/2023/HS-ST ngày 25-4-2023, Tòa án nhân dân thị xã Điện Bàn xử phạt 06 tháng tù về tội “Đánh bạc” (bị cáo kháng cáo bản án sơ thẩm này).
- Ngày 27-7-2022, Công an thị xã A xử phạt vi phạm hành chính 20.000.000 đồng về hành vi “Tàng trữ trái phép công cụ hỗ trợ”. Chấp hành xong ngày 26-9- 2022.
Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 16-4-2022; đến ngày 12-9-2022, được thay đổi bằng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú, có mặt tại phiên tòa.
2. Nguyễn Phi Đ, sinh ngày 25-12-1972, tại Bình Định; nơi đăng ký HKTT: Tổ I, phường A, thị xã A, tỉnh Gia Lai; chỗ ở: Số A Q, phường A, thị xã A, tỉnh Gia Lai; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; trình độ văn hóa: 9/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; con ông Nguyễn Thanh T2 và bà Trương Thị P (đều đã chết); vợ là Nguyễn Thị Thu T3 và có 02 con; tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo bị tạm giữ ngày 16-4-2022; đến ngày 24-4-2022, được thay đổi bằng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú, có mặt tại phiên tòa.
3. Phạm Thị Ngọc L, sinh ngày 12-9-1969, tại Bình Định; nơi đăng ký HKTT và chỗ ở: Số A Q, phường A, thị xã A, tỉnh Gia Lai; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; giới tính: Nữ; trình độ văn hóa: 9/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; con ông Phạm Đắc L1 (đã chết) và bà Dương Thị H1 (Dương Xuân H2); chồng là Phạm Ngọc T4 và có 02 con; tiền án, tiền sự:Không.
Nhân thân: Năm 2003, Công an thị xã A xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức Cảnh cáo về hành vi Đánh bạc.
Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 15-4-2022; đến ngày 10-01-2023, được thay đổi bằng biện pháp ngăn chặn cho Bảo lĩnh, có mặt tại phiên tòa.
4. Hoàng Văn T5, sinh ngày 08-8-1985, tại Hà Nam; nơi đăng ký HKTT và chỗ ở: Số B Ngọc Hân C, phường A, thị xã A, tỉnh Gia Lai; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; trình độ văn hóa: 12/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; con ông Hoàng Văn K (đã chết) và bà Hoàng Thị T6; vợ là Ma Thị Thu T7 và có 03 con; tiền án, tiền sự: Không.
Nhân thân: Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 19/2019/HSST ngày 24-5-2019, Tòa án nhân dân thị xã An Khê, tỉnh Gia Lai xử phạt 12 tháng cải tạo không giam giữ về tội “Đánh bạc”.
Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 15-4-2022; đến ngày 10-11-2022, được thay đổi bằng biện pháp ngăn chặn cho Bảo lĩnh, có mặt tại phiên tòa.
5. Nguyễn Cao N, sinh ngày 26-8-1988 tại Gia Lai; nơi đăng ký HKTT: Tổ G, phường T, thị xã A, tỉnh Gia Lai; chỗ ở: Số B P, phường A, thị xã A, tỉnh Gia Lai; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Phật giáo; giới tính: Nam; trình độ văn hóa: 7/12; nghề nghiệp: Thợ hớt tóc; con ông Nguyễn Hữu N1 và bà Ngô Thị T8; vợ là Nguyễn Thị Như Y và 02 có con; tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo được áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú, có mặt tại phiên tòa.
6. Đỗ Bá V (tên gọi khác: Vương E), sinh ngày 20-10-1980, tại Gia Lai;nơi đăng ký HKTT: Tổ I, phường A, thị xã A, tỉnh Gia Lai; chỗ ở: Số A Q, tổ A, phường A, thị xã A, tỉnh Gia Lai; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; trình độ văn hóa: 12/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; con ông Đỗ Văn K1 và bà Đỗ Thị N2; vợ là Nguyễn Lâm Quỳnh N3 và có 01 con; tiền án, tiền sự: Không.
Nhân thân: Ngày 21-4-2013, Công an thị xã A, tỉnh Gia Lai xử phạt vi phạm hành chính 750.000 đồng về hành vi Sử dụng trái phép chất ma túy.
Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 16-4-2022; đến ngày 27-9-2022, được thay đổi bằng biện pháp ngăn chặn cho Bảo lĩnh, có mặt tại phiên tòa.
7. Phạm Ngọc Dương S1, sinh ngày 25-5-1988, tại Bình Định; nơi đăng ký HKTT: Số C, phường A, thị xã A, tỉnh Gia Lai; chỗ ở: Số G T, phường T, thị xã A, tỉnh Gia Lai; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; trình độ văn hóa: 10/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; con ông Phạm Đắc L1 (đã chết) và bà Dương Thị H1 (Dương Xuân H2); vợ là Lâm Kim Trịnh T9 và có 01 con; tiền án, tiền sự:Không.
Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 16-4-2022; đến ngày 24-4-2022, được thay đổi bằng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú, có mặt tại phiên tòa.
8. Xà Quế N4, sinh ngày 02-02-1988, tại Gia Lai; nơi đăng ký HKTT và chỗ ở: Số A N, phường A, thị xã A, tỉnh Gia Lai; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; trình độ văn hóa: 12/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; con ông Xà Thiên T10 và bà Võ Thị H3; vợ là Phạm Thị Hồng C vàcó 02 con; tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú, có mặt tại phiên tòa.
9. Văn C1 (tên gọi khác: X), sinh ngày 05-01-1986, tại Gia Lai; nơi đăng ký HKTT và chỗ ở: Số G B (số cũ G B), phường A, thị xã A, tỉnh Gia Lai; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; trình độ văn hóa:
11/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; con ông Văn T11 và bà Ngô Thị P1; vợ là Trần Thị Thanh T12 và có 02 con; tiền án, tiền sự: Không.
Nhân thân: Ngày 13-12-2005, Tòa án nhân dân thị xã An Khê, tỉnh Gia Lai xử phạt 09 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”, nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 18 tháng kể từ ngày tuyên án.
Bị cáo bị tạm giữ ngày 15-4-2022; đến ngày 24-4-2022, được thay đổi bằng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú, có mặt tại phiên tòa.
10. Dương K, sinh ngày 17-6-1969, tại Bình Định; nơi đăng ký HKTT và chỗ ở: Tổ E, phường A, thị xã A, tỉnh Gia Lai; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; trình độ văn hóa: 9/12; nghề nghiệp: Làm nông; con ông Dương Văn Q và bà Phan Thị L2 (đều đã chết); vợ là Võ Thị L3 và có 02 con; tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo bị tạm giữ ngày 15-4-2022; đến ngày 24-4-2022, được thay đổi bằng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú, có mặt tại phiên tòa.
11. Lê Trọng T13, sinh ngày 22-5-1996, tại Gia Lai; nơi đăng ký HKTT và chỗ ở: Số C đường T, phường A, thị xã A, tỉnh Gia Lai; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; trình độ văn hóa: 12/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; con ông Lê Trọng N5 và bà Trần Thị Nguyệt T14; vợ là Nguyễn Thị Thu Đ1 và có 01 con; tiền án, tiền sự: Không.
Bị tạm giữ ngày 16-4-2022; đến ngày 24-4-2022, được thay đổi bằng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú, có mặt tại phiên tòa.
12. Trần Văn S2, sinh ngày 28-01-1988, tại Gia Lai; nơi đăng ký HKTT và chỗ ở: Số G T, phường T, thị xã A, Gia Lai; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; trình độ văn hóa: 9/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; con ông Trần Văn B và bà Võ Thị X1; vợ là Nguyễn Thị Tuyết H4 và có 03 con; tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo bị tạm giữ ngày 16-4-2022; đến ngày 24-4-2022, được thay đổi bằng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú, có mặt tại phiên tòa.
13. Phạm Thị Ngọc L4, sinh ngày 28-02-1967, tại Bình Định; nơi đăng ký HKTT: Tổ A, phường A, thị xã A, tỉnh Gia Lai; chỗ ở: Số H N, tổ I, phường A, thị xã A, tỉnh Gia Lai; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; giới tính: Nữ; trình độ văn hóa: 7/12; nghề nghiệp: Buôn bán; con ông Phạm Đắc L1 (đã chết) và bà Dương Thị H1 (Dương Xuân H2); chồng là Nguyễn Khắc T15 (đã ly hôn) và có 02 con; tiền án, tiền sự: Không.
Nhân thân: Ngày 04-8-2007, Công an huyện K, tỉnh Gia Lai xử phạt vi phạm hành chính về hành vi Đánh bạc.
Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú, có mặt tại phiên tòa.
(Vụ án còn có 04 bị cáo khác và 14 người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, nhưng không kháng cáo, không bị kháng nghị, nên Hội đồng xét xử phúc thẩm không triệu tập).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau (Đối với các bị cáo kháng cáo):
Ngày 14-4-2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra (C02) - Bộ C3 phối hợp với các lực lượng chức năng bắt quả tang các đối tượng Phạm Thị Ngọc L, Hoàng Văn T5, Văn C1 và Dương K2 đang có hành vi giao nhận cáp đề với các con bạc, với các đại lý cấp trên và cấp dưới tại nhà riêng của các đối tượng trên địa bàn thị xã A, tỉnh Gia Lai, qua điều tra xác định:
Từ cuối năm 2019, Phạm Thị Ngọc L cùng Phạm Ngọc T4 (chồng của L), Đỗ Bá V, Xà Q tổ chức nhận số lô, số đề từ các thầu đề, đại lý cấp dưới gồm Phạm Ngọc Dương S1, Hoàng Văn T5, Nguyễn Thái S, Văn C1 và Nguyễn Phi Đ để tổ chức cho Dương K2, Trần Văn S2, Nguyễn Ngọc H5, Lê Trọng T13, Duy Nhật T16, Trần H6 và một số con bạc khác đánh bạc được thua bằng tiền thông qua ứng dụng tin nhắn SMS, Z,… Việc quy ước cách thức chơi đánh bạc bằng hình thức: Đánh số lô, số đề và đối kết quả xổ số đài miền T5 và đài miền B để xác định tiền được thua, cụ thể như sau:
- Đánh bạc bằng hình thức ghi đề: Có hai loại, gồm loại “Hai số” và loại “Ba số” (Đánh ba càng). Người chơi chọn mua một hoặc nhiều con số bất kỳ từ con số 00 đến con 99 đối với loại “Hai số” và từ con số 000 đến con số 999 đối với loại “Ba số”, giá trị mỗi con số mua bao nhiêu là tùy thuộc vào người chơi. Nếu số chọn trùng với hai số cuối hoặc ba số cuối của giải đặc biệt là thắng cuộc. Tiền đánh được tính theo nghìn, tại giải xổ số miền T nếu đánh 1.000 đồng tiền đề thắng được 70.000 đồng, giải xổ số đài miền B nếu đánh 1.000 đồng đề thắng được 80.000 đồng đối với hình thức đánh “Hai số”, nếu thua thì mất 1.000 đồng. Đối với đánh ba càng (Ba số) người chơi nếu đánh 1.000 đồng thắng được 400.000 đồng, nếu thua thì mất 1.000 đồng.
