TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUỲNH PHỤ, TỈNH THÁI BÌNH
BẢN ÁN 62/2024/HS-ST NGÀY 18/07/2024 VỀ TỘI DÂM Ô ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 16 TUỔI
Ngày 18 tháng 7 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 53/2024/TLST-HS ngày 14 tháng 6 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 59/2024/QĐXXST- HS ngày 05 tháng 7 năm 2024 đối với bị cáo:
Nguyễn Tiến H, sinh ngày 28/02/1996 tại huyện Q, tỉnh Thái Bình Nơi cư trú: thôn P, xã C, huyện Q, tỉnh Thái Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Công giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Văn V (đã chết) và bà: Đinh Thúy K, sinh năm 1968; vợ, con: Chưa có.
Tiền sự: không;
Tiền án: Bản án hình sự sơ thẩm số 234/2017/HSST, ngày 29/11/2017 Tòa án nhân dân thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh xử phạt 07 năm tù về tội “Cướp tài sản” theo khoản 2 Điều 133 Bộ luật Hình sự năm 1999. Bản án hình sự phúc thẩm số 25/2018/HSPT, ngày 28/02/2018, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh, giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm xử phạt 7 năm tù, chấp hành xong án phạt tù ngày 20/7/2023, thi hành xong án phí hình sự sơ thẩm, phúc thẩm ngày 10/5/2024. Nhân thân: năm 2014 tham gia nghĩa vụ quân sự đến năm 2016 xuất ngũ về địa phương.
Bị tạm giữ từ ngày 27/3/2024 đến ngày 02/4/2024 chuyển tạm giam. Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Q, tỉnh Thái Bình.
(Bị cáo trích xuất có mặt tại phiên toà).
Bị hại:
- Cháu Nguyễn Kim N, sinh ngày 09/8/2009 (có đơn xin xét xử vắng mặt) Người đại diện hợp pháp của bị hại:
+ Anh Nguyễn Xuân T, sinh năm 1974 (là bố đẻ) (vắng mặt)
+ Chị Huỳnh Thị Thu H1, sinh năm 1971 (là mẹ đẻ) (vắng mặt) Đều trú tại thôn C, xã C, huyện Q, tỉnh Thái Bình - Cháu Vũ Linh C, sinh ngày 02/01/2009 (có đơn xin xét xử vắng mặt) Người đại diện hợp pháp của bị hại:
+ Anh Vũ Tràng T1, sinh năm 1982 (là bố đẻ) (vắng mặt)
+ Chị Phạm Thị Q, sinh năm 1986 (là mẹ đẻ) (vắng mặt) Đều trú tại: thôn B, xã Q, huyện Q, tỉnh Thái Bình
Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị hại N và C: Bà Nguyễn Thị H2 – Trợ giúp viên pháp lý thuộc trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh T (có mặt)
Người làm chứng:
- Bà Đinh Thúy K, sinh năm 1966 (vắng mặt) Nơi cư trú: thôn P, xã C, huyện Q, tỉnh Thái Bình
- Anh Nguyễn Văn L, sinh năm 1980 (vắng mặt) Nơi cư trú: thôn C, xã H, huyện H, tỉnh Thái Bình
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Nguyễn Tiến H mới chấp hành xong án phạt tù về địa phương, chưa có việc làm ổn định, thường đi lang thang, các ngày 22/02/2024 và 26/3/2024 tại đường thôn B và đường T, xã Q, huyện Q, H đã 02 lần dùng tay bóp vú 02 nữ học sinh lớp 9A1 Trường trung học cơ sở (THCS) xã Q, huyện Q, đều là người dưới 16 tuổi, để thỏa mãn nhu cầu sinh lý bản thân, cụ thể:
Lần thứ 1: Trưa ngày 22/02/2024, H mặc bộ quần áo thể thao (quần đùi, áo phông không cổ, in số 17) màu đỏ xanh, đội mũ lưỡi trai màu đen, đeo khẩu trang trắng, điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda, số loại Wave Alpha, biển số 17B3- xxxx, màu sơn trắng bạc đen, theo đường liên xã, hướng xã Q đi xã Q để về nhà.
Khoảng 11 giờ 45 phút, H điều khiển xe đến ngã tư giao nhau giữa đường liên xã với đường thôn B, thuộc thôn B, xã Q, huyện Q nhìn thấy có 01 nữ sinh, mặc ngoài áo khoác đồng phục màu xanh trắng, đội mũ lưỡi trai màu trắng, sau biết là Vũ Linh C, sinh ngày 02/01/2009, cư trú: thôn B, xã Q, huyện Q, học sinh lớp 9A1 Trường THCS xã Q, huyện Q, điều khiển xe đạp mi ni màu đen, đi trên đường T, hướng đền V1 Bà đi đình làng B. Quan sát xung quanh vắng người H nảy sinh ý bóp vú C nên đã điều khiển xe mô tô rẽ trái đi theo xe Chi đến gần cổng đình làng B thì giả vờ gọi hỏi “Em có biết bạn Diệu L1 học lớp 8A3 không?”. Chi hai tay giữ ghi đông (tay lái) vừa đạp xe vừa đáp “Em không biết”. Đi tiếp khoảng 02 đến 03 mét, H điều khiển xe mô tô vượt lên bên trái, áp sát, đi song song với xe đạp. Khi khoảng cách giữa hai phương tiện khoảng 0,5 mét, H điều khiển xe bằng tay trái, giơ tay phải luồn qua nách bóp vú trái C rồi tăng tốc độ điều khiển xe đi thẳng còn C tiếp tục đạp xe về nhà.
Lần thứ 2: Chiều ngày 26/3/2024, H mặc ngoài áo khoác đồng phục của Trường THPT N1 màu đen trắng, quần dài màu đen, đội mũ lưỡi trai màu đen, đeo khẩu trang trắng, điều khiển xe mô tô biển số 17B3-xxxx đi từ nhà đến xã Q, huyện Q chơi. Khoảng 13 giờ 30 phút, H điều khiển xe tới đoạn đường gần cổng đình làng B, thôn B, xã Q, huyện Q nhìn thấy có 01 nữ sinh, mặc ngoài áo chống nắng màu xanh, đội mũ lưỡi trai màu trắng, sau biết là Nguyễn Kim N, sinh ngày 09/8/2009, cư trú: thôn C, xã C, huyện Q, học sinh lớp 9A1 Trường THCS xã Q, huyện Q, điều khiển xe đạp màu trắng đi ngược chiều. Quan sát xung quanh vắng người H nảy sinh ý bóp vú N nên đã điều khiển xe sang dừng ở chiều đường bên trái. N đi đến, H giả vờ gọi hỏi “Lớp 9A1, 9A2 có đi học không?”. N dừng xe, ngồi trên yên, hai tay nắm tay lái (ghi đông), chân chống đất, song song cách bên trái xe mô tô khoảng 0,5 mét, đáp “Có”. Lúc này, H giơ tay trái luồn qua nách bóp vú trái N rồi tăng tốc độ điều khiển xe đi thẳng còn N tiếp tục đạp xe về nhà.
Sau khi bị xâm hại, C và N đã kể lại sự việc cho bố, mẹ. Ngày 27/3/2024, bố đẻ N là ông Nguyễn Xuân T, sinh năm 1974, cư trú: thôn C, xã C, huyện Q và bố đẻ C là ông Vũ Tràng T1, sinh năm 1982, cư trú: thôn B, xã Q, huyện Q đến Công an xã Q, huyện Q trình báo. Cùng ngày, H đến Công an xã Q đầu thú và giao chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda, số loại Wave Alpha, biển số 17B3-xxxx cho Công an xã quản lý. Ngay sau khi tiến hành một số hoạt động kiểm tra, xác minh ban đầu Công an xã Q đã chuyển hồ sơ, tài liệu, bàn giao H cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Q giải quyết theo thẩm quyền.