- Đối với hình thức đánh lô: Người chơi chọn bất kỳ một con số có hai chữ số từ 00 đến 99 của tất cả các giải kết quả xổ số. Nếu chọn số trùng với hai số cuối của tất cả các giải thì thắng cuộc. Tiền đặt cược tính theo điểm, đối với đài xổ số miền T nếu đánh 01 điểm lô bằng 12.600 đồng, thắng được 70.000 đồng, thua mất 12.600 đồng; đối với đài xổ số miền B nếu đánh 01 điểm lô bằng 21.600 đồng, thắng được 80.000 đồng, thua mất 21.600 đồng.
- Ngoài ra còn đánh bạc bằng hình thức lô xiên 2, xiên 3. Người chơi phải lựa chọn mua hai cặp số bất kỳ với loại lô xiên 2, ba cặp số bất kỳ với loại lô xiên 3 trong các cặp số từ 00 đến 99. Giá trị mỗi cặp số mua bao nhiêu là tùy người chơi, việc đối chiếu thanh toán thắng thua là căn cứ vào hai số cuối bất kỳ của các giải xổ số của đài miền T5 hoặc miền B mở thưởng ngày hôm đó. Tỷ lệ tiền thắng tính theo điểm, 01 điểm bằng 10.000 đồng nếu thắng cuộc được 100.000 đồng thua cuộc mất 10.000 đồng (đối với xiên 2); 01 điểm bằng 10.000 đồng nếu thắng cuộc được 400.000 đồng thua cuộc mất 10.000 đồng (đối với xiên 3). Hành vi phạm tội của các đối tượng như sau:
1. Hành vi Tổ chức đánh bạc:
1.1. Phạm Thị Ngọc L: Từ khoảng đầu tháng 8-2021, Phạm Thị Ngọc L bắt đầu nhận bảng số lô, số đề của các đại lý cấp dưới trên địa bàn thị xã A chuyển đến để hưởng lợi. Hàng ngày L sử dụng điện thoại di động Iphone màu đen bạc gắn sim số: 0393.717.X đăng nhập vào tài khoản Zalo “Cu đen” đăng ký bằng số điện thoại: 0362.829.X để nhận phơi đề từ các đại lý cấp dưới gồm: Phạm Ngọc Dương S1 (nick Z1), B1 (nick zalo B4), Nguyễn Đ2 (nick Z) để hưởng lợi, trường hợp có những con số đánh tiền lớn L sẽ cân đối và chuyển cho người tên D (nick zalo D2) ở xã K, huyện K, tỉnh Gia Lai. Sau khi có kết quả xổ số L sẽ tính toán tiền thắng thua với các đại lý, việc thanh toán tiền với các đại lý cấp dưới và đại lý cấp trên là thanh toán trực tiếp bằng tiền mặt. Giúp sức cho L là Phạm Ngọc T4 (chồng của L), hàng ngày T4 điều hành công việc mua bán vé xổ số, thu vé số và thu tiền xổ số từ các tiểu lý. Ngoài công việc trên khi nào có khách thân quen của T4 có nhu cầu mua số lô, số đề T4 sẽ nhận sau đó gửi các số lô, số đề trên cho L để L ghi nhận và sau đó tính toán thắng thua. Hôm nào thua nhiều tiền không đủ tiền để trả tiền thắng cho các đại lý L sẽ trao đổi để T4 đi mượn tiền để L thanh toán.
Căn cứ tài liệu, chứng cứ thu thập đã xác định ngày 14-4-2022, Phạm Thị Ngọc L nhận số lô số đề từ các đại lý gồm:
- Phạm Ngọc D1 Sơn đài xổ số miền T5 số tiền là: 32.697.000 đồng, miền B số tiền là: 12.522.600 đồng (Đối với phơi đề của giải xổ số miền B khi L chưa trả lời đồng ý nhận của S1 thì bị bắt nên L không nhận đánh bạc với S1 số tiền của giải miền B, đồng thời khi đó giải miền B chưa xổ). Tổng tiền các phơi đề giải miền T mà Phạm Ngọc Dương S1 chuyển cho L trúng là: 25.200.000 đồng; số tiền L thắng S1 là: 7.497.000 đồng. Như vậy, tổng số tiền đánh bạc giải miền T ngày 14-4-2022, giữa L và S1 là 57.897.000 đồng.
- Người tên B1 (Zalo tên Mỳ S3) đài tỉnh Bình Định số tiền 9.416.000 đồng. Đối chiếu kết quả xổ số đài tỉnh Bình Định các con số Bửu chuyển cho L không trúng, nên B1 thua L 9.416.000 đồng.
- Nguyễn Đ2 (Zalo tên Đảm N6) đài tỉnh Bình Định số tiền 7.236.000 đồng. Tổng tiền các phơi đề Nguyễn Đảm t là 33.750.000 đồng. Số tiền L thua Đ2 là 26.514.000 đồng. Như vậy, tổng số tiền đánh bạc ngày 14-4-2022, giữa L và Nguyễn Đ2 là 40.986.000 đồng.
Như vậy, tổng số tiền Phạm Thị Ngọc L tổ chức đánh bạc của giải xổ số miền T vào ngày 14-4-2022 với các đại lý nêu trên là 108.299.000 đồng.
1.2. Phạm Ngọc Dương S1: Khoảng đầu năm 2022, Phạm Ngọc Dương S1 sử dụng số điện thoại di động 0358.021.872 đăng ký tài khoản Zalo là “Giang Tran” để nhận phơi đề từ các con bạc, đại lý cấp dưới và chuyển cho các đại lý cấp trên để hưởng tiền hoa hồng (01% trong tổng số tiền chuyển cho đại lý cấp trên sau khi nhận từ đại lý cấp dưới). Việc thanh toán tiền được, thua bằng tiền mặt hoặc chuyển khoản Ngân hàng vào ngày hôm sau.
Căn cứ tài liệu, chứng cứ thu thập được xác định ngày 14-4-2022, S1 tổ chức đánh bạc với 11 con bạc với tổng số tiền là 181.239.000 đồng. Sau khi nhận số lô, số đề của các con bạc, S1 chuyển cho Phạm Thị Ngọc L, Phạm Thị Ngọc L4, Y, S4 và T17 (Zalo L) qua tin nhắn và Z, với tổng số tiền là 170.487.000 đồng. Số tiền S1 được hưởng ngày 14-4-2022 là 4.239.000đồng.
Ngoài ra, ngày 24-02-2022, Phạm Ngọc Dương S1 đã bán bao lô số của đài Bình Định cho Trần Văn S2 với số tiền là 1.260.000 đồng và sau khi có kết quả xổ số Bình Định thứ 5 (ngày 24-02-2022), thì Trần Văn S2 thắng 7.000.000 đồng. Tổng số tiền Trần Văn S2 đánh bạc với Phạm Ngọc Dương S1 là 8.260.000 đồng. Số tiền Trần Văn S2 nhận được là 5.740.000 đồng. Số tiền này, Phạm Ngọc Dương S1 đã thanh toán cho Trần Văn S2. 1.3. Hoàng Văn T5: Khoảngcuối năm 2021, Hoàng Văn T5 bắt đầu tổ chức đánh bạc dưới hình thức số lô đề để nhận phơi đề từ các con bạc, đại lý cấp dưới. Đối với các số lô số đề trong ngày đánh lớn, T5 sẽ cân đối và chuyển cho các đại lý cấp trên để chạy số, phần còn lại T5 sẽ giữ lại để thắng thua với các con bạc.
Căn cứ tài liệu, chứng cứ thu thập đã xác định được ngày 14-4-2022, T5 tổ chức đánh bạc với 12 con bạc, với tổng số tiền là 63.299.000 đồng. Tổng số tiền các con bạc thắng trong ngày 14-4-2022 là39.830.000 đồng; tổng số tiền T5 tổ chức đánh bạc với các con bạc vào ngày 14-4-2022 là 103.129.000 đồng.
Sau khi nhận các số lô số đề trên, Trung chuyển cho Phạm Ngọc Dương S1 trong ngày 14-4-2022 các số lô đề với tổng số tiền là 6.223.000 đồng.
Như vậy, số tiền Hoàng Văn T5 được hưởng lợi bất chính trong ngày 14-4- 2022 là:63.299.000 đồng - 39.830.000 đồng - 6.223.000 đồng = 17.246.000 đồng.
Ngoài ra, Hoàng Văn T5 còn nhiều lần bán số lô đề cho Duy Nhật T16 và thắng tiền. Do đó, trong các ngày: 11, 12, 14,17, 18, 25,26, 27, 28,30-3-2022 và các ngày 02, 04,05, 08, 12,14-4-2022, T16 nhiều lần chuyển tiền vào tài khoản của Hoàng Văn T5 qua dịch vụ Internet Banking từ tài khoản của T16 để thanh toán tiền thua số đề của ngày hôm trước cho T5, với tổng số tiền là 154.950.000 đồng. Số tiền đánh bạc giữa T16 với Hoàng Văn T5 một lần thấp nhất là 1.570.000 đồng và cao nhất là 29.290.000 đồng. Cách thức thanh toán tiền giữa T16 và T5 được thỏa thuận là khi Tân thua sẽ chuyển tiền cho T5 qua tài khoản Ngân hàng của T5, còn nếu thắng T16 sẽ đến gặp T5 ở nhà hoặc quán cà phê để lấy tiền.
1.4. Đỗ Bá V: Từ khoảng tháng 6-2021, Đỗ Bá V bắt đầu nhận bảng số lô, số đề của các đại lý cấp dưới chuyển đến để hưởng lợi. Tuy nhiên, do tình hình dịch bệnh nên V không nhận thường xuyên. Đến khoảng đầu năm 2022, V thuê Xà Quế N4 thực hiện việc nhận bảng lô đề của các đại lý cấp dưới bằng hình thức gửi tin nhắn điện thoại, sau đó báo lại cho V số tiền đánh bạc từng ngày. Sau khi có kết quả xổ số N4 sẽ đến nhà V để đối chiếu số lô, số đề, số tiền của các đại lý với kết quả xổ số tương ứng để xác định số tiền thắng, thua bạc. Sau đó, N4 sẽ tổng hợp số tiền từng ngày và có trách nhiệm thu, trả tiền thắng, thua bạc đối với các đại lý. N4 được V trả công 200.000 đồng/ 01 ngày. Ngày 14-4-2022, V sử dụng điện thoại Iphone 7 gắn sim số 0363.843.X để nhận và chuyển số lô số đề với Nguyễn Phi Đ, Văn C1 và nhận bảng đề từ Xà Quế N7. Căn cứ tài liệu chứng cứ thu thập được xác định ngày 14-4-2022, Đỗ Bá V cùng Xà Quế N7 đã tổ chức đánh bạc với các con bạc và đại lý gồm:
- Đối với Nguyễn Phi Đ: Vương nhận của Đ số lô số đề với số tiền là: 12.446.000 đồng. Kết quả Đ thắng: 15.400.000 đồng. Tổng số tiền đánh bạc Đ chuyển cho V là:
27.846.000 đồng. V chuyển lại cho Đ số lô đề với số tiền là: 9.260.000đ. Kết quả V thắng: 10.500.000 đồng. Tổng tiền đánh bạc V chuyển cho Đ là: 19.760.000 đồng.
Vậy tổng số tiền V đánh bạc (nhận, chuyển) lô đề ngày 14-4-2022 với Nguyễn Phi Đ là: 47.606.000 đồng.
- Đối với Văn C1: Vương nhận của C1 số lô, số đề với tổng số tiền là: 11.725.000 đồng. Kết quả Văn C1 trúng thắng bạc số tiền là: 10.500.000 đồng.Tổng tiền V đánh bạc với Văn C1 là: 22.225.000 đồng.
- Người phụ nữ tên B2: Tổng số tiền B2 mua số lô của V là: 2.600.000 đồng. Căn cứ kết quả B2 thắng là: 10.500.000 đồng.Tổng tiền V đánh bạc với B2 là: 13.100.000 đồng.
- Người đàn ông tên M: Tổng số tiền M mua số lô đề của V là: 650.000 đồng. Kết quả M thắng số tiền 2.100.000 đồng. Tổng tiền V đánh bạc với M là: 2.750.000 đồng.
- Người đàn ông tên T18: Tổng tiền T18 mua số lô đề là: 22.242.000 đồng. Kết quả T18 thắng: 7.000.000 đồng.Tổng tiền V đánh bạc với T18 là: 29.242.000 đồng.
Như vậy, tổng số tiền V tổ chức đánh bạc với các con bạc trên trong ngày 14-4-2022 là: 114.923.000 đồng.
Sau khi nhận các số lô đề trên Xà Q chuyển các số lô đề choVăn Chương với số tiền 4.560.000 đồng vàngười tên B với số tiền: 480.000 đồng.Tổng tiền chuyển là: 5.040.000 đồng.
Số tiền V thu lợi bất chính ngày 14-4-2022 là: Tiền thắng T18: 15.242.000 đồng; tiền thắng Văn Chương: 1.225.000 đồng; tiền thua B2: 7.900.000 đồng; tiền thua Nguyễn Phi Đ: 1.714.000 đồng; tiền thua M 1.450.000 đồng; tiền xác N7 chuyển cho Văn C1 và B: 5.040.000 đồng và tiền công Xà Quế Ngọc: 200.000 đồng. Tổng cộng là: 163.000 đồng.
Căn cứ vào các dữ liệu và tài liệu thu thập được có trong hồ sơ Cơ quan điều tra chứng minh số tiền thu lợi bất chính của Đỗ Bá V trước ngày 14-4-2022 là: 36.560.000 đồng; tiền hưởng lợi trong ngày 14-4-2022 là: 163.000 đồng. Tổng số tiền thu lợi bất chính của Đỗ Bá V là: 36.723.000 đồng.
1.5. Xà Quế N7: Khoảng đầu năm 2022, Xà Q được Đỗ Bá V thuê để cùng V1 chức đánh bạc dưới hình thức mua, bán số lô, số đề và được trả công 200.000 đồng/ngày để thực hiện nhiệm vụ: Hằng ngày nhận các số lô, số đề từ các con bạc nhắn qua số điện thoại sim rác sau đó chuyển lại đến số điện thoại 0363.843.X của Đỗ Bá V. Sau khi kết thúc xổ số miền B thì N7 qua nhà V để tính toán tiền đánh bạc thắng thua giữa V với các đại lý đầu trên, đầu dưới, các con bạc; thực hiện thanh toán tiền thắng thua; chia (san) bảng lô, đề giúp V, báo cáo số tiền thanh toán với các đại lý, con bạc và số tiền đã chi hàng ngày cho V. Căn cứ tài liệu chứng cứ thu thập được xác định ngày 14-4-2022, Xà Quế N7 đã sử dụng 02 điện thoại di động (Sam sung và Iphone) gắn sim số điện thoại gồm số 0979.688.181 và 01 số mạng V4 (số sim rác) để nhận phơi số lô số đề của những người gồm: chú T18, cô B2, anh M với tổng số tiền đánh bạc (gồm tiền xác và tiền trúng) là: 13.100.000 đồng + 2.750.000 đồng + 29.242.000 đồng = 45.092.000 đồng. Sau đó chuyển đến số điện thoại 0363.843.X cho Đỗ Bá V. Ngoài ra N7 giữ lại một số lô đề để chuyển cho Văn C1 tổng số tiền là: 4.560.000 đồng; anh B (không biết tên thật) tổng số tiền là: 480.000 đồng. Kết quả các số trên không trúng nên sẽ phải thanh toán số tiền trên cho Văn C1 và B là: 5.040.000 đồng vào ngày hôm sau. Theo lời khai Xà Quế N7: Ngoài việc được Đỗ Bá V trả công 200.000 đồng/ngày, thì trong ngày 14-4-2022 sau khi nhận số lô đề của các con bạc M và B2 thì N7 nhận bao lô 01 điểm là 13.000 đồng sau đó chuyển cho Đỗ Bá V 01 điểm là 12.600 đồng. N7 được hưởng chênh lệch 400 đồng/1 điểm. Đối với các phơi đề ngày 14-4- 2022, N7 được hưởng tiền chênh lệch 100.000 đồng. Số tiền này N7 chưa nhận được.Từ khi tham gia thực hiện hành vi Tổ chức đánh bạc cùng với Đỗ Bá V đến khi bị bắt N7 hưởng lợi khoảng 11.000.000 đồng.
1.6. Nguyễn Phi Đ: Khoảng tháng 3-2022, Đ bắt đầu tham gia ghi số lô, số đề cho các con bạc thông qua kết quả xổ số kiến thiết các đài miền T và miền B, sau đó Đ giữ lại một phần để thắng thua với con bạc, một phần Đ chuyển cho Đỗ Bá V và một số đối tượng khác. Quá trình giao nhận các phơi đề và trao đổi thông tin với các con bạc Đ sử dụng 03 điện thoại di động gồm: 01 điện thoại Iphone 5, 01 điện thoại Iphone 4 và 01 điện thoại Nokia gắn các sim số 0359.636.472, 0388.367.192, 0357.260.976 để liên lạc nhắn tin, gọi điện với các con bạc, đại lý nhận số lô, số đề.
Căn cứ dữ liệu tin nhắn thu giữ trong điện thoại và lời khai của Đ xác định:
- Ngày 12-4-2022, Đ đã bán cho Nguyễn Ngọc H5 số lô đề của đài xổ số kiến thiết Đăk Lăk với số tiền là: 6.760.000 đồng. Kết quả không trúng thưởng Đ thắng H5 số tiền: 6.760.000 đồng. Trong ngày 12-4-2022, Nguyễn Phi Đ còn bán bao lô số cho nhiều con bạc theo đài Đ, với số tiền trên 20 triệu đồng, nhưng do khi có kết quả thì các số lô đã bán và bán cho các con bạc Đ đã xóa và tiêu hủy giấy tờ hết nên không còn dữ liệu.
- Ngày 14-4-2022, Đ đã ghi (bán) số lô, số đề cho 03 con bạc của đài xổ số miền T cụ thể như sau:
+ Bà bán vé số ở C (không rõ nhân thân lai lịch sử dụng số điện thoại 0782.X.701) với số tiền 2.323.000 đồng. Kết quả trúng thưởng với số tiền 77.740.000 đồng. Tổng tiền đánh bạc: 80.063.000 đồng.
+ Bà T19 bán vé số (không rõ lai lịch sử dụng số điện thoại 0397.249.752) với số tiền: 5.740.000 đồng. Kết quả trúng thưởng số tiền 3.080.000 đồng. Tổng tiền đánh bạc: 8.820.000 đồng.
+ Người tên Văn nhà ở gần đèo A (không rõ địa chỉ): với số tiền 6.390.000 đồng. Kết quả không trúng. Tổng số tiền đánh bạc là: 6.390.000 đồng.
Ngoài 03 đối tượng nhắn tin đến để mua số lô, số đề trên, Đ khai còn có nhiều “con bạc” khác đến trực tiếp “ghi” lô, đề nhưng không nhớ tên, tuổi, địa chỉ.
Tổng số tiền Định tổ chức đánh bạc với các con bạc trong ngày 14-4-2022 là: 95.273.000 đồng.