Cáo trạng số 62/CT-VKSQP ngày 13/6/2024 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình đã truy tố Nguyễn Tiến H về tội “Dâm ô đối với người dưới 16 tuổi” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 146 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa:
Bị cáo Nguyễn Tiến H khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bị cáo như đã nêu trong bản Cáo trạng.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại bà Nguyễn Thị H2 trình bày: Nhất trí với quan điểm của Viện kiểm sát, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bị cáo một mức án vừa tuân thủ pháp luật vừa mang tính giáo dục và nhân văn nhất tương ứng với hành vi phạm tội của bị cáo, không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình vẫn giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Nguyễn Tiến H và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo phạm tội “Dâm ô đối với người dưới 16 tuổi”. Đề nghị áp dụng điểm b khoản 2 Điều 146; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 50; Điều 38 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo mức án từ 03 năm 06 tháng đến 03 năm 09 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị tạm giữ 27/3/2024; đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Ngoài ra, còn đề nghị về nghĩa vụ nộp án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Trong phần tranh luận bị cáo, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại không tranh luận với Kiểm sát viên. Bị cáo nói lời sau cùng xin lỗi bị hại đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về quyết định, hành vi tố tụng: Quyết định tố tụng, hành vi tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Q, tỉnh Thái Bình, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Xét thấy, lời khai nhận tội của bị cáo Nguyễn Tiến H tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra có trong hồ sơ vụ án (bút lục số 46 - 48; 108 - 112; 123 - 130); phù hợp với Biên bản tiếp nhận người phạm tội ra đầu thú do Công an xã Q, huyện Q lập hồi 17 giờ 30 phút ngày 27/3/2024 tại Công an xã Q, huyện Q, tỉnh Thái Bình (bút lục số 08 - 09); Biên bản tạm giữ tài sản, đồ vật do Công an xã Q, huyện Q lập hồi 20 giờ 50 phút ngày 27/3/2024 tại Công an xã Q, huyện Q, tỉnh Thái Bình (bút lục số 10); Biên bản kiểm tra, xác định nơi xảy ra vụ việc, sơ đồ nơi xảy ra các vụ việc do Công an xã Q, huyện Q lập hồi 15 giờ 15 phút và 20 giờ cùng ngày 27/3/2024, tại xã Q, huyện Q, tỉnh Thái Bình (bút lục số 11 - 16); Biên bản làm việc trích xuất dữ liệu hình ảnh từ camera an ninh của đình làng B do Công an xã Q, huyện Q lập hồi 20 giờ 30 phút ngày 27/3/2024, tại đình làng B, thôn B, xã Q, huyện Q, tỉnh Thái Bình (bút lục số 17 - 19); Biên bản nhận dạng đối tượng (qua ảnh chụp sau lưng) và giọng nói của Nguyễn Tiến H do Công an xã Q, huyện Q lập hồi 19 giờ 10 phút ngày 27/3/2024, tại Công an xã Q, huyện Q, tỉnh Thái Bình, kết quả: sau khi xem ảnh và nghe giọng nói của H các bị hại Vũ Linh C và Nguyễn Kim N xác định người trong ảnh có vóc dáng và giọng nói giống người đã có hành vi dâm ô đối với các bị hại (bút lục số 27 - 28); Biên bản làm việc xem xét đặc điểm quần áo (kèm bản ảnh) do Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Q lập hồi 09 giờ ngày 06/4/2024 tại nhà của Nguyễn Tiến H (bút lục số 161; 182 - 184); Biên bản ghi lời khai của bị hại Nguyễn Kim N (bút lục số 24 - 26; 137 - 140); Vũ Linh C (bút lục số 36 - 38; 133 - 136); Biên bản ghi lời khai của đại diện bị hại anh Nguyễn Xuân T (bút lục số 05, 141 - 142); anh Vũ Tràng T1 (bút lục số 34; 143 - 144); Biên bản ghi lời khai của người làm chứng bà Đinh Thúy K (bút lục số 153; 224 - 225); anh Nguyễn Văn L (bút lục số 151 - 152). Cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.
Từ những chứng cứ nêu trên, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ để kết luận: Các ngày 22/02/2024 và 26/3/2024, tại đường T và đường T, xã Q, huyện Q, Nguyễn Tiến H đã 02 lần dùng tay bóp vú 02 nữ học sinh Vũ Linh C, sinh ngày 02/01/2009 và Nguyễn Kim N, sinh ngày 09/8/2009, lớp 9A1 Trường THCS xã Q, huyện Q, đều là người dưới 16 tuổi, để thỏa mãn nhu cầu sinh lý bản thân. Hành vi của bị cáo đã phạm tội “Dâm ô đối với người dưới 16 tuổi” với tình tiết định khung quy định tại điểm b khoản 2 Điều 146 Bộ luật Hình sự như Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình đã truy tố là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Điều 146. Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi “1. Người nào đủ 18 tuổi trở lên mà có hành vi dâm ô đối với người dưới 16 tuổi không nhằm mục đích giao cấu hoặc không nhằm thực hiện các hành vi quan hệ tình dục khác, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm:
b) Phạm tội 02 lần trở lên;
...
4. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm”.
[3] Về tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trái pháp luật, trái đạo đức, đã xâm phạm đến thể chất tinh thần, sinh lý, sự phát triển bình thường của cháu C và cháu N. Hành vi của bị cáo gây bức sức dư luận xã hội, gây mất trật tự địa phương. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, đã từng bị xử phạt tù về tội “Cướp tài sản” không lấy đó làm bài học mà tiếp tục phạm tội là thể hiện ý thức coi thường pháp luật của bị cáo.
[4] Xét về nhân thân các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, Hội đồng xét xử xét thấy:
Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu năm 2017 đã bị xử phạt 07 năm tù về tội “Cướp tài sản” chưa được xóa án tích.
Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo Nguyễn Tiến H đã bị kết án, chưa được xóa án tích lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý nên bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, tự nguyện bồi thường thiệt hại nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Ngoài ra, do bị cáo tự nguyện đầu thú, đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự, đại diện các bị hại có đơn xin giảm hình phạt nên bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
[5] Từ những nhận định nêu trên, đối chiếu với các quy định của pháp luật và xét đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là có căn cứ, Hội đồng xét xử thấy cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội trong một thời gian nhất định mới có tác dụng răn đe, cải tạo, giáo dục bị cáo nói riêng và đấu tranh, phòng ngừa tội phạm nói chung.
[6] Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra, bị cáo Nguyễn Tiến H đã tác động để mẹ đẻ là bà Đinh Thúy K thỏa thuận, bồi thường thiệt hại cho bị hại, đại diện bị hại Nguyễn Kim N số tiền 1.000.000 đồng. Bị hại Vũ Linh C và đại diện bị hại không yêu cầu bồi thường. Bà K không yêu cầu bị cáo H phải hoàn trả số tiền bồi thường.
[7] Về xử lý vật chứng: xe mô tô nhãn hiệu Honda, số loại Wave Alpha, biển số 17B3-xxxx, màu sơn trắng bạc đen là của bà Đinh Thúy K, sinh năm 1968, cư trú: thôn P, xã C, huyện Q, tỉnh Thái Bình (mẹ đẻ bị cáo). Quá trình điều tra xác định, việc bị cáo H sử dụng xe mô tô làm phương tiện đi và thực hiện hành vi phạm tội bà K không biết. Do vậy, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã ra quyết định xử lý vật chứng trả xe mô tô cho bà K là đúng. Đối 02 bộ quần áo bị cáo H mặc khi thực hiện hành vi phạm tội kết thúc việc lập biên bản xem xét Cơ quan điều tra đã trả cho gia đình bị cáo H quản lý.
[8] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo Nguyễn Tiến H phải chịu án phí hình sự sơ thẩm; bị cáo, bị hại, người đại diện hợp pháp của bị hại, người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của bị hại có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Tiến H phạm tội “Dâm ô đối với người dưới 16 tuổi”.
2. Hình phạt: Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 146; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 50 và Điều 38 Bộ luật Hình sự.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Tiến H 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị tạm giữ 27/3/2024.
3. Về trách nhiệm dân sự: Không đặt ra giải quyết.
4. Về xử lý vật chứng: Không đặt ra giải quyết.
5. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo Nguyễn Tiến H phải nộp số tiền 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
6. Về quyền kháng cáo: Áp dụng các Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự, bị cáo Nguyễn Tiến H, người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của bị hại có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (18/7/2024). Bị hại, đại diện hợp pháp của bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ nhận được bản án hoặc niêm yết, tống đạt hợp lệ bản án.
Bản án về tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi số 62/2024/HS-ST
Số hiệu: | 62/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Quỳnh Phụ - Thái Bình |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 18/07/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về