Sau khi nhận các số lô, số đề trên Định giữ lại một phần để ăn thua và chuyển cho các đại lý cấp trên gồm:
+ Đỗ Bá V: tổng số lô, số đề với số tiền: 12.446.000 đồng. Kết quả trúng thưởng số tiền 15.400.000 đồng. Ngoài ra, V còn chuyển lại cho Đ các số lô, số đề với tổng số tiền 9.260.000 đồng, kết quả trúng thưởng số tiền 10.500.000 đồng.
+ Người tên L5 (chưa rõ lai lịch trú tại xã Y, huyện Đ, tỉnh Gia Lai sử dụng số điện thoại 0962.778.082): Tổng số lô số đề với số tiền: 13.881.000 đồng, kết quả trúng thưởng số tiền 58.750.000 đồng.
Căn cứ vào các dữ liệu và tài liệu thu thập được xác định các số lô số đề ngày 14-4-2022, Đ giữ lại để ăn thua với các con bạc thì Đ bị thua lỗ số tiền là 2.617.000 đồng. Đối với các số lô, số đề Đ chuyển cho Đỗ Bá V và L5 là Đ chạy số nên không được V, L5 trích tiền gì từ việc ghi lô đề.
Từ khi tổ chức đánh bạc dưới hình thức số lô số đề đến ngày bị bắt Nguyễn Phi Đ bị thua lỗ số tiền khoảng 28.000.000 đồng (hai mươi tám triệu đồng) do ôm số.
1.7. Văn C1 Khoảng tháng 01-2022, C1 bắt đầu tham gia tổ chức đánh bạc dưới hình thức số lô, số đề và làm đại lý cấp dưới cho Đỗ Bá V. Hàng ngày, khi khách có nhu cầu ghi số lô, số đề thì nhắn tin cho V qua số điện thoại 0989.648.X thông qua tin nhắn SMS, Z, V2. Hết thời gian nhận của các con bạc C1 chuyển lên cho V thông qua tin nhắn điện thoại đến số 0363.843.X. Ngoài ra C1 tính toán để chuyển cho một số đại lý khác và giữ lại một phần để ăn thua với khách. Sau khi có kết quả xổ số, C1 tính toán tiền thắng thua để sáng ngày hôm sau giao nhận tiền bạc thắng thua với các đại lý trên, với khách. Khi chuyển các số lô, số đề cho Đỗ Bá V và các đại lý khác C1 được hưởng tiền hoa hồng (tiền lai) trên tổng số tiền khách đánh lô (hưởng 01 lai tức là khách đánh lô 10.000 đồng thì C1 được hưởng 1.000 đồng trong số tiền trên).
Căn cứ tài liệu chứng cứ thu thập được xác định ngày 14-4-2022, Văn C1 đã tổ chức đánh bạc với các con bạc theo đài xổ số Bình Định gồm:
- Đối với Lê Trọng T13: Tổng số tiền T13 đánh là 10.912.000 đồng. Kết quả không trúng C1 thắng T13 số tiền trên. Tổng số tiền C1 đánh bạc với T13 là 10.912.000 đồng.
- Đối với người tên Y: Tổng số tiền Y đánh lô đề là 19.950.000 đồng. Kết quả Y thắng số tiền 64.000.000 đồng. Tổng số tiền C1 đánh bạc với Y là: 83.950.000 đồng.
- Đối với người phụ nữ có số điện thoại 0816601601: Tổng số tiền đánh là 9.241.000 đồng, Số tiền thắng là 12.600.000 đồng. Tổng số tiền C1 đánh bạc với người này là: 21.841.000 đồng.
Tổng số tiền đánh bạc của Văn C1 với các con bạc là: 116.703.000 đồng.
Sau khi nhận các số lô số đề trên Văn Chương chuyển cho các đại lý sau:
- Đối với người tên N8 kuba: Tổng số tiền chuyển cho N8 kuba là 12.320.000 đồng. Số tiền thắng là 10.500.000 đồng.
- Đối với Đỗ Bá V: Tổng số tiền chuyển cho V là 11.725.000 đồng. Số tiền thắng là 10.500.000 đồng.
- Đối với Nguyễn Thái S: Tổng số tiền C1 chuyển cho S là 3.562.000 đồng. Số tiền thắng 50.000.000 đồng.
Căn cứ vào các dữ liệu và tài liệu thu thập được xác định các số lô, số đề tổ chức ngày 14-4-2022, Văn C1 thu lợi được số tiền 14.156.000 đồng.
Do các dữ liệu trước đó, C1 đã xóa nên không thể tính cụ thể chi tiết được số tiền đã hưởng lợi, theo C1 khai việc tổ chức đánh bạc của C1 có ngày thắng, ngày thua. Căn cứ lời khai của C1 cùng các tài liệu dữ liệu thu thập được thể hiện từ khi tổ chức đánh bạc dưới hình thức số lô số đề đến ngày bị bắt thì số tiền C1 được hưởng lợi là: 14.156.000 đồng.
1.8. Nguyễn Thái S: - Hành vi Tổ chức đánh bạc:
Khoảng tháng 01-2022, S quen biết người tên L6, khoảng 35 tuổi, nhà ở thị trấn N, huyện P, tỉnh Bình Định. Sau khi biết L6 có mua bán số lô, số đề nên S đặt vấn đề được chuyển bảng lô, đề cho anh L6. S và L6 thoả thuận: Sơn thu của con bạc chơi đề 70 nghìn đồng/100 nghìn đồng, L6 thu của S 65 nghìn đồng/100 nghìn đồng, S được hưởng lợi chênh lệch 5 nghìn đồng/100 nghìn đồng; Lô 3 số Sơn thu của con bạc 12 nghìn đồng/điểm, L6 thu của S 11 nghìn đồng/01 điểm. S và L6 quy ước với nhau S sẽ chuyển chuyển lô, đề cho L6 qua nhóm zalo “lụm lúa” mà L6 kết bạn và thêm S vào nhóm, S không có số điện thoại của L6. Các con bạc muốn mua số lô, số đề thì sẽ nhắn tin qua T20 hoặc V2 cho S trước 17 giờ 10 phút hàng ngày (trước khi quay thưởng 5 phút). Việc thanh toán tiền thắng thua: S thanh toán cho L6 là chuyển tiền vào tài khoản mang tên Lê Thị Thùy V3 mở tại Ngân hàng M1 (S không nhớ số tài khoản vì sau mỗi lần chuyển tiền S đều xoá tin nhắn), khi L6 thanh toán tiền cho S thì L6 chuyển vào số tài khoản 040106618552 mang tên Trần Vũ Hoàng m tại Ngân hàng S8. S và con bạc sẽ thanh toán tiền với nhau bằng tiền mặt.
Ngày 14-4-2022, S đã bán số lô, số đề cho Văn C1 và vợ T21 chợ với tổng số tiền là: 2.305.000 đồng. Tất cả số lô, đề này S chưa kịp chuyển cho L6 thì cơ quan điều tra đã triệu tập làm việc. Đối chiếu kết quả xổ số Bình Định: Văn C1 thắng 50.000.000 đồng, vợ T21 chợ thắng 5.000.000 đồng. Tổng số tiền S tổ chức đánh bạc vào ngày 14-4-2022 là: 57.305.000 đồng. Tất cả số lô, đề trên S chưa thanh toán với Văn C1 và vợ T21 chợ.
Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ thu thập trong hồ sơ thể hiện tổng số tiền S đã nhận từ các con bạc và chuyển vào nhóm Z “Lụm lúa” cho người tên L6 tính đến ngày 14-4-2022 là 34.900.000 đồng (Ba mươi bốn triệu chín trăm ngàn đồng). Do đó số tiền S được hưởng lợi từ việc ghi lô đề số tiền là: 34.900.000 đồng x 7,14% = 2.491.860 đồng. Thực tế số tiền S được hưởng lợi khi ghi số lô, số đề chính xác là 2.500.000 đồng. Số tiền này S đã sử dụng tiêu xài cá nhân hết.
- Hành vi Đánh bạc:
Trong thời gian từ tháng 3-2022 đến tháng 4-2022, Nguyễn Thái S có hành vi sử dụng điện thoại di động kết nối mạng internet tham gia Đánh bạc dưới hình thức cá độ bóng đá, cụ thể như sau:
+ Ngày 23-3-2022, S được người tên T22 nhà ở thị xã A, tỉnh Gia Lai (S không biết địa chỉ cụ thể) cấp tài khoản tên “Than102”, mật khẩu: “Tttt9999” để đăng nhập vào trang web “keochinh.com”, sau đó chọn “bong88.com” để tham gia cá độ bóng đá, thoả thuận 1USD (01 xu) = 30.000VNĐ, S được Thân cấp một tài khoản cấp dưới là KB7G010D001 với số tiền trong tài khoản là 400 USD (xu). S chơi cá độ bóng đá với tổng cộng 10 lượt đặt cược, mỗi trận đấu đặt cược một lần. Trận đấu có số tiền đánh bạc thấp nhất là 6.000.000 đồng, cao nhất là 11.220.000 đồng (tính cả tiền thắng). Tổng tiền đánh bạc là: 86.070.000 đồng. Kết quả ngày 23-3-2022, S thắng số tiền 8.070.000 đồng. Số tiền này T22 chưa thanh toán cho S. Sau đó, S không tham gia cá độ bóng đá trên tài khoản này nữa.
+ Từ ngày 07 đến 13-4-2022, S được Nguyễn Viết C2 (S không biết địa chỉ cụ thể mà chỉ biết Chánh ở thị xã Đ, tỉnh Quảng Nam, sử dụng số điện thoại 0777456707) cấp cho 01 tài khoản để đánh bạc dưới hình thức cá độ bóng đá trên mạng Internet, quy ước 1USD (01 xu)= 40.000VNĐ. Để tham gia đánh bạc S dùng điện thoại di động Iphone 11 của mình sử dụng sim rác 3G kết nối mạng Internet rồi truy cập vào trang web “keochinh.com”, sau đó chọn “bong88.com”, đăng nhập vào tài khoản mà Chánh cấp cho S có tên là: “Qn101”, mật khẩu: “Tttt1234”. Sau khi đăng nhập, S chọn tham gia cá cược các kèo của các trận đấu đang diễn ra với tỷ lệ cá cược đã có sẵn trên trang web. Sau khi nhận tài khoản và mật khẩu trên, S đã tham gia cá cược các lần như sau:
+ Ngày 05-4-2022, S truy cập vào trang Web trên và được Chánh cấp cho một tài khoản cấp dưới là KA2H0701000. Kết quả S chơi cá độ bóng đá với tổng cộng 45 lượt đặt cược, tổng số tiền đánh bạc là 12.506 (xu) x 40.000đồng = 500.240.000 đồng. Trận đấu có số tiền đánh bạc thấp nhất là 8.000.000 đồng, cao nhất là 42.400.000 đồng (tính cả tiền thắng). Kết quả tài khoản này, S thắng số tiền 4.240.000 đồng.
+ Từ ngày 07- 08-4-2022, S tiếp tục truy cập vào trang Web trên và được Chánh cấp cho một tài khoản cấp dưới là KA2H0701001. S chơi cá độ bóng đá với tổng cộng 79 lượt đặt cược (có 01 lần cược bị từ chối), tổng số tiền đánh bạc là 21.438 (xu) x 40.000 đồng = 857.520.000 đồng. Trận đấu có số tiền đánh bạc thấp nhất là 8.000.000 đồng, cao nhất là 60.240.000 đồng (tính cả tiền thắng). Kết quả tài khoản này, S thắng số tiền 1.520.000 đồng.
+ Từ ngày 10- 12-4-2022, S tiếp tục truy cập vào trang Web trên và được Chánh cấp cho một tài khoản cấp dưới là KA2H0701002. S chơi cá độ bóng đá với tổng cộng 117 lượt đặt cược (có 03 lần cược bị từ chối), tổng số tiền đánh bạc là 30.760 (xu) x 40.000 đồng = 1.230.400.000 đồng. Trận đấu có số tiền đánh bạc thấp nhất là 8.000.000 đồng, cao nhất là 46.640.000 đồng (tính cả tiền thắng). Kết quả tài khoản này, S thua số tiền 45.600.000 đồng.
+ Ngày 13-4-2022, S tiếp tục truy cập vào trang Web trên và được Chánh cấp cho một tài khoản cấp dưới là KA2H0701003. S chơi cá độ bóng đá với tổng cộng 114 lượt đặt cược, tổng số tiền đánh bạc là 31.925 (xu) x 40.000 đồng = 1.277.000.000 đồng. Trận đấu có số tiền đánh bạc thấp nhất là 8.000.000 đồng, cao nhất là 30.720.000 đồng (tính cả tiền thắng). Kết quả tài khoản này, S thắng số tiền 73.000.000 đồng.
Tổng cộng, số tiền S thắng sau khi cá cược đối với tài khoản Chánh cung cấp là: 33.160.000 đồng. Số tiền này giữa S và C2 chưa chốt số tiền thắng thua với nhau nên chưa thanh toán cho nhau. Sau đó, S bị bắt nên không liên lạc để nhận số tiền này từ Chánh.
Như vậy, tổng số tiền Nguyễn Thái S sử dụng tham gia đánh bạc dưới hình thức cá độ bóng đá là: 3.951.230.000 đồng.
2. Hành vi Đánh bạc:
2.1. Dương K2 Khoảng đầu năm 2022, Dương K2 bắt đầu tổ chức ghi số lô, số đề cho các con bạc theo các đài xổ số miền T5 và miền B sau đó chuyển lên cho Phạm Ngọc Dương S1 qua tin nhắn SMS để hưởng tiền chênh lệch. Quá trình hoạt động phạm tội K2 sử dụng điện thoại di động Iphone 7 gắn sim số: 0964.613.339 và N9 gắn sim 0935.853.955 để nhận và chuyển các số lô, số đề qua cuộc gọi, tinh nhắn SMS.
Ngày 14-4-2022, K2 đã nhận số lô số đề của những con bạc sau:
- Đối với Lê Ngọc N10: Tổng số tiền mua số lô số đề đài Bình Định là:
3.612.000 đồng. Tổng số tiền mua số lô số đề đài miền B: 3.693.000 đồng. Kết quả N10 thắng đài Bình Định số tiền 1.050.000 đồng. Số tiền K2 đánh bạc với N10 đài Bình Định là: 4.662.000 đồng.
- Đối với Nguyễn Tiến H7 (T): Tổng số tiền mua số lô số đề đài Bình Định là:
650.000 đồng.Kết quả không trúng. Số tiền K2 đánh bạc với H7 đài Bình Định là: 650.000 đồng.
- Đối với Huỳnh Hiển H8: Tổng số tiền mua số lô số đề đài Bình Định là:
260.000 đồng. Kết quả không trúng. Số tiền K2 đánh bạc với H8 đài Bình Định là: 260.000 đồng.
- Đối với Lâm Văn S5: Tổng số tiền mua số lô số đề đài Bình Định: 260.000 đồng. Đài miền B là: 230.000 đồng. Kết quả không trúng. Số tiền K2 đánh bạc với S5 đài Bình Định là: 260.000 đồng.
Như vậy, Tổng số tiền K2 tổ chức đánh bạc đài miền T là: 5.832.000 đồng (Do K2 bị bắt lúc đài miền B chưa xổ nên không tính toán số tiền thắng của các con b c nên K2 chỉ chịu trách nhiệm số tiền đánh b c đài miền B với số tiền là: 3.923.000 đồng).
Sau khi nhận các số lô đề trên K2 nhắn tin chuyển số lô đề cho Phạm Ngọc Dương S1 tổng số tiền là: 4.865.000 đồng. Căn cứ kết quả xổ số đài Bình Định S6 thắng số tiền 1.050.000 đồng.
Căn cứ vào các dữ liệu và tài liệu thu thập được xác định các số lô số đề tổ chức ngày 14-4-2022, K2 hưởng lợi là: 355.000 đồng. Số tiền trên K2 chưa nhận được 2.2. Trần Văn S2: Từ khoảng đầu năm 2022 đến khi bị phát hiện, Trần Văn S2 bắt đầu mua số lô đề của Phạm Ngọc Dương S1. Khoảng 15 giờ 30 phút ngày 14-4-2022, S1 sử dụng điện thoại Nokia màu đen gắn sim số 0972.143.X để liên lạc mua số lô đề đài Bình Định với S1 qua số điện thoại 0935.446.X. Tổng số tiền S1 mua số bao lô với Dương S1 là: 5.040.000 đồng.Đối chiếu kết quả xổ số tỉnh Bình Định thì S1 không trúng nên Trần Văn S2 thua Phạm Ngọc Dương S1 5.040.000 đồng. Như vậy số tiền đánh bạc của Trần Văn S2 với Phạm Ngọc Dương S1 vào ngày 14-4-2022 là:
5.040.000 đồng. Số tiền thua Trần Văn S2 chưa thanh toán cho Phạm Ngọc Dương S1. Ngoài ra, ngày 24-02-2022, S1 mua của Phạm Ngọc Dương S1 bao lô số của đài tỉnh Bình Định với số tiền là 1.260.000 đồng và sau khi so kết quả xổ số Bình Định thứ 5 ngày 24-02-2022 thì S1 thắng được số tiền 7.000.000 đồng. Tổng số tiền S1 đánh bạc là: 8.260.000 đồng. Số tiền Trần Văn S2 nhận được là: 5.740.000 đồng. Số tiền này Phạm Ngọc Dương S1 đã thanh toán cho Trần Văn S2. Hiện tại số tiền Trần Văn S2 thua Phạm Ngọc Dương S1 đến ngày 13-4-2022 là 15.060.000 đồng. Như vậy, tính luôn số tiền thua ngày 14-4-2022 thì Trần Văn S2 phải thanh toán cho Phạm Ngọc Dương S1 số tiền: 15.060.000 đồng + 5.040.000 đồng = 20.100.000 đồng. Hiện số tiền trên Trần Văn S2 chưa trả cho Phạm Ngọc Dương S1.Từ khi mua số lô đề đến nay Trần Văn S2 không hưởng lợi mà thua số tiền là: 14.360.000 đồng.
2.3. Lê Trọng T13: Từ khoảng tháng 3-2022, T13 bắt đầu mua số lô số đề của Văn C1. Chiều ngày 14-4-2022, T13 sử dụng điện thoại di động Iphone 6 gắn sim số 0979.911.533 để liên lạc nhắn tin SMS mua số lô đề đài Quảng Trị và Bình Định với Văn C1. Tổng số tiền T13 mua số lô, số đề với Văn C1 của đài Quảng Trị và Bình Định là:
10.912.000 đồng. Đối chiếu kết quả xổ số miền T ngày 14-4-2022 các số Thành mua không trúng nên T13 thua C1 số tiền: 10.912.000 đồng. Ngoài ngày 14-4-2022, T13 có vài lần mua số lô đề của Văn C1 nhưng không nhớ mua số nào và bao nhiêu tiền. Số tiền T13 mua số lô đề với C1 thấp nhất là 300.000 đồng, số tiền cao nhất là là : 10.912.000 đồng. Hiện số tiền T13 thua Chương vào ngày 14-4-2022 thì chưa trả cho C1. Từ khi mua số lô đề của C1 đến nay T13 không hưởng lợi mà thua số tiền là: 10.912.000 đồng.
2.4. Phạm Thị Ngọc L4: Do biết Phạm Ngọc Dương S1 (S1 là em ruột của L4) có thầu số lô số đề nên ngày 13-4-2022, L4 có nói S1 chuyển cho L4 một ít số lô để kiếm thêm thu nhập. S1 đồng ý và thỏa thuận các số lô đề chuyển cho L4 nếu L4 thắng sẽ trích 01% trong tổng số tiền Lạc thắng để đưa cho S1 (đây gọi là tiền hưởng hoa hồng). Ngày 14-4-2022, L4 sử dụng điện thoại Nokia gắn sim số 0963.534.279 để nhận tin nhắn văn bản các số lô đánh đài Bình Định chuyển đến từ S1 với tổng là 455 điểm = 5.773.000 đồng. Đối chiếu kết quả xổ số kiến thiết của tỉnh Bình Định ngày 14-4- 2022, các con số lô mà Phạm Ngọc Dương S1 chuyển cho L4 không có con số nào trúng. Như vậy, L4 thắng S1 số tiền: 5.773.000 đồng. Số tiền này thì S1 chưa thanh toán cho L4 và L4 chưa trích phần trăm cho S1. L4 và S1 thỏa thuận nếu L4 thua thì mang tiền mặt đến nhà đưa cho S1, còn L4 thắng thì S1 đến nhà L4 để đưa tiền.
2.5. Nguyễn Cao N: Do biết Phạm Ngọc Dương S1 có thầu số lô số đề nên ngày 14-4-2022, N sử dụng điện thoại di động hiệu N12 trắng đen 1200 gắn sim số 0982.924.427 để nhắn tin mua số lô số đề với Phạm Ngọc Dương S1. Nguyên mua số lô của đài miền T với tổng số tiền là: 9.017.000 đồng. Đối với đài miền B: Nguyên nhắn tin với Phạm Ngọc Dương S1 để mua các con số lô tuy nhiên không thấy S1 trả lời nên N đã nhắn tin hủy hết các con số đã nhắn tin để mua đài miền B với S1. Đối chiếu kết quả xổsố kiến thiết của các tỉnh miền T (Bình Định, Quảng Trị, Quảng Bình) ngày 14-4-2022, tổng số tiền N trúng là: 10.150.000 đồng. Tổng số tiền N đánh bạc dưới hình thức số lô đề với Phạm Ngọc Dương S1 vào ngày 14-4-2022 là: 19.167.000 đồng. Như vậy, N thắng S1 số tiền 1.133.000 đồng.Số tiền này S1 chưa thanh toán cho N. N và S1 thỏa thuận thanh toán bằng tiền mặt ở quán cà phê.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 82/2023/HS-ST ngày 30-8-2023, Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai:
1. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 322; Điều 3; Điều 17; Điều 38; các điểm s, t khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 và Điều 50 của Bộ luật Hình sự, xử phạt:
- Phạm Ngọc Dương S1 22 (hai mươi hai) tháng tù về tội “Tổ chức đánh bạc”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án (được trừ thời hạn tạm giữ từ ngày 16-4-2022 đến ngày 24-4-2022).
2. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 322; Điều 3; Điều 17; Điều 38; các điểm s, t, v khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 50 của Bộ luật Hình sự, xử phạt:
- Hoàng Văn T5 22 (hai mươi hai) tháng tù về tội “Tổ chức đánh bạc”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án (được trừ thời hạn tạm giam từ ngày 15-4-2022 đến ngày 10-11-2022).
3. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 322; Điều 3; Điều 17; Điều 38; điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 50 của Bộ luật Hình sự, xử phạt:
- Nguyễn Phi Đ 22 (hai mươi hai) tháng tù về tội “Tổ chức đánh bạc”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án (được trừ thời hạn tạm giữ từ ngày 16-4-2022 đến ngày 24-4-2022.
4. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 322; Điều 3; Điều 17; Điều 38; điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 50 của Bộ luật Hình sự, xử phạt:
- Xà Quế N 20 (hai mươi) tháng tù về tội “Tổ chức đánh bạc”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án.
5. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 322; Điều 3; Điều 17; Điều 38; các điểm s, t khoản 1 Điều 51 và Điều 50 của Bộ luật Hình sự, xử phạt:
- Phạm Thị Ngọc L 15 (mười lăm) tháng tù về tội “Tổ chức đánh bạc”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án (được trừ thời hạn tạm giam từ ngày 15-4-2022 đến ngày 10-01-2023).
6. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 322; Điều 3; Điều 17; Điều 38; các điểm s, t khoản 1 Điều 51; Điều 50 của Bộ luật Hình sự, xử phạt:
- Đỗ Bá V 16 (mười sáu) tháng tù về tội “Tổ chức đánh bạc”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án (được trừ thời hạn tạm giam từ ngày 16-4-2022 đến ngày 27-9-2022).
7. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 322; Điều 3; Điều 17; Điều 38; các điểm s, t khoản 1 Điều 51 và Điều 50 của Bộ luật Hình sự, xử phạt:
- Văn C1 16 (mười sáu) tháng tù về tội “Tổ chức đánh bạc”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án (được khấu trừ thời hạn tạm giữ từ ngày 15-4-2022 đến ngày 24-4-2022).
8. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 322; Điều 3; Điều 17; Điều 38; các điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 (đối với tội Đánh bạc”); Điều 50 và Điều 55 của Bộ luật Hình sự, xử phạt:
- Nguyễn Thái S 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Tổ chức đánh bạc” và 03 (ba) năm tù về tội “Đánh bạc”. Tổng hợp hình phạt của cả hai tội, buộc bị cáo chấp hành chung là 05 (năm) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án (được trừ thời hạn tạm giam từ 16-4-2022 đến ngày 12-9-2022).
9. Áp dụng khoản 1 Điều 321; Điều 3; Điều 17; Điều 38; các điểm i, s, t khoản 1 Điều 51 và Điều 50 của Bộ luật Hình sự, xử phạt:
- Dương K 09 (chín) tháng tù về tội “Đánh bạc”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án (được trừ thời hạn tạm giữ từ ngày 15-4- 2022 đến ngày 24-4-2022).
10. Áp dụng khoản 1 Điều 321; Điều 3; Điều 17; Điều 38; các điểm i, s, t khoản 1 Điều 51 và Điều 50 của Bộ luật Hình sự, xử phạt:
- Lê Trọng T13 09 (chín) tháng tù về tội “Đánh bạc”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án (được khấu trừ thời hạn tạm giữ từ ngày 16- 4-2022 đến ngày 24-4-2022).
11. Áp dụng khoản 1 Điều 321; Điều 3; Điều 17; Điều 38; các điểm i, s, t khoản 1 Điều 51 và Điều 50 của Bộ luật Hình sự, xử phạt:
- Nguyễn Cao N 09 (chín) tháng tù về tội “Đánh bạc”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án.
12. Áp dụng khoản 1 Điều 321; Điều 3; Điều 17; Điều 38; điểm s, t, i khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 và Điều 50 của Bộ luật Hình sự, xử phạt:
- Trần Văn S2 09 (chín) tháng tù về tội “Đánh bạc”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án (được trừ thời hạn tạm giữ từ ngày 16-4- 2022 cho đến ngày 24-4-2022).
13. Áp dụng khoản 1 Điều 321; Điều 3; Điều 17; Điều 38; các điểm i, s, t khoản 1 Điều 51 và Điều 50 của Bộ luật Hình sự, xử phạt:
- Phạm Thị Ngọc L4 07 (bảy) tháng tù về tội “Đánh bạc”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về phần trách nhiệm hình sự đối với 04 bị cáo (Phạm Ngọc T4, T, Nguyễn Ngọc H5, Hàng Văn T23); quyết định hình phạt bổ sung; xử lý vật chứng, biện pháp tư pháp, án phí và thông báo quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 11-9-2023:
- Các bị cáo: Hoàng Văn T5, Phạm Ngọc Dương S1, Nguyễn Phi Đ, Đỗ Bá V, Xà Q, Văn C1, Phạm Thị Ngọc L, Dương K2, Trần Văn S2, Lê Trọng T13 và Nguyễn Cao N kháng cáo xin giảm hình phạt và được hưởng án treo;
- Bị cáo Phạm Thị Ngọc L4 kháng cáo xin hưởng án treo;
- Bị cáo Nguyễn Thái S kháng cáo xin giảm hình phạt.
Trên c sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ s vụ án đã được tranh tụng t i phiên tòa,
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1]. Ngày 11-9-2023, các bị cáo Hoàng Văn T5, Phạm Ngọc Dương S1, Nguyễn Phi Đ, Đỗ Bá V, Xà Q, Văn C1, Phạm Thị Ngọc L, Dương K2, Trần Văn S2, Lê Trọng T13 và Nguyễn Cao N kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và được hưởng án treo; bị cáo Phạm Thị Ngọc L4 kháng cáo xin hưởng án treo; bị cáo Nguyễn Thái S kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Đơn kháng cáo của các bị cáo là trong thời hạn quy định tại khoản 1 Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự, do đó Hội đồng xét xử quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm 13 bị cáo đều giữ nguyên kháng cáo;
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm căn cứ các điểm a, b khoản 1 Điều 355, Điều 356 và các điểm c, e khoản 1 Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự:
- Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thái S.
- Chấp nhận một phần kháng cáo của các bị cáo Hoàng Văn T5, Nguyễn Phi Đ, Đỗ Bá V và Phạm Thị Ngọc L; giảm hình phạt cho các bị cáo.
- Chấp nhận một phần kháng cáo của các bị cáo Xà Quế N7, Văn C1, Phạm Ngọc Dương S1, Trần Văn S2, Lê Trọng T13, Nguyễn Cao N, Dương K2 và Phạm Thị Ngọc L4; giữ nguyên hình phạt và cho các bị cáo được hưởng án treo.
Các bị cáo không tranh luận; nói lời sau cùng, tất cả các bị cáo đều tỏ ra ăn năn, hối hận về hành vi phạm tội của mình và đề nghị được chấp nhận kháng cáo.
[2].Xét kháng cáo của các bị cáo:
[2.1]. Về tội danh:
[2.1.1]. Nhóm các bị cáo “Tổ chức đánh bạc”:
Quá trình điều tra xác định được trong ngày 14-4-2022, các bị cáo thực hiện hành vi tổ chức đánh bạc như sau: (1) Phạm Thị Ngọc L nhận bảng số đề của 03 đại lý cấp dưới với tổng số tiền là 108.299.000 đồng, giúp sức cho L trong hoạt động này còn có Phạm Ngọc T4 là chồng của L, (2) Phạm Ngọc D1 S2 là đại lý cấp dưới của L, nhận thầu số lô, số đề của 11 con bạc với tổng số tiền là 181.239.000 đồng, (3) Hoàng Văn T5 là đại lý cấp dưới của Phạm Ngọc Dương S1, T5 nhận thầu số lô, số đề của 12 con bạc với tổng số tiền là 103.129.000 đồng, (4) Đỗ Bá V là người tự nhận phơi đề và thuê (5) Xà Quế Ngọc giúp sức nhận phơi đề tổng hợp tính toán thắng thua, V nhận số lô, số đề của 05 con bạc với tổng số tiền là 114.923.000 đồng, (6) Nguyễn Phi Đ và (7) Văn C1 đều là đại lý cấp dưới của Đỗ Bá V, Đ nhận số lô, số đề của 03 con bạc với tổng số tiền là 95.273.000 đồng, còn C1 nhận số lô, số đề của 03 con bạc với tổng số tiền là 116.703.000 đồng.
Quá trình tổ chức nhận số lô, số đề người hưởng lợi ít nhất với là 1.997.000 đồng, người nhiều nhất hưởng lợi số tiền là 36.723.000 đồng.
Với hành vi phạm tội như đã nêu trên, Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt các bị cáo: (1) Phạm Thị Ngọc L, (2) Phạm Ngọc Dương S1, (3) Hoàng Văn T5, (4) Đỗ Bá V, (5) Xà Q, (6) Nguyễn Phi Đ và (7) Văn Chương về tội “Tổ chức đánh bạc”, với tình tiết định khung “Tổng số tiền, hiện vật dùng để đánh bạc trong cùng 01 lần trị giá 20.000.000 đồng trở lên” theo điểm c khoản 1 Điều 322 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ.
[2.1.2]. Nhóm các bị cáo “Đánh bạc”:
Quá trình điều tra, bắt quả tang, đối chiếu phơi đề của các chủ đề xác định được: (1) Dương K, (2) Phạm Thị Ngọc L4, (3) Nguyễn Cao N và (4) Trần Văn S2 đánh bạc với Phạm Ngọc Dương S1; trong đó, K2 đánh bạc với số tổng số tiền theo đài miền T là 5.832.000 đồng, đài miền B là 3.923.000 đồng; L4 đánh bạc với số tổng số tiền là 5.773.000 đồng; N đánh bạc với số tổng số tiền là 19.167.000 đồng; Trần Văn S2 đánh bạc với số tổng số tiền là 5.040.000 đồng và (5) Lê Trọng T13 đánh bạc với Văn C1 số tiền 11.912.000 đồng.
Với hành vi phạm tội như đã nêu trên, Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt các bị cáo: (1) Dương K, (2) Phạm Thị Ngọc L4, (3) Nguyễn Cao N, (4) Trần Văn S2, (5) Lê Trọng T24 tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự là đúng pháp luật.
[2.1.3]. Bị cáo “Tổ chức đánh bạc” và “Đánh bạc”:
Nguyễn Thái S là đại lý cấp trên của Văn C1; ngày 14-4-2022, S nhận số lô, số đề của các đại lý với tổng số tiền đánh bạc là 57.305.000 đồng. Ngoài ra, quá trình điều tra còn phát hiện S dùng điện thoại di động tham gia đánh bạc dưới hình thức cá độ bóng đá với 05 tài khoản với 244 trận đấu bóng đá, số tiền đánh bạc ở mỗi trận là từ 6.000.000 đồng trở lên, trận có số tiền đánh bạc lớn nhất là 60.240.000 đồng.
Với hành vi phạm tội như đã nêu trên, Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai xử phạt Nguyễn Thái S về các tội “Tổ chức đánh bạc”, với tình tiết định khung “Tổng số tiền, hiện vật dùng để đánh bạc trong cùng 01 lần trị giá 20.000.000 đồng trở lên” theo điểm c khoản 1 Điều 322 của Bộ luật Hình sự và tội “Đánh bạc”,với 02 tình tiết định khung “Tiền hoặc hiện vật dùng để đánh bạc trị giá 50.000.000 đồng trở lên” và “Sử dụng mạng internet, mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương tiện điện tử để phạm tội” theo các điểm b, c khoản 2 Điều 321 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.
[2.2]. Về hình phạt:
Các bị cáo đều có đủ khả năng nhận thức và điều khiển được hành vi của mình; biết rõ hành vi tổ chức đánh bạc và đánh bạc bằng hình thức cá độ bóng đá qua mạng Internet hoặc ghi số lô số đề được thua bằng tiền là vi phạm pháp luật, nhưng vì ham chơi, hám lợi các bị cáo đã nhiều lần tổ chức đánh bạc và đánh bạc trái phép. Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, ảnh hưởng đến trật tự, trị an tại địa phương. Do đó, cần phải xử phạt các bị cáo một hình phạt nghiêm khắc, tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của các bị cáo. Đây là vụ án có nhiều bị cáo cùng phạm tội, nhưng phạm tội với tính chất, mức độ khác nhau, nên Hội đồng xét xử phúc thẩm sẽ xem xét hành vi, đánh giá vai trò tham gia để cụ thể hóa mức hình phạt cho phù hợp đối với từng bị cáo.
- Đối với Nguyễn Thái S: Nguyễn Thái S tổ chức cho nhiều đối tượng ghi lô đề rồi chuyển bảng ghi lô đề cho đối tượng tên L6 và trực tiếp bán lô đề cho bị cáo Văn C1 và vợ “Tấn chợ”; trong ngày 14-4-2023, S chuyển cho đối tượng tên L6 34.900.000 đồng, hưởng lợi từ việc ghi lô đề 2.491.860 đồng; tổ chức bán lô đề cho Văn C1 và vợ T21 chợ 57.305.000 đồng (chưa thanh toán). Ngoài ra, trong thời gian từ tháng 3-2022 đến tháng 4-2022, S sử dụng điện thoại di động kết nối mạng Internet tham gia đánh bạc dưới hình thức cá độ bóng đá, với tổng số tiền là 3.951.230.000 đồng.
- Đối với các bị cáo khác:
(1) Phạm Thị Ngọc L nhận bảng số đề của 03 đại lý cấp dưới với tổng số tiền là 108.299.000 đồng, giúp sức cho L trong hoạt động này còn có Phạm Ngọc T4 là chồng của L, (2) Phạm Ngọc D1 S là đại lý cấp dưới của L, nhận thầu số lô, số đề của 11 con bạc, với tổng số tiền là 181.239.000 đồng, (3) Đỗ Bá V là người tự nhận phơi đề và thuê Xà Quế N7 giúp sức nhận phơi đề tổng hợp tính toán thắng thua, bị cáo nhận số lô, số đề của 05 con bạc, với tổng số tiền là 114.923.000 đồng, (4) Hoàng Văn T5 là đại lý cấp dưới của Phạm Ngọc Dương S1, T5 nhận thầu số lô, số đề của 12 con bạc, với tổng số tiền là 103.129.000 đồng, (5) Nguyễn Phi Đ ghi lô, đề cho các con bạc thông qua kết quả xổ số kiến thiết các đài miền T và miền B, sau đó một phần chuyển cho Đỗ Bá V và một số đối tượng khác, một phần giữ lại để thắng thua với con bạc; trong ngày 14-4-2022, bị cáo tổ chức đánh bạc với tổng số tiền là 95.273.000 đồng, (6) Xà Q được Đỗ Bá V thuê để cùng V tổ chức đánh bạc dưới hình thức mua, bán số lô, số đề và được trả công 200.000 đồng/01 ngày. Sau khi kết thúc xổ số miền B, thì N7 qua nhà V để tính toán tiền đánh bạc thắng thua giữa V với các đại lý đầu trên, đầu dưới, các con bạc; thực hiện thanh toán tiền thắng thua; chia (san) bảng lô, đề giúp V, báo cáo số tiền thanh toán với các đại lý, con bạc và số tiền đã chi hàng ngày cho V, (7) Văn Chương tổ chức đánh bạc dưới hình thức số lô, số đề và làm đại lý cấp dưới cho Đỗ Bá V. Căn cứ vào các dữ liệu và tài liệu thu thập được xác định các số lô số đề tổ chức ngày 14-4-2022, Văn C1 thu lợi 14.156.000 đồng, (8) Dương K2 tổ chức ghi số lô số đề cho các con bạc theo các đài xổ số miền T5 và miền B, sau đó chuyển lên cho Phạm Ngọc Dương S1 qua tin nhắn SMS để hưởng tiền chênh lệch. Tổng số tiền K2 tổ chức đánh bạc đài miền T là 5.832.000 đồng (do K2 bị bắt lúc đài miền B chưa xổ, không tính toán số tiền thắng của các con bạc, nên K2 chỉ chịu trách nhiệm số tiền đánh bạc đài miền Bắc với số tiền là 3.923.000 đồng), (9) Trần Văn S2 mua số lô đề của Phạm Ngọc D1 Sơn 14-4-2022 là 5.040.000 đồng; ngoài ra, ngày 24-02-2022, S2 mua của Phạm Ngọc Dương S1 bao lô số của đài tỉnh Bình Định với số tiền là 1.260.000 đồng và thắng 7.000.000 đồng. Tổng số tiền hai lần đánh bạc là 13.300.000 đồng, (10) Lê Trọng T13 mua số lô, số đề của Văn C1, với tổng số tiền là 10.912.000 đồng, (11) Nguyễn Cao N mua số lô, số đề của Phạm Ngọc Dương S1, với số tiền là 19.167.000 đồng và (12) Phạm Thị Ngọc L4 nhận số lô, số đề củaPhạm Ngọc Dương S7 (S7 là em ruột của L4) với tổng số tiền là 5.773.000 đồng.
Các bị cáo kháng cáo xin giảm hình phạt và được hưởng án treo. Xét thấy, tại phiên tòa cả 13 bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; quá trình điều tra đều tích cực giúp cơ quan tiến hành tố tụng trong việc giải quyết vụ án; trước khi phạm tội, Hoàng Văn T5 từng phục vụ trong lực lượng vũ trang, được Giám đốc Công an tỉnh G tặng Giấy khen, vì có thành tích xuất sắc và năm 2011, được Chủ tịch UBND thị xã A tặng Giấy khen, do có thành tích trong truy bắt đối tượng trộm cắp tài sản, gia đình bị cáo có công với cách mạng, bố được tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng Ba, mẹ được tặng thưởng Huy chương kháng chiến hạng Nhất; Xà Q có ông nội là người có công với cách mạng được tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng Nhất, Huân chương quân công hạng Ba, Huân chương chiến thắng hạng Nhất, Huân chương chiến sĩ vẻ vang hạng Nhất, hạng N11 và hạng Ba, Huân chương bảo vệ tổ quốc hạng Nhì, sau khi phạm tội bị cáo ra đầu thú, bị cáo là lao động chính trực tiếp nuôi dưỡng thân nhân không còn khả năng lao động (có xác nhận của chính quyền địa phương); các bị cáo Dương K2, Trần Văn S2, Lê Trọng T13, Nguyễn Cao N và Phạm Thị Ngọc L4 “Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng”. Quá trình chuẩn bị xét xử phúc thẩm các bị cáo đều tự nguyện nộp tiền phạt và tiền truy thu, theo Án lệ số 48/2021/AL ngày 25-11-2021 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, thì đây được coi là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Như vậy, tại cấp phúc thẩm các bị cáo có thêm nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nên Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận kháng cáo của các bị cáo.
[2.3]. Về hình phạt bổ sung:
Ngoài hình phạt tù, thì Tòa án cấp sơ thẩm còn áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo. Để bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật về việc xử lý đối với các hành vi tổ chức đánh bạc và đánh bạc trái phép, Hội đồng xét xử phúc thẩm giữ nguyên hình phạt bổ sung mà Tòa án cấp sơ thẩm đã quyết định đối với các bị cáo.
[3]. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị, Hội đồng xét xử phúc thẩm không xem xét.
[4]. Về án phí hình sự phúc thẩm:
Các bị cáo đều được chấp nhận kháng cáo, nên không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355 và các điểm c, e khoản 1 Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
- Chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Thái S, Hoàng Văn T5, Phạm Ngọc Dương S1, Nguyễn Phi Đ, Đỗ Bá V, Xà Q, Văn C1, Phạm Thị Ngọc L, Dương K2, Trần Văn S2, Lê Trọng T13, Nguyễn Cao N và Phạm Thị Ngọc L4.
- Sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 82/2023/HSST ngày 30-8-2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai về phần Trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo Nguyễn Thái S, Hoàng Văn T5, Phạm Ngọc Dương S1, Nguyễn Phi Đ, Đỗ Bá V, Xà Q, Văn C1, Phạm Thị Ngọc L, Dương K2, Trần Văn S2, Lê Trọng T13, Nguyễn Cao N và Phạm Thị Ngọc L4. 2. Về trách nhiệm hình sự:
2.1. Áp dụng các điểm b, c khoản 1 Điều 321; điểm c khoản 1 Điều 322; các điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 (đối với tội Đánh bạc”) và Điều 55 của Bộ luật Hình sự, xử phạt:
- Nguyễn Thái S 03 (ba) năm tù về tội “Đánh bạc” và 01 (một) tù về tội “Tổ chức đánh bạc”. Tổng hợp hình phạt của hai tội, buộc bị cáo chấp hành chung là 04 (bốn) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo thi hành án (được trừ thời gian tạm giam từ 16-4-2022 đến ngày 12-9-2022).
2.2. Áp dụng điểm c khoản 1, khoản 3 Điều 322; các điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 và khoản 1 Điều 54 của Bộ luật Hình sự, xử phạt:
- Nguyễn Phi Đ 09 (chín) tháng tù về tội “Tổ chức đánh bạc”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án (được trừ thời hạn tạm giữ từ ngày 16-4-2022 đến ngày 24-4-2022.
- Phạt bổ sung: 20.000.000 đồng (hai mươi triệu đồng) để sung ngân sách Nhà nước; bị cáo đã nộp xong tiền phạt, theo Biên lai thu tiền số 0001086 ngày 28-11- 2023 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Gia Lai.
2.3. Áp dụng điểm c khoản 1, khoản 3 Điều 322; các điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51 và khoản 3 Điều 54 của Bộ luật Hình sự, xử phạt:
- Phạm Thị Ngọc L 08 (tám) tháng 25 (hai mươi lăm) ngày tù về tội “Tổ chức đánh bạc”, nhưng được trừ thời hạn tạm giam từ ngày 15-4-2022 đến ngày 10- 01-2023; bị cáo đã chấp hành xong hình phạt tù.
- Phạt bổ sung: 20.000.000 đồng (hai mươi triệu đồng) để sung ngân sách Nhà nước; bị cáo đã nộp xong tiền phạt, theo Biên lai thu tiền số 0001155 ngày 11-9- 2023 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Gia Lai.
2.4. Áp dụng điểm c khoản 1, khoản 3 Điều 322; các điểm s, t, v khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 và khoản 3 Điều 54 của Bộ luật Hình sự, xử phạt:
- Hoàng Văn T5 06 (sáu) tháng 25 (hai mươi lăm) ngày tù về tội “Tổ chức đánh bạc”, nhưng được trừ thời hạn tạm giam từ ngày 15-4-2022 đến ngày 10-11- 2022; bị cáo đã chấp hành xong hình phạt tù.
- Phạt bổ sung: 20.000.000 đồng (hai mươi triệu đồng) để sung ngân sách Nhà nước; bị cáo đã nộp xong tiền phạt, theo Biên lai thu tiền số 0000791 ngày 24-11- 2023 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Gia Lai.
2.5. Áp dụng khoản 1 Điều 321; các điểm i, s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt:
- Nguyễn Cao N 06 (sáu) tháng tù về tội “Đánh bạc”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo thi hành án.
2.6. Áp dụng điểm c khoản 1, khoản 3 Điều 322; các điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51 và khoản 3 Điều 54 của Bộ luật Hình sự, xử phạt:
- Đỗ Bá V 05 (năm) tháng 11 (mười một) ngày tù về tội “Tổ chức đánh bạc”, nhưng được trừ thời hạn tạm giam từ ngày 16-4-2022 đến ngày 27-9-2022; bị cáo đã chấp hành xong hình phạt tù.
- Phạt bổ sung: 20.000.000 đồng (hai mươi triệu đồng) để sung ngân sách Nhà nước; bị cáo đã nộp xong tiền phạt, theo Biên lai thu tiền số 0000790 ngày 24-11- 2023 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Gia Lai.
2.7. Áp dụng điểm c khoản 1, khoản 3 Điều 322; các điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 và Điều 65 của Bộ luật Hình sự, xử phạt:
- Phạm Ngọc Dương S1 22 (hai mươi hai) tháng tù về tội “Tổ chức đánh bạc”, nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách 44 (bốn mươi bốn) tháng, kể từ ngày tuyên án phúc thẩm.
- Phạt bổ sung: 20.000.000 đồng (hai mươi triệu đồng) để sung ngân sách Nhà nước; bị cáo đã nộp xong tiền phạt, theo Biên lai thu tiền số 0000792 ngày 24-11- 2023 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Gia Lai.
2.8. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 322; các điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 65 của Bộ luật Hình sự, xử phạt:
- Xà Quế N 20 (hai mươi) tháng tù về tội “Tổ chức đánh bạc”, nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách 40 (bốn mươi) tháng, kể từ ngày tuyên án phúc thẩm.
2.9. Áp dụng điểm c khoản 1, khoản 3 Điều 322; các điểm s, t khoản 1 Điều 51 và Điều 65 của Bộ luật Hình sự, xử phạt:
- Văn C116 (mười sáu) tháng tù về tội “Tổ chức đánh bạc”, nhưng cho hưởng án treo; thời gian thử thách 32 (ba mươi hai) tháng, kể từ ngày tuyên án phúc thẩm.
- Phạt bổ sung: 20.000.000 đồng (hai mươi triệu đồng) để sung ngân sách Nhà nước; bị cáo đã nộp xong tiền phạt, theo Biên lai thu tiền số 0000X ngày 24-11- 2023 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Gia Lai.
2.10. Áp dụng khoản 1 Điều 321; các điểm i, s, t khoản 1 Điều 51 và Điều 65 của Bộ luật Hình sự, xử phạt:
- Dương K 09 (chín) tháng tù về tội “Đánh bạc” nhưng cho hưởng án treo;
thời gian thử thách 18 (mười tám) tháng, kể từ ngày tuyên án phúc thẩm.
2.11. Áp dụng khoản 1 Điều 321; Điều 3; Điều 17; các điểm i, s, t khoản 1 Điều 51 và Điều 65 của Bộ luật Hình sự, xử phạt:
- Lê Trọng T13 09 (chín) tháng tù về tội “Đánh bạc”, nhưng cho hưởng án treo; thời gian thử thách 18 (mười tám) tháng, kể từ ngày tuyên án phúc thẩm.
2.12. Áp dụng khoản 1 Điều 321; các điểm s, t, i khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 65 của Bộ luật Hình sự, xử phạt:
- Trần Văn S2 09 (chín) tháng tù về tội “Đánh bạc”, nhưng cho hưởng án treo;
thời gian thử thách 18 (mười tám) tháng, kể từ ngày tuyên án phúc thẩm.
2.13. Áp dụng khoản 1 Điều 321; các điểm i, s, t khoản 1 Điều 51 và Điều 65 của Bộ luật Hình sự, xử phạt:
- Phạm Thị Ngọc L4 07 (bảy) tháng tù về tội “Đánh bạc”, nhưng cho hưởng án treo; thời gian thử thách 14 (mười bốn) tháng, kể từ ngày tuyên án phúc thẩm.
Giao các bị cáo: Phạm Ngọc Dương S1, Xà Quế N7, Văn C1, Dương K2, Lê Trọng T13 và Phạm Thị Ngọc L4 cho UBND phường A, thị xã A, tỉnh Gia Lai; giao bị cáo Trần Văn S2 cho UBND phường T, thị xã A, tỉnh Gia Lai giám sát, giáo dục các bị cáo trong thời gian thử thách. Trường hợp các bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 Luật Thi hành án hình sự; gia đình các bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục các bị cáo.
Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo kháng nghị.
4. Về án phí hình sự phúc thẩm:
Căn cứ khoản 1 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm h khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/NQUBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Các bị cáo Nguyễn Thái S, Hoàng Văn T5, Phạm Ngọc Dương S1, Nguyễn Phi Đ, Đỗ Bá V, Xà Q, Văn C1, Phạm Thị Ngọc L, Dương K2, Trần Văn S2, Lê Trọng T13, Nguyễn Cao N và Phạm Thị Ngọc L4 không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 563/2023/HS-PT về tội đánh bạc (hình thức đánh số lô, số đề)
Số hiệu: | 563/2023/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 30/11/2023 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